Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dạy học ca dao hài hước trong sách giáo khoa ngữ văn 10 theo đặc trưng thể loại...

Tài liệu Dạy học ca dao hài hước trong sách giáo khoa ngữ văn 10 theo đặc trưng thể loại

.PDF
102
445
140

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ---------------------- VŨ THỊ TUYẾT MAI DẠY HỌC CA DAO HÀI HƯỚC TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Văn – Tiếng Việt Mã số: 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hữu Bội THÁI NGUYÊN - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì một công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Vũ Thị Tuyết Mai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn Lời cảm ơn Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới Tiến sĩ Hoàng Hữu Bội- người thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, Phòng đào tạo- Nghiên cứu khoa học Trường Đại học Sư phạm Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả luận văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn QUY ƯỚC VIẾT TẮT GV : Giáo viên HS : Học sinh NXB : Nhà xuất bản SGK : Sách giáo khoa SGV : Sách giáo viên THCS : Trung học cơ sở THPT : Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Trung học phổ thông 4 http://www.lrc-tnu.edu.vn PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, đổi mới phương pháp dạy học văn nói riêng luôn là yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa chiến lược trong việc đào tạo con người mới ở nhà trường hiện nay. Trong việc đổi mới phương pháp dạy văn thì vấn đề giảng dạy văn học theo đặc trưng loại thể là một vấn đề đang được mọi người quan tâm. Văn học Việt Nam cũng như bất cứ một nền văn học nào trên thế giới, gồm có hai bộ phận: Văn học dân gian và văn học viết. Mỗi bộ phận lại có rất nhiều thể loại và đều có đặc trưng thi pháp riêng. Văn học dân gian Việt Nam gồm có các thể loại: Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ca dao, tục ngữ, câu đố,…Trong đó ca dao là một hấp dẫn đối với học sinh. Trong chương trình văn học dân gian ở THPT ca dao là một phần văn học quan trọng, có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục văn học và văn hoá cho học sinh lứa tuổi thanh thiếu niên trong nhà trường. 1.1. Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại đã được đặt ra từ lâu và người ta đã đề xuất cách giải quyết những vấn đề cơ bản của nó. Riêng về dạy học ca dao cũng vậy đã có những công trình nghiên cứu, và cũng có những công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ca dao trong nhà trường (Khoa học sư phạm). Nhưng lại chưa có một công trình nào nghiên cứu về dạy học ca dao hài hước theo đặc trưng loại thể một cách đầy đủ. Điều đó đã thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài “Dạy học ca dao hài hước trong SGK Ngữ văn 10 theo đặc trưng thể loại” để nghiên cứu với hi vọng góp thêm một tiếng nói cho vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại. 1.2. Về thực tiễn: Trong chương trình SGK Ngữ Văn mới được thực thi đại trà ở năm 2006 -2007, các nhà soạn sách có đưa vào một số bài ca dao với 3 chủ đề: Ca dao than thân, ca dao yêu thương tình nghĩa và ca dao hài hước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 5 http://www.lrc-tnu.edu.vn Khi thực thi chương trình ấy người giáo viên chưa hẳn đã hết những khó khăn bỡ ngỡ khi dạy ca dao theo hướng đặc trưng thể loại. Do vậy chúng tôi chọn đề tài này với hi vọng góp tiếng nói tháo gỡ những băn khoăn trăn trở của người dạy và người học, đáp ứng mong muốn giờ dạy ca dao có hiệu quả cho chính bản thân mình và các bạn đồng nghiệp. 2. Lịch sử vấn đề. Hiện nay chưa có một công trình nào chuyên nghiên cứu về việc dạy học ca dao hài hước ở trường THPT theo đặc trưng thể loại. Vấn đề này chúng tôi mới chỉ thấy đề cập tới ở công trình “Con đường nâng cao chất lượng dạy - học ca dao ở lớp 10 THPT theo đặc trưng thể loại, ĐHTN/ ĐHSP, 5/ 2004” của tác giả Nguyễn Trọng Đoan và công trình dạy và học tác phẩm văn học ở trường phổ thông trung học miền núi - NXB Giáo dục 1997 của TS. Hoàng Hữu Bội. Đây là tư liệu quý mà chúng tôi có thể vận dụng để giải quyết những vấn đề đang đặt ra của đề tài. Tư liệu liên quan trực tiếp đến đề tài của chúng tôi chỉ có vậy, song vì quan niệm rằng việc dạy bất cứ môn học nào cũng gồm hai lĩnh vực: 1, Kiến thức cơ bản về môn học đó, nhất là những thành tựu mới nhất về lĩnh vực chuyên môn ấy. 2, Kiến thức về khoa học sư phạm, đặc biệt là những yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học trong nhà trường. Vì vậy khi tìm hiểu lịch sử vấn đề của lịch sử dạy học ca dao trong nhà trường, buộc chúng tôi phải tìm hiểu cả hai lĩnh vực đó: Nghiên cứu ca dao, đặc biệt là ca dao hài hước và phương pháp giảng dạy ca dao trong đó có ca dao hài hước trong nhà trường. 2.1. Lịch sử vấn đề về nghiên cứu ca dao (trong đó có ca dao hài hước). * Cuốn “bình giảng ca dao” của nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến Tựu - NXB Giáo dục 1992, đã nói về “Công việc bình giảng ca dao” như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Một bài ca dao được chọn để bình giảng phải có ít nhất ba điều kiện sau đây: Thứ nhất, phải là một bài ca dao hay, có giá trị thực sự về nội dung và nghệ thuật, đồng thời phải có vấn đề, có chỗ để bình giảng, đáng bình giảng. Thứ hai, phù hợp với khả năng và sở trường của người bình giảng. Thứ ba, phải phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người nghe, người đọc (trang 15). - Mục đích của việc bình giảng ca dao nói riêng cũng như việc nghiên cứu văn học dân gian nói chung, không phải chủ yếu là chứng minh cho cái chung và sự giống nhau. Càng không phải chỉ là như thế (mặc dù điều này cũng cần thiết), mà chủ yếu là tìm tòi, phát hiện và lí giải những cái riêng, những nét đặc thù, độc đáo, trong sáng tác dân gian của từng dân tộc, từng địa phương, từng thời kỳ lịch sử, cũng như cái riêng của từng tác phẩm cụ thể. (trang 19). - Người làm ca dao cũng như người làm thơ, biến ý thành tứ, người bình giảng ca dao va thơ phải dựa vào tứ mà làm ra ý, và khi đã hiểu rõ và nắm vững được chủ ý (hay chủ đề) của tác giả rồi, người bình giảng mới có điều kiện và cơ sở chắc chắn để tiến hành công việc bình giảng và bình luận khen chê bài ca dao hay bài thơ một cách kỹ càng, chính xác và tinh tế. (trang 28). - Trong ca dao, ngoài mối quan hệ giữa ý và tứ, còn có mối quan hệ giữa tình và tứ, sự và tình, đều là mối quan hệ quan trọng mà người bình giảng không thể không quan tâm chú ý (trang 30). - Muốn hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu sắc và thấu đáo một bài ca dao phải bám sát vào từ ngữ của nó, thông qua từ ngữ để tìm ra ý, tứ, sự, tình ở trong đó. Và sau khi nắm được ý, tứ, sự, tình của toàn bài, mới có điều kiện đầy đủ và chắc chắn để nhận rõ nghĩa đích thực (nghĩa trong bài) của các từ ngữ đã được tác giả sử dụng. Hiện tượng “ý tại ngôn ngoại” ở trong ca dao không phải là hiếm (trang 34). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 7 http://www.lrc-tnu.edu.vn Tác giả đã vận dụng lý thuyết trên vào bình giảng một số bài ca dao hay trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Trong tổng số 48 bài ca dao tuyển chọn, có 8 bài được dạy trong chương trình THCS và THPT. * Cuốn “Văn học Việt Nam - Văn học dân gian, những công trình nghiên cứu”- NXB Giáo dục - tái bản năm 2000, của nhiều tác giả, do tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) đã chọn lọc, tổng hợp những công trình tiêu biểu trong rất nhiều công trình nghiên cứu về văn dọc dân gian. Các tác giả đề cập đến một số vần đề lý luận chung và phương pháp nghiên cứu văn học dân gian. Trong phần II “một số thể loại và tác phẩm” có 5 bài viết, nghiên cứu về ca dao đó là: - “Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình” của tác giả Nguyễn Văn Lung (trang 306). - “Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao” của Bùi Mạnh Nhị (trang 317). - “Tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng trong ca dao” của Nguyễn Thị Ngọc Điệp (trang 328). - “Vài nét về nội dung ca dao dân ca Nam Bộ” của Nguyễn Tấn Phát (trang 342). - “Những bài ca dao hay nhất thế gian” của Bùi Mạnh Nhị (trang 365). 2.2. Lịch sử vấn đề phương pháp dạy học ca dao (Trong đó có ca dao hài hước) *“Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy - nghiên cứu văn học dân gian” của giáo sư Hoàng Tiến Tựu - NXB Giáo dục 1993, đã khẳng định sự cần thiết xây dựng những quy phạm riêng cho việc dạy học văn học dân gian ở trường phổ thông. Tác giả đã đề cập đến các phương pháp nghiên cứu văn học dân gian, làm sáng tỏ vấn đề giảng dạy văn học dân gian theo đặc trưng thể loại như: dạy truyện dân gian, tục ngữ, ca dao… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn Trong chương IV “Mấy vấn đề cụ thể về nghiên cứu và giảng dạy ca dao” (35 trang), tác giả đã chỉ ra một số cách dạy ca dao phổ biến hiện nay và nêu lên những khó khăn đối với việc tìm hiểu một bài ca dao cổ. Theo ông: “Quá trình lĩnh hội và phân tích, lý giải một bài ca dao cổ truyền gồm nhiều khâu, nhiều bước cụ thể khác nhau. Những khâu, những bước chủ yếu và quan trọng có thể được tóm tắt dưới dạng những câu hỏi như sau: 1/Bài ca dao ra đời trong trường hợp nào trong hoàn cảnh và trường hợp nào? (vấn đề xác định được hoàn cảnh lịch sử, cái “khung” thời gian của tác phẩm). Bài ca dao được lưu hành sớm nhất và nhiều nhất ở vùng nào? (vấn đề xác định quê hương gốc và địa bàn lưu hành chủ yếu của tác phẩm) 2/Bài ca dao thuộc thể loại nào? (vấn đề xác định đặc trưng thể loại và tiểu thể loại của nó) 3/Chủ thể và nhân vật trữ tình của bài ca dao là gì? Hay là bài ca dao của ai? Người ấy như thế nào? (vấn đề xác định chủ thể và nhân vật trữ tình trong phần lời va trong sự biểu diễn, sử dụng thực tế của bài ca dao) 4/Đối tượng trữ tình của bài ca dao là gì? Hay là bài ca dao là lời trao đổi bày tỏ với ai?Người ấy như thế nào? (vấn đề xác định đối tượng trữ tình trực tiếp hay gián tiếp, chung hoặc riêng của mỗi bài ca dao) 5/Nội dung của bài ca dao là gì? (hay là bài ca dao nói về những điều gì) Vấn đề xác định nội dung truyền đạt, phô diễn của bài ca dao. 6/ Chủ đề của bài ca dao là gì? (hay vấn đề chủ yếu của bài ca dao muốn nói là gì?. Vấn đề phân tích chủ đề bài ca dao thường phải tìm hiểu đầy đủ của tác phẩm mới xác định đúng được). 7/ Hình thức nghệ thuật bài ca dao như thế nào? Hay bài ca dao phô diễn tâm tư, tình cảm bằng những phương phấp, phương tiện và thủ thuật như thế nào? (vấn đề phân tích lí giải hình thức nghệ thuật của tác phẩm thường chỉ có thể nhận thức được rõ khi đã nắm chắc nội dung và chủ đề của nó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn 8/ Bài ca dao còn có liên hệ gì với cuộc sống và tâm tư tình cảm của nhân dân hiện nay và mai sau hay không? Mối liên hệ ấy như thế nào? Vấn đề ý nghĩa và giá trị hiện đại của bài ca dao cổ về mặt nội dung cũng như mặt nghệ thuật. (trang 134-135) *Cuốn “Giảng văn văn học dân gian Việt Nam” của hai tác giả Vũ Anh Tuấn và Nguyễn Xuân Lạc - NXB Giáo dục 1993, có hai phần: Phần đầu (10 trang) “Một số vấn đề về quan điểm dạy học văn học dân gian ở trường phổ thông”, đã chỉ rõ: Cần phải giảng dạy ca dao theo tinh thần tiếp cận một tác phẩm phônclo. Điểm cơ bản của tinh thần tiếp cận này là đặt tác phẩm văn học dân gian vào trường hành động thực tiễn và vấn đề giảng dạy văn học dân gian theo đặc trưng thể loại. Phần sau “Giảng văn”, tác giả đã thể hiện quan điểm trên trong việc phân tích 7 bài ca dao cụ thể thuộc chương trình lớp 10 phổ thông trung học (từ trang 109 đến 185) * Luận án tiến sĩ của Nguyễn Xuân Lạc “Quan điểm tiếp cận và phương pháp dạy học ca dao ở phổ thông trung học” (1996), đã đề xuất hai vấn đề: Quan điểm tiếp cận ca dao: - Dạy ca dao là một loại hình nghệ thuật đặc thù: Vừa là nghệ thuật ngôn từ như văn học viết, lại vừa mang bản sắc chung của một sáng tác phônclo, với những nét riêng về thi pháp. - Giao tiếp đặc thù phônclo là con đường hướng dẫn học sinh tiếp cận và chiếm lĩnh bài ca dao một cách có hiệu quả. Vận dụng các phương pháp chung về dạy học văn vào việc dạy học ca dao ở phổ thông trung học. - Định hướng học sinh tích hợp cả ba mặt nghệ thuật ngôn từ - bản sắc phônclo - đặc trưng thi pháp trong quá trình chiếm lĩnh một tác phẩm ca dao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh chiếm lĩnh từng bài ca dao trong hệ thống chuỗi của nó một cách hợp lý. - Hướng dẫn học sinh khai thác cả hai mặt văn bản ngôn từ và các yếu tố ngoài văn bản bài ca dao, chú ý tái hiện không khí đồng quê, gợi công thức tiếp nhận phônclo để các em chiếm lĩnh tốt tác phẩm. Trên cơ sở đó, tác giả xây dựng mô hình hướng dẫn học sinh tiếp cận một bài ca dao gồm 4 bước: “Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu những yếu tố nằm ngoài văn bản bài ca dao nhưng lại giúp ích cho việc tìm hiểu bài ca dao. “Bước 2: Định hướng thẩm mỹ, hướng dẫn học sinh tìm ra “trung tâm sáng tạo” hay là cái tứ của bài ca dao. “Bước 3: Từ định hướng thẩm mỹ, hướng dẫn học sinh tiến hành phân tích bài ca dao trong sự kết hợp giữa những yếu tố trong văn bản và những yếu tố ngoài văn bản. “Bước 4: Tổng hợp chung, đánh giá bài ca dao (trang 89-90). Tác giả cụ thể hoá quan điểm tiếp cận và phương pháp giảng dạy ca dao bằng việc thiết kế và thực nghiệm 2 bài ca dao ở chương trình lớp 10 phổ thông trung học. Tất cả những công trình trên đã bàn về việc nghiên cứu và giảng dạy ca dao, trên cơ sở khoa học và mang tính khả thi. Nhưng toàn bộ những công trình đó đều đề cập đến việc nghiên cứu và giảng dạy ca dao nói chung (dạy ca dao hài hước cho học sinh THPT), chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể. Từ tất cả những ý kiến của các nhà nghiên cứu, chúng ta nhận thấy ca dao là một thể loại trữ tình dân gian, bản thân thể loại này đã mang trong mình nó tính dân tộc và truyền thống. Cùng với ca dao trữ tình, ca dao than thân, ca dao yêu tình nghĩa, ca dao hài hước cũng là một nội dung quan trọng của ca dao Việt Nam. Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam (Đinh Gia Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn Khánh chủ biên) trang 465 có đoạn viết: “Tiếng cười là một biểu hiện của thái độ đối với thực tại trong các thể loại tự sự và trong thể loại trữ tình. Trong ca dao dân ca trữ tình Việt Nam, tiếng cười có mặt trong tất cả các loại đề tài khác nhau. Song do phương pháp điển hình hoá thái độ chủ quan của con người đối với thực tại có những đặc điểm riêng, nên ở đây cần xét riêng ca dao trào phúng như là một thể loại của ca dao, dân ca Việt Nam”. Ca dao trào phúng hay nói theo SGK lớp 10 THPT là ca dao hài hước bộc lộ rõ nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Cũng giống như tiếng cười, bản thân tính trào phúng của ca dao hài hước đã là điều hấp dẫn, học sinh rất ưa thích. Đồng thời, các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong ca dao hài hước cũng nằm trong hệ thống biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong ca dao hài hước cũng nằm trong hệ thống biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong ca dao Việt Nam, rất quen thuộc với người Việt Nam. Ca dao hài hước cũng ngắn gọn, dễ đọc, dễ nhớ. Nếu học sinh được hướng dẫn cách tiếp xúc với văn bản một cách trực tiếp, tự đọc, tự tìm tòi ý nghĩa sâu sắc của tiếng cười trong ca dao, dưới sự chỉ đạo của giáo viên thì học sinh sẽ khám phá được nhiều điều bổ ích. 3.Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là: 3.1. Phát hiện ra cách tiếp cận ca dao hài hước từ đặc trưng thể loại của nó 3.2. Tìm ra phương pháp tổ chức hướng dẫn học sinh THPT học các văn bản ca dao hài hước trong SGK sao cho hiệu quả. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Vấn đề tiếp cận ca dao hài hước từ đặc trưng thể loại của nó và cách thức hoạt động của thầy và trò trong quá trình dạy và học ca dao hài hước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi chỉ bàn tới cách dạy học các bài ca dao hài hước có trong SGK Ngữ văn 10 (bộ cơ bản và bộ nâng cao). Chỉ thực hiện ở học sinh lớp 10 THPT miền núi (tỉnh Hà Giang) 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Vận dụng các phương pháp nghiên cứu về lý thuyết phân tích tổng hợp lý luận 5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Điều tra khảo sát: Khảo sát thực trạng dạy và học ca dao hài hước lớp 10 THPT ở một số trường THPT miền núi (tỉnh Hà Giang), tìm ra những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học ca dao hài hước ở lớp 10 THPT theo hướng thể loại. - Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát một số giờ học ca dao hài hước ở lớp 10 THPT để xem xét hoạt động định hướng tiếp cận, hoạt động chiếm lĩnh tác phẩm của thầy và trò, thái độ của học sinh với giờ dạy, thu thập thông tin để có cơ sở nhận xét giờ học. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn sẽ gồm 3 chương: Chương 1: Khái niệm và đặc trưng thể loại của ca dao hài hước. Chương 2: Thực tế và định hướng dạy học ca dao hài hước ở THPT theo đặc trưng thể loại. Chương 3: Thực nghiệm sư phạm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 13 http://www.lrc-tnu.edu.vn PHẦN NỘI DUNG Chương 1: KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA CA DAO HÀI HƯỚC. 1.1. Khái niệm ca dao và ca dao hài hước - Khái niệm ca dao: “Từ điển thuật ngữ văn học” (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi) nêu rõ: “Ca dao còn gọi là phong dao. Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau: Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu. Ca dao là danh từ chung chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca. Do tác động của hoạt động sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, ca dao đã dần dần chuyển nghĩa. Từ một thế kỷ nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã dùng danh từ ca dao để chia riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi). Với nghĩa này, ca dao là thơ dân gian truyền thống. ví dụ. Câu ca dao: Làm trai quyết chí tu thân Công danh chớ vội nợ nần chớ lo Vốn được rút ra từ bài dân ca hát cách với những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi như sau : Làm trai quyết chí (mà) tu thân. Công danh (là công danh) chớ vội (chứ đã ), nợ nần (mà nợ nần) chớ lo (ý y y ý y)… Từ sau cách mạng tháng tám 1945 trên sách báo nước ta đã xuất hiện danh từ ca dao mới để phân biệt với ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn Ca dao mới khác ca dao cổ về khá nhiều phương diện (về thời gian, hoàn cảnh, lực lượng sáng tác, hệ thống đề tài, chủ đề, phương thức và phương tiện lưu truyền, phổ biến…). Ngoài phương thức sáng tác và lưu truyền bằng miệng của nhân dân ca dao mới còn được sáng tác và phổ biến bằng văn tự của các văn nghệ sĩ chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư. Những tập ca dao thành văn được xuất bản trong mấy chục năm qua (như ca dao kháng chiến, ca dao chống Mỹ, ca dao chống hạn...) thiên về tuyên truyền chính trị, là một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử ca dao trước cách mạng tháng Tám (1945). Dựa vào chức năng kết hợp với hệ thống đề tài, có thể phân ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền) thành những loại ca dao khác nhau, như ca dao ru con, ca dao tình yêu, ca dao về tình cảm gia đình, ca dao than thân, ca dao trào phúng.v. v.” [49, tr.31-32]. “Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Theo cách hiểu thông thường thì ca dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy… hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể “bẻ” thành những làn điệu dân ca . Giữa ca dao và dân ca như vậy là không có ranh giới rõ rệt. Sự phân biệt giữa ca dao và dân ca chỉ là ở chỗ khi nói đến ca dao, người ta thường nói đến những lời thơ dân gian, còn khi nói đến dân ca người ta nghĩ đến cả những làn điệu, những thể thức hát nhất định nữa…” [19, tr.436-437]. Trước khi tìm hiểu khái niệm ca dao hài hước ta tìm hiểu tiếng cười dân gian: Cuốn “Văn học dân gian Việt Nam” (Đinh Gia Khánh chủ biên) đã có nghiên cứu khá sâu sắc về cơ sở phát sinh, nền tảng tồn tại của tiếng cười. Nhà nhân văn chủ nghĩa Rabơle đã từng nhận xét: “Cười là một đặc tính của người”. Trạng thái tâm hồn con người được biểu hiện một cách phức tạp, mà biểu hiện trạng thái cơ bản nhất là tiếng cười và nước mắt. Tất nhiên, ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 15 http://www.lrc-tnu.edu.vn đây chúng ta không đề cập đến tiếng cười đơn thuần sinh lý, cơ giới. Ví dụ như tiếng cười khi bị cù hay tiếng cười vô thức của con người có vấn đề về thần kinh. Tiếng cười ở đây được nhìn nhận ở góc độ tâm lý học. Tiếng cười tâm lý bao giờ cũng gắn với một mục đích nhất định. Trước hết và gần gũi với cơ sở sinh lý hơn cả là tiếng cười vui thú. Khi người ta cười, người ta hít không khí nhiều, thở ra cũng mạnh. Nhìn ở góc độ khoa học, nếu cười có điều độ, giúp lồng ngực nở nang, gân cốt, trí não bớt căng thẳng, trong người cảm thấy dễ chịu. Trước một cảnh tượng vui vẻ, khi cảm thấy thích thú một việc gì đó, người ta cười và tiếng cười làm tăng sự sung sướng của con người. Khoái lạc về sinh lý và sự vui sướng về tâm lý kết hợp hài hoà với nhau. Từ đó các tác giả nhận định: “Có thể cho rằng tiếng cười là biểu hiện sinh thú mà con người cảm thấy, tuy rằng cũng có khi vui sướng mà người ta không cười”. Trong loại tiếng cười có tính chất tâm lí, không phải tất cả đều có sự giải thích bằng sự vui sướng, mục đích tiếng cười không phải lúc nào cũng là để vui. Cổ nhân đã có câu: “ Khốc như nữ tử vu quy nhật; Tiếu tự văn nhân lạc đệ thời”. Có nghĩa là: Khóc như cô gái về nhà chồng, cười như ông đồ đi thi trượt. Tiếng khóc của cô gái là khóc vì sung sướng, còn tiếng cười của ông đồ là xót xa, chua chát. Tuy nhiên, thông thường, tiếng khóc gắn với sự đau khổ, uất ức và tiếng cười gắn với sự vui vẻ thoả mãn. Bên cạnh tiếng cười gắn với sự vui sướng, còn có một loại tiếng cười khác. Trước một hoàn cảnh, một hành động, một cử chỉ, một sự việc nào đó trong cuộc sống, người ta có thể bật cười. Ví dụ như ta xem chú hề mũi đỏ trồng cây chuối, một người rất đạo mạo bỗng nhiên ngã sõng soài, đọc truyện cười “Tam đại con gà” người ta cười ông thầy dốt nát và giấu dốt. Đó là những tiếng cười có tính chất hài hước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 16 http://www.lrc-tnu.edu.vn Đứng trước tiếng cười hài hước, các nhà mĩ học thường giải thích bằng nguyên nhân tương phản, mâu thuẫn. Theo Aritxtốt, đó là sự mâu thuẫn giữa cái xấu xa và cái đẹp đẽ. Theo Kangtơ, đó là mâu thuẫn giữa cái tầm thường và cái cao quý. Richsơtơ thì cho rằng tiếng cười xảy ra là do mâu thuẫn giữa cái phi lý và cái có lý. Theo Heghen, đó là mâu thuẫn giữa hiện tượng và tư tưởng. Tiếng cười là mâu thuẫn giữa cái máy móc và cái sinh động… Tsecnưsepxki lại nhấn mạnh vào cái mâu thuẫn giữa sự trống rỗng bên trong và vẻ bề ngoài muốn tỏ ra là có ý nghĩa. Nói chung, các nhà mĩ học đã đưa ra nhiều loại mâu thuẫn mà theo họ là nguyên nhân gây ra tiếng cười. Nhưng xét kỹ thì chỉ có một loại nguyên nhân gây ra tiếng cười. Đó là mâu thuẫn đặc biệt. “Tiếng cười hài hước có cơ sở ở một loại mâu thuẫn đặc biệt, một loại mâu thuẫn trong đó hai mặt trái ngược nhau, không mặt nào muốn nhường mặt nào. Tiếng cười hài hước bật ra là do sức mạnh nội tại của tâm trí chúng ta, tức là sự phản kháng và sự thắng lợi của tư duy đối với những hiện tượng muốn lọt ra khỏi phạm vi giải quyết của nó. Tiếng cười hài hước thể hiện thắng lợi của trí tuệ. Trong sự hài hước, có những hình thức đơn giản và những hình thức phức tạp. Tiếng cười hài hước chỉ có tính chất sâu sắc khi nó mang ý nghĩa xã hội. Mọi hiện tượng mâu thuẫn với khuynh hướng phát triển khách quan của lịch sử - Khuynh hướng này được phản ảnh trong tư tưởng tiên tiến của xã hội đều có thể mang tính chất hài hước. Những cái lỗi thời mà vẫn cứ muốn bám lấy cuộc sống. Vẫn cứ làm ra vẻ sinh động, vẫn cứ ra vẻ cần thiết đối với cuộc sống đều có thể làm bật ra tiếng cười hài hước. Giữa thực chất của hiện tượng và vai trò giả tạo mà lo muốn giữ đã có mâu thuẫn và mâu thuẫn này có tính chất hài hước sâu sắc. Tiếng cười hài hước tống khứ những cái lạc hậu độc ác, giả dối và do đó giúp cho sự toàn thắng của những cái gì tiên tiến, tốt đẹp, trung thực. Mác đã viết: “giai đoạn cuối cùng của một hình thái lịch sử chính là tấn hài kịch của nó” . Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 17 http://www.lrc-tnu.edu.vn Giải thích tại sao lịch sử lại diễn ra theo tiến trình ấy, Mác cho rằng: “Đó là để cho nhân loại rời bỏ được quá khứ một cách vui vẻ”. Chính vì thế, một hiện tượng xã hội nếu xét về mặt triết học là lỗi thời, về mặt chính trị là phản động, thì xét về mặt mĩ học có thể (không phải là tất nhiên) là hài hước. Nói chung, tiếng cười hài hước được xây dựng trên cơ sở một mâu thuẫn nào đó. Đối với người bình dân, trong những sáng tác dân gian của mình, họ biết sử dụng những mâu thuẫn trong cuộc sống theo ý mình để tạo nên tiếng cười hài hước mang tính chất tâm lý. Tiếng cười hài hước nhằm giải toả cuộc sống căng thẳng, nâng cao niềm lạc quan, ham sống, giúp con người hài lòng với cuộc sống dù còn nhiều khó khăn. Ca dao là một trong những thể loại văn học dân gian được người bình dân sáng tạo để phục phụ cho đời sống tinh thần của mình. Ca dao hài hước được sáng tạo từ nền tảng tiếng cười hài hước trong dân gian. Từ “hài hước” trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” (Viện ngôn ngữ học 1992): “Hài hước: vui đùa nhằm mục đích gây cười (thường nói về hình thức văn nghệ) lối văn hài hước. Câu chuyện hài hước. Giọng hài hước”. -Khái niệm ca dao hài hước: Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 (cơ bản) định nghĩa ca dao hài hước như sau: “Ca dao hài hước là tiếng cười giải trí, tiếng cười tự trào (tự cười mình) và tiếng cười châm biếm, phê phán thể hiện tâm hồn lạc quan yêu đời và triết lí nhân sinh lành mạnh trong cuộc sống còn nhiều vất vả, lo toan của người bình dân”. Cuốn “Ca dao hài hước” của Đào Thản (Nhà Xuất Bản Đà Nẵng 2005) lại định nghĩa: “Hài hước có nghĩa là vui đùa, gây cười. Ca dao hài hước vì vậy cũng được hiểu là những câu, những bài thuộc nhiều nội dung khác nhau nhưng đều có tính chất hài hước, có mang yếu tố hài hước”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 18 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Nguồn gốc sản sinh ca dao hài hước: Đào Thản trong cuốn “ca dao hài hước” lí giải rằng: “Trong ngôn ngữ của con người, có lẽ hài hước là cách thể hiện có khả năng đạt được hiệu quả cao nhất so với các phương thức khác. Năng lực hài hước chỉ có thể có ở con người, được thể hiện trong ngôn ngữ, và chứng tỏ một trình độ phát triển đột xuất của trí tuệ con người, nếu như chưa muốn nói đó chính là tài năng thật sự. Rabelơ, một nhà văn chủ nghĩa Pháp có nói: “Cười là một đặc tính của con người”. Quả thật, nhờ biết cười và đặc biệt là biết gắn cái cười với nhận thức, trí tuệ mà con người phân biệt hẳn với các loài động vật khác. Không kể cái cười do kích thích cơ năng (do bị cù, nhột), con người có khả năng bật ra tiếng cười do trực tiếp nhìn thấy và nhận thức được các hình ảnh sự việc tức cười, đáng cười trong thực tế. Con người nhờ có tri năng ngôn ngữ cho nên còn có thể cười do các sản phẩm của lời nói và ngôn ngữ đem lại, là những điều đáng cười. Cũng nhờ có ngôn ngữ, con người còn biết cách diễn đạt một cách hài hước điều muốn nói của mình. Và trên cơ sở những năng lực đặc biệt này mà con người còn biết tạo ta cái cười bằng cả chuỗi lời nói hoặc truyện cười” [38, tr.12] 1.2. Đặc trưng về nội dung của ca dao hài hước. Theo tác giả Đào Thản trong cuốn “Ca dao hài hước” (Nhà xuất bản Đà Nẵng 2005): Hài hước không đơn thuần là một chủ đề nội dung. Ca dao hài hước có thể mang những nội dung khác nhau: có ca dao hài hước về quê hương xứ sở, có ca dao hài hước về tình yêu, về hôn nhân, về gia đình, về triết lí nhân sinh, về thế sự…Một tác phẩm hài hước do đó có thể chứa đựng nội dung hài hước hoặc thể hiện bằng hình thức hài hước, hoặc kết hợp cả hai. Bởi lẽ có những sự việc, hiện tượng hoặc đối tượng, tự bản thân nó đã có tính hài hước, lại có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 19 http://www.lrc-tnu.edu.vn những sự việc, hiện tượng chỉ có thể trở thành hài hước do một cách nhìn và một cách thể hiện nào đó (giống như trong việc vẽ tranh biếm hoạ). Ở ca dao hài hước, tình hình cũng như vậy. Trong thực tế đời sống xã hội, thời nào cũng vậy, có thể quan sát thấy vô số những điều đáng cười, chỉ cần phản ánh y nguyên hiện thực, chưa cần thêm bớt, cũng đã đủ để gây cười cho thiên hạ. Ví dụ ở một làng nọ, có anh chàng kia: Làm thì chẳng muốn bằng ai, Ăn thì thứ nhất thứ hai trong làng. Hoặc ở chỗ khác, có những kẻ bị người đời nhận xét bằng một câu khái quát về cái nết “làm ăn” láu cá: Ăn thì ăn những món ngon, Làm thì chọn việc cỏn con mà làm. Một ông bố bà mẹ nào đó có thể chép miệng nghĩ về cảnh cùng giỗ linh đình hoặc làm ma, làm chay cho người chết: Sống thì con chẳng cho ăn, Chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi. Rồi rút ra kết luận về sự khôn dại ở đời: Thế gian còn dại chưa khôn, Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành. Đến như cái cảnh “mèo tha miếng thịt xôn xao; kễnh tha con lợn thì nào thấy chi” cũng có thể nói là một hiện tượng hoàn toàn có thật trong gia đình, trong làng bản và nói rộng ra trong cả xã hội. Đây là một chuyện thường tình: Cả nhà chỉ có được miếng thịt, mua khi có công việc, thế mà con mèo lại tha đi, làm chi bố mẹ con cái phải nháo nhác cả lên. Ngược lại khi con cọp vào bản vác cả con lợn đi thì mọi người lại im thin thít sợ hãi, không ai dám lên tiếng. Từ cái cảnh thực có này, ca dao chỉ cần nhấn vào cái mâu thuẫn có tính hài hước đó để nêu bật ý nghĩa xã hội của nó: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 20 http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất