TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NIÊN KHÓA 2012 – 2016
VÙNG ĐẤT HƯNG ĐỊNH
TỪ ĐẦU THẾ KỈ XIX ĐẾN NĂM 2015
SƯ PHẠM LỊCH SỬ
Chuyên ngành:
Giảng viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN VĂN THỦY
Sinh viên thực hiện:
HOÀNG THANH HẰNG
MSSV:
1220820049
Lớp:
D12LS02
Bình Dương, 5/2016
1
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Thủ Dầu Một, quý thầy
cô khoa Sử đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình học tập, hoàn thành khóa luận.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến giảng viên hướng dẫn là TS. Nguyễn Văn
Thủy, thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu và thực
hiện khóa luận.
Em cũng xin cảm ơn Ban cán bộ cùng các cô chú sinh sống và làm việc tại phường
Hưng Định, Tx. Thuận An, Bình Dương đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình
nghiên cứu và thu thập nguồn tài liệu địa phương.
Em tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, các thầy cô đã từng dạy dỗ và tất cả các bạn
bè đã luôn bên cạnh, động viên em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận
Trong quá trình thực hiện khóa luận, do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm
thực tiễn còn hạn chế nên bài báo cáo còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của quý Thầy, Cô để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành
tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
MỤC LỤC
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Nguồn tài liệu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của đề tài
7. Bố cục của đề tài
NỘI DUNG
Chương I. Địa lý tự nhiên và dân cư
1.1.
Đặc điểm tự nhiên
1.2.
Đặc điểm dân cư
Chương II. Quá trình hình thành và phát triển của Hưng Định từ đầu thế kỉ XIX đến năm
2015
2.1.
Hưng Định từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1861
2.2.
Hưng Định dưới thời Pháp thuộc (1861 – 1954)
2.3.
Hưng Định trong thời kì chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)
2.4.
Hưng Định thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 – 2015)
Chương III. Đặc điểm kinh tế – văn hóa – xã hội
3.1.
Kinh tế
3.2.
Văn hóa – xã hội
3.2.1. Văn hóa vật chất
3
3.2.1.1.
Nhà ở
3.2.1.2.
Trang phục
3.2.1.3.
Ẩm thực
3.2.1.4.
Phương tiện giao thông
3.2.2. Tín ngưỡng tôn giáo
3.2.2.1.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
3.2.2.2.
Tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng
3.2.2.3.
Tôn giáo
3.2.2.4.
Lễ hội
3.2.2.4.1. Lễ hội Vườn cây ăn trái
3.2.2.4.2. Lễ hội Thiên Hậu Thánh Mẫu
3.2.2.4.3. Lễ hội Kỳ Yên
3.2.2.4.4. Lễ hội chùa Ông Bổn
3.2.3. Giáo dục
3.2.4. Người Hoa ở Hưng Định
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DẪN LUẬN
4
1. Lý do chọn đề tài
Hưng Định là một phường thuộc TX.Thuận An, tỉnh Bình Dương, tuy vậy, Hưng
Định lại có bề dày lịch sử, văn hóa từ lâu đời. Trong quá trình hình thành và phát triển và
phát triển, trải qua biết bao nhiêu thử thách, gian nan, nhân dân Hưng Định vẫn luôn kiên
cường, dũng cảm chống lại thiên nhiên để sinh tồn và phát triển cho đến tận ngày nay.
Tuy nhiên các bài viết nghiên cứu tìm hiểu về nơi này lại không có nhiều nên việc
tìm hiểu đề tài “Hưng Định xưa và nay” có ý nghĩa thực tiễn không những đối với địa
phương xã Hưng Định mà còn đóng góp vào nguồn tài liệu lịch sử văn hóa địa phương.
Hiểu được quê hương thì sẽ có ý thức bảo vệ, giữ gìn, phát huy những truyền thống tốt
đẹp của địa phương cũng như trong cả nước.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong cuốn Lịch sử truyền thống Đảng bộ và nhân dân xã Hưng Định (1930 –
2005) do Ban chấp hành Đảng ủy xã Hưng Định biên soạn đã ghi lại quá trình đấu tranh
cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hưng Định trong 75 năm. Đồng thời cũng nêu
cao tinh thần bất khuất đấu tranh anh dũng, sự lao động cần cù miệt mài, sáng tạo và tinh
thần tương thân tương ái của toàn thể nhân dân Hưng Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
xã Hưng Định qua các giai đoạn.
Bài viết Làng Hưng Định - Họ Đạo Búng Lúc Khởi Nguyêncủa Emilianus Sanh
Quới (2015) đã sưu tầm được nhiều nguồn tài liệu khác nhau và ghi chép lại các giai
đoạn lịch sử hình thành nền Làng Hưng Định – Họ đạo Búng.
Cuốn Thư mục gốm sứ tỉnh Bình Dương, Thư viện tỉnh Bình Dương của Sở Văn
hóa Thể thao và Du lịch Tỉnh Bình Dương, 7/2010 có bài viết tìm hiểu về nghề gốm ở
Hưng Định. Tuy nhiên, bài viết chủ yếu tập trung nói về phương pháp làm gốm.
5
Trong các tư liệu nói trên thì chưa có tư liệu nào mang tính chất tổng hợp, khái
quát về lịch sử đi lên của Hưng Định mà chỉ nghiên cứu về một số lĩnh vực nhất định như
lịch sử truyền thống đấu tranh, ngành nghề thủ công gốm sứ, khu du lịch Cầu Ngang của
Hưng Định,… Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những gì mà các công trình trước tìm hiểu về
Hưng Định, đề tài “Vùng đất Hưng Định từ đầu thế kỉ XIX đến năm 2015” không đi sâu
nghiên cứu một khía cạnh nào của xã mà đề tài mang tính chất tổng hợp về lịch sử hình
thành, quá trình phát triển cũng như những thành tựu mà Hưng Định đã đạt được từ thời
khai hoang lập ấp cho đến ngày nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sự phát triển của vùng đất Hưng Định từ khi thành lập
cho đến nay qua sách, văn học dân gian Bình Dương, tư liệu thực tế, các di tích văn
hóa,…
Phạm vi nghiên cứu:
-
Không gian là vùng đất Hưng Định thuộc TX.Thuận An, tỉnh Bình Dương.
-
Thời gian: từ đầu thế kỉ XIX đến năm 2015
4. Nguồn tài liệu:
-
Nguồn tư liệu điền dã: ở nhà thờ, đình làng, miếu, các di tích lịch sử, làng
nghề truyền thống như: khi nhà thờ Búng, đình thần Hưng Định, chùa bà Thiêu Hậu, điện
thờ Ông Bổn Phước Thọ Đường, làng gốm Chòm Sao, vườn cây ăn trái, khu du lịch Cầu
Ngang,…. Qua những gì được tìm hiểu, ta có thể thấy được sự giao thoa văn hóa giữa cư
dân người Việt và người Hoa, các lễ hội phổ biến ở Hưng Định.
-
Nguồn tư liệu thành văn:
Thu thập tài liệu từ Thư viện tỉnh Bình Dương, Ủy ban nhân dân phường Hưng
Định, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thuận An. Những bài viết trên báo, tạp chí có tính
chất cập nhật được sử dụng trong đề tài này.
6
Đồng thời, một số tài liệu thu thập được từ các bài viết của giáo dân địa phương:
Làng Hưng Định - Họ Đạo Búng Lúc Khởi Nguyên
Lễ hội của người Hoa ở Bình Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình giải quyết các nội dung của đề tài, thì
phương pháp lịch sử và phương pháp dân tộc học là phương pháp chính để thực hiện đề
tài.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: tra cứu tài liệu để tìm hiểu về sự hình thành và
phát triển của vùng đất Hưng Định xưa cho đến năm 2015.
Phương pháp dân tộc học: Phương pháp điền dã trong đó sử dụng phương pháp
phỏng vấn sâu của dân tộc học: bên cạnh những kiến thức sách vở, phương pháp này giúp
em tiếp cận được với nguồn tư liệu mới mà có thể trong các tài liệu khác chưa đề cập
đến.
Phương pháp logic là phương pháp có quan hệ chặt chẽ với phương pháp lịch sử,
giúp cho việc giải thích các sự kiện rõ ràng, chính xác hơn và là cơ sở để giải thích lịch
sử hình thành vùng đất Hưng Định. Trên cơ sở đóđể thấy được những giá trị mà người
Hưng Định đã làm nên cho vùng đất này.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài khái quát lại lịch sử hình thành của Hưng Định từ lúc khởi nguyên, quá
trình khẩn hoang và định cư của lưu dân Ngũ Quảng cùng cộng đồng công giáo, lưu dân
người Hoa trên vùng đất mới, sự thay đổi trong đơn vị và quản lý hành chính của Hưng
Định qua các thời kì.
7
Bên cạnh đó, bằng những tư liệu điền dã và tìm hiểu được, đề tài đã tổng hợp được
những nét đẹp văn hóa Hưng Định qua đó có thể thấy được mối quan hệ giữa văn hóa
Việt – Hoa trong tiến trình phát triển chung của Hưng Định.
Đồng thời, đề tài còn góp phần vào khoảng trống nguồn tư liệu lịch sử và văn hóa
của Hưng Định từ lúc khởi nguyên cho đến nay. Qua đó, có thể giúp những ai quan tâm
về Hưng Định nói riêng và Bình Dương nói chung thêm hiểu và quý trọng những thành
quả mà Hưng Định đạt được cho đến ngày này.
7. Bố cục của đề tài
Luận văn gồm có 3 chương chính, ngoài ra còn phần dẫn luận, kết luận, phụ lục và một
số tài liệu tham khảo.
Chương I. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ DÂN CƯ
Chương này gồm 2 mục nêu khái quát về đặc điểm tự nhiên và dân cư của Hưng
Định – những yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội vùng đất Hưng
Định như bây giờ .
Chương II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HƯNG
ĐỊNH TỪ ĐẦU THẾ KỈ XIX ĐẾN NĂM 2015
Chương này gồm 4 nội dung chính trình bày tổng quan về đơn vị và quản lý hành
chính của Hưng Định qua các thời kì. Bắt đầu từ khi những cư dân đầu tiên tới đây khai
hoang lập ấp, qua thời nhà Nguyễn và khi Pháp tới đặc ách cai trị lên vùng đất này cho
tới nay và lịch sử truyền thống đấu tranh của Đảng bộ và nhân dân Hưng Định trong các
cuộc đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Đảng cùng nhân dân chiến đấu bảo vệ
lãnh thổ, giành lại từng mảnh đất quê hương trong các cuộc chiến tranh biên giới và cùng
nhau xây dựng xã, đưa Hưng Định bước vào thời kì Công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát
8
huy những thế mạnh của mình để trở thành một trong những vùng kinh tế trọng điểm của
phía Nam.
Chương III. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – VĂN HÓA – XÃ HỘI
Chương III gồm 4 mục trình bày khái quát về đặc điểm kinh tế – văn hóa và xã hội
của Hưng Định từ xưa đến nay.Những thành quả trong kinh tế của Hưng Định thời khởi
nguyên cho thấy Hưng Định sớm trở thành nơi có nguồn lương thực thực phẩm dồi dào,
tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp. Qua đó cũng thầy được
những nét đẹp trong văn hóa của cộng đồng cư dân nơi đây, có sự gìn giữ truyền thống
tốt đẹp của tổ tiên hòa quyện với văn hóa cư dân bản địa và văn hóa cộng đồng người
Hoa. Tất cả được lưu giữ, phát huy cho đến tận ngày nay.
9
NỘI DUNG
Chương I. Địa lý tự nhiên và dân cư
1.1.
Đặc điểm tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Hưng Định nằm ở phía Bắc huyện Thuận An, phía Đông giáp xã Thuận An,
phía Tây giáp xã An Sơn, phía Nam giáp xã Bình Nhâm. Hưng Định bao gồm 3 ấp là
Hưng Phước, Hưng Lộc và Hưng Thọ. Số dân là 14.728 người1. Diện tích tự nhiên của
Hưng Định là 2,86 km², trong đó có 50,94 ha đất nông nghiệp, 158,32 ha là diện tích
vườn cây ăn trái.
1.1.2. Thổ nhưỡng và khí hậu
Bởi nằm ở vùng hạ lưu sông Sài Gòn nên vùng đất Hưng Định mang đặc trưng
của vùng đồng bằng, có đất đai phì nhiêu, màu mỡ được bồi đắp bởi phù sa của sông Sài
Gòn. Vì vậy, Hưng Định là một trong những vùng đất nổi tiếng với vườn cây ăn trái với
nhiều loại cây ăn quả như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, bòn bon,…
Hưng Định nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới vùng Đông Nam Bộ nên khí
hậu nơi đây mang sắc thái của vùng khí hậu cận xích đạo với nền nhiệt độ cao, nóng và
ẩm quanh năm. Khí hậu có sự phân hóa thành hai mùa. Mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Mùa
khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thời gian nắng nhiều vào các tháng 2, 3, 4.
Trong năm, nắng trung binhft ừ 2.400 – 2.500 giờ. Vào mùa này, thời tiết nắng nóng,
lượng mưa ít nên sản xuất nông nghiệp gặp không ít những khó khăn.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng năm đến cuối tháng 10, mưa nhiều nhất vào tháng 7,
8, 9. Lượng mưa trung bình khoảng 1.800 – 2.000 mm/năm. Tuy lượng nước nhiều
nhưng ít khi xảy ra lũ lụt bởi có hệ thống sông ngòi, mương rạch nhiều nên thoát nước
nhanh. Vào mùa này, thời tiết mát mẻ, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Hệ thống kênh rạch ở Hưng Định khá dày, tập trung phần lớn ở phía Đông, đây
là nguồn nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ở nơi đây.
Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An, QĐ Số 3746 Phê duyệt đồ án quy hoạch phân khu tỉ lệ 1/2000 Hưng Định đến
2020, định hướng đến năm 2030, ngày 26 – 6 – 2013.
1
10
Với những điều kiện tự nhiên thuận lợi, trong quá trình khai phá tạo dựng làng xã,
nhân dân xã Hưng Định qua bao thế hệ đã đấu tranh chống lại thiên nhiên để sinh tồn và
phát triển, tạo nên một vùng đất mới phù sa, tươi tốt.
1.2.
Đặc điểm dân cư
Dân số xã trước năm 1975 là 3.945 người. Sau năm 1975, có 5.121 người. Đến
năm 2005, có 1.1.34 hộ với 6.290 người2.
Nam Bộ trước thế kỉ XVII còn là một vùng đất hoang vắng, chỉ có một số cư dân
bản địa các tộc người Stiêng, người Chàm, rồi người Khơme sinh sống thưa thớt trên các
vùng đồi cao, sống chủ yếu bằng việc săn bắt, hái lượm, làm lúa. Đất đai chủ yếu là rừng
rậm, đầm lầy hoang hóa, nhiều thú dữ. Đa phần đất chưa được khai phá. Năm 1558,
Nguyễn Hoàng vào giữ Trấn thủ Thuận Hóa tiến hành chiêu dân mở đất dần về phía
Nam, nhằm chống lại chúa Trịnh ở Bắc Hà. Lúc bấy giờ, dân cư người Việt mới chỉ khai
phá từ vùng sông Gianh đến địa bàn Phú Yên, Khánh Hòa. Do đất hoang còn nhiều, dân
cư lại ít nên nhu cầu mở rộng đất đai vào vùng Nam Bộ cho dân sinh sống chưa cấp thiết
lắm.
Đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, khi cuộc giao tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài
45 năm (1627 – 1672) diễn ra, dân số Đàng Trong tăng lên từ số tù binh Bắc Hà mà chúa
Nguyễn bắt được đem vào khai khẩn đất hoang ở một số vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên,… Mặt khác, lúc bấy giờ, Đàng Ngoài lại đất chật người đông, thiên
tai, lũ lụt, hạn hán xảy ra liên miên, mất mùa đói kéo xảy ra, buộc dân chúng phải rời bỏ
quê hương mà tìm đến vùng đất mới để sinh sống. Các chúa Nguyễn nhận thấy tiềm năng
của vùng đất Nam Bộ nên đã gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp Preachey
Chetttha II nhằm đưa dân tiến vào Nam Bộ.
Trong quá trình Nam tiến, lưu dân vùng Ngũ Quảng đã dừng chân tại các vùng đất
Mô Xoài – Bà Rịa, Cù lao Phố – Biên Hòa, Bến Nghé – Sài Gòn, sau dần tiến vào vùng
BCH Đảng bộ huyện Thuận An, Đảng bộ xã Hưng Định, Lịch Sử truyền thống Đảng bộ và nhân dân xã Hưng
Định (1930 – 2005), Bình Dương - 2009
2
11
Bàn Lâm, Bến Gỗ, Bến Cá, Cù lao Rùa, Cù lao Tân Chánh, Tân Triều, Tân Uyên, Rạch
Giá Ruông…để định cư và khai khẩn. Nơi họ dừng chân là những vùng đất ven sông Thị
Tính, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn rất nhiều đất đai phù sa màu mỡ, có thể giúp họ ổn
định cuộc sống3. Dọc theo những con sông ấy, đất đai hai bên bờ được bồi đắp phù sa nên
các lưu dân đã nhanh chóng tìm được vùng đất mới thích hợp để định cư, khai hoang, cất
nhà, làm vườn.
Song song với việc định cư là việc hình thành và phát triển nền nông nghiệp lúa
nước cùng hệ thống vườn cây ăn quả nên diện tích đất nông nghiệp càng ngày càng được
mở rộng. Do mới bước chân đến vùng đất mới lạ để sinh cơ lập nghiệp nên lưu dân Việt
phải dựa vào nhau, đoàn kết thuần hóa thiên nhiên hoang dã để sinh tồn. Và dần dần, số
lượng cư dân tăng lên, các ấp, thôn, xã được thành lập dần.
Như vậy, lớp cư dân đầu tiên vào đây phần lớn là những lưu dân ở các phủ Điện
Bàn, Quảng Nam, Quảng Ngãi di cư đến khai khẩn. Họ là những người theo chúa
Nguyễn Hoàng và các tù binh bị bắt, nhất là những người dân gặp nạn đói lớn ở Đàng
Ngoài, họ phải rời quê để làm lại cơ nghiệp. Họ sống chung với nhau và đến năm 1698,
khi chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam thiết lập chủ
quyền của nước Đại Việt trên đất Đồng Nai – Gia Định, cả dinh Trấn Biên có khoảng 4
vạn hộ tức 40.000 gia đình. Trên cơ sở đó, chúa Nguyễn đã cho phép đặt ra phường, ấp,
xã thôn, chia cắt địa phận để quản lý dân cư. Vùng đất nay là tỉnh Bình Dương thưở ấy
thuộc Tổng Bình An, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên.
Bên cạnh đó, còn nhiều người Hoa cũng di cư vào đây theo từng đợt. Phần đông là
những người lao động nghèo. Họ qua đất Nam mỗi khi bên Trung Quốc có biến động
chính trị. Nhất là trong khoảng thời gian diễn ra phong trào “phản Thanh phục Minh” thất
bại. Đã có khoảng 3000 binh lính do Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch dẫn đầu
xuôi biển tới Đàng Trong xin chúa Nguyễn định cư. Với sự năng động, cần mẫn, lưu dân
người Hoa đã nhanh chóng lập nên những khu chợ tấp nập sầm uất ở Cù lao Phố hay Bến
3
Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Địa chí Bình Dương tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Tr. 153
12
Nghé và dần tỏa ra các khu vực lân cận. Đến đây, họ cùng người Việt khai phá đất hoang,
làm nông nghiệp. Đến thế kỉ XVIII, người Hoa ở Bình Dương còn làm các nghề thủ công
truyền thống như làm gốm. Như vùng gốm sứ Cây Mai – Bến Nghé phát triển mạnh vào
thế kỉ XVIII nổi tiếng với gốm men xanh, men vàng, nhất là tượng gốm và tranh gốm.
Nguyên liệu được lấy từ đất Thủ rồi chuyển về vùng Cây Mai theo đường sông. Cư dân
đến vùng Cây Mai ngày một đông, đất chật người đông nên các nghệ nhân muốn tìm đến
một nơi khác rộng rãi hơn. Lúc bấy giờ, vùng Chòm Sao của Hưng Định, Lái Thiêu là
nơi lý tưởng với vùng đất rộng, thuận lợi cho việc tìm nguyên liệu và lưu thông buôn bán.
Bởi vậy. Nghề gốm có mặt sớm tại vùng Chòm Sao vào khoảng năm 1858, 1860 rồi dần
phát triển ra Lái Thiêu, Phú Cường.
Ngoài ra, còn có những người thương nhân vượt biển để buôn bán và một số đã ở
lại Đàng Trong sinh sống định cư.
Nhìn chung nguồn gốc cư dân phần đông là những người lao động nghèo khó, họ
di cư xuôi Nam để tránh họa nghèo đói, họa chiến tranh, phải đi tìm vùng đất mới sinh cơ
lập nghiệp. Những thành phần tù tội bị đày tới nơi xa lao động cải tạo.
Những binh lính quan quân chúa Nguyễn tình nguyện cùng lưu dân khai phá đất
hoang. Những nhà nho chán ghét thói đời đen bạc. Trong đó có ông Nguyễn Văn Bình,
người quê ở Quảng Bình theo đạo Thiên Chúa, học thi đỗ ra làm quan, được cử chức tri
châu. Sau 12 năm lận đận quang trường, vì chán cảnh đao binh loạn lạc, nên ông đã cáo
bệnh từ quan, chuyển sang làm nghề lương y bốc thuốc với danh hiệu Đức Trọng Đường.
Ông đã nhiều lần xuôi Nam đến trấn Biên Hòa, tới huyện Bình An bốc thuốc chữa bệnh
cho lưu dân. Những nơi ông đặt chân tới, ông có để tâm đến một vùng đất thung lũng khá
bằng phẳng. Tới khi ngoài 40, ông mới quyết định đưa gia đình vào Nam lập nghiệp. Ông
lấy tên hai người con của mình để đặt tên cho xã.
Bên cạnh lớp dân di cư trên còn có những giáo dân lui tới đây, chạy trốn những
chính sách bài trừ đạo Thiên Chúa của triều đình nhà Nguyễn và truyền đạo. Ngoài ra còn
có những người phản đối chính quyền phong kiến Đàng Ngoài bị đày ải vào chốn hoang
13
vu này để sống. Làng xã lần lượt ra đời và đi vào sản xuất ổn định đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc buôn bán làm ăn của lớp cư dân người Hoa. Trong đó phát triển nghề gốm
sứ. Cư dân Hưng Định ngày một đông đúc.
Dưới thời Pháp thuộc, với chính sách sưu cao thuế nặng của Tự Đức đã đẩy người
dân nghèo từ miền Bắc, miền Trung tìm đến Nam Bộ. Qua những lần khai thác thuộc địa
cùng những chính sách mở đồn điền cao su, thực dân Pháp tuyển mộ nông dân nghèo
khốn cùng vào làm cu ly cho các đồn điền cao su. Họ trở thành lớp cư dân mới ở vùng
đất này.
Có thể thấy, những lưu dân đến vùng đất mới có nhiều thành phần nhưng họ có chí
làm ăn trên vùng đất mới với bạt ngàn cây rừng, thú dữ. Tuy khác nhau về dòng họ, quê
quán những khi tới đây, họ đã tập hợp lại với nhau, tương trợ nhau, cùng nhau khai phá,
biến vùng đất hoang sơ thành vùng đồng bằng phù sa màu mỡ, dựng làng khai xóm bằng
chính sức lao động của mình, họ đã anh dũng chống lại kẻ thù xâm lược các thời, vượt
qua những khó khăn của thiên nhiên để tồn tại và đi lên., từng bước tiến lên cải thiện
cuộc sống, đưa kinh tế, văn hóa, xã hội nơi đây phát triển và đang trên đà trở thành một
tỉnh trọng điểm kinh tế phía Nam của đất nước.
Chương II. Quá trình hình thành và phát triển của Hưng Định từ đầu thế kỉ XIX
đến năm 2015
2.1.
Hưng Định từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1861
Khi đất nước trong cảnh đao binh loạn lạc, bản thân ông Bình lại là một bậc chi
dân phụ mẫu, nhưng lực bất tòng tâm trước diễn biến của thời cuộc. Nhìn cảnh dân chúng
lầm than, đói khổ mà không sao tháo gỡ được, sự bất lực của một giáo dân sống dưới
chính sách cấm đạo sát đạo của triều đình điều này khiến ông trăn trở nhiều.
Vì vậy, vào khoảng năm 1797 dưới triều Tây Sơn, ông cáo bệnh từ quan, sau 12
năm trên chốn quan trường. Ông trở về với nghề thuốc và muốn lập nghiệp ở vùng đất
14
phủ Gia Định xa xôi. Ở nơi đó, ông biết từ năm 1788, Nguyễn Ánh đã kiểm soát được
hoàn toàn vùng Gia Định và người Công giáo được giữ đạo yên ổn.
Ông thường theo các ghe bầu vào Nam làm thuốc, chữa bệnh và bán các loại thuốc
quý, vì lý do đấy nên ông quen biết đến vùng Bến Sắn, Bố Mua. Trong khi đi tìm cây làm
thuốc từ vùng Lái Thiêu đến miệt Bà Trà – Tân Khánh, ông đã gặp giữa khoảng này một
vùng đất hoang vu rộng khoảng 5 cây số vuông, gọi là cái bưng, nơi vùng lầy lội và lấp
xấp nước, cây cỏ mọc um tùm, cách Sông Thủ Khúc (sông Sài Gòn bây giờ) độ 2000
thước. Búng nước lớn bao bọc bởi một khu đất thấp (đất bưng) rất phì nhiêu và rộng rãi.
Lúc đó, vùng này là vùng ẩm thấp mà người ta gọi là cái bưng.
Trong bưng ấy có nhiều cồn nhỏ và có nhiều đường nước nhỏ gọi là đường long
(hay còn gọi là “long mạch”) do trâu đi xuống ăn cỏ theo quanh cồn mà tạo nên. Vì trâu ở
giồng nên qua mùa nắng, những thôn quanh đó đều thả trâu vào đó lăn nằm cả ngày, cho
đến khi mãn mùa nắng. Nước trong bưng đó rất trong vì có nước lớn nước ròng vào ra
thường xuyên, cá tôm rất nhiều.
Xung quanh bưng hướng Tây Nam chừng một cây số rưỡi vuông là đất bưng, ở
hướng Đông Bắc có chừng một cây số rưỡi vuông là đất Giồng, có đá sỏi và rừng chồi,
người quanh vùng gọi là Gò Cầy. Ở khoảng giữa vùng bưng ấy có con rạch lớn, gọi là
rạch Cây Trâm, uốn lượn chảy từ Gò Cầy xuôi xuống sông Búng trổ ra cầu Cây Trâm bây
giờ. Cho đến năm 1800, vùng đất này thuộc về tổng Bình An, huyện Phước Long, dinh
Trấn Biên, Gia Định phủ. Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh đổi Gia Định phủ thành Gia
Định trấn.
Lúc đó, các Chúa Nguyễn có chính sách khuyến khích người dân khai khẩn những
vùng đất hoang, tạo lập làng mới. Một quan nhân như ông, với sự hiểu biết của mình ông
đã không bỏ lỡ cơ hội tạo lập cho mình một làng ở vùng đất mới cho bà con thân thuộc
sinh sống.
15
Lúc đầu, ông cùng vợ và hai con, con gái tên Nguyễn Thị Hưng có chồng là Lê
Văn Quyền, và con trai tên Nguyễn Văn Định vào Nam. Ông gồng gánh đem theo nhiều
hạt giống bầu, bí, khoai, đậu... để trồng ăn và gây giống. Ông tới Lái Thiêu rồi tới Gò
Cầy cắt tranh, chặt cây dựng nhà để ở, phát quang cây cối xung quanh nhà, rồi mua trâu
làm ruộng, đồng thời ông vẫn hành y trị bệnh cứu người.
Sau một thời gian ổn định, mỗi năm ông thu hoạch được 500 giạ lúa, bầy trâu có
hơn một chục con và ba bốn con ngựa để làm phương tiện di chuyển khi đi chữa bệnh ở
những nơi xa. Ông cho con trai ông là Nguyễn Văn Định và con rể là Lê Văn Phước trở
về quê cũ vận động bà con thân thuộc, cùng làng gồm mấy chục gia đình vào Búng quy
dân lập ấp. Buổi đầu ông giúp đỡ các phương tiện để tự lập, và ở các làng kế cận cũng có
một số gia đình có đạo thấy có cơ hội cũng đến xin khai khẩn. Khoảng 5 năm sau thì có
được 30 gia đình, dân số nam phụ lão ấu trên dưới 200 người. Trong số chỉ có năm, mười
gia đình là người bên Lương.4
Dưới thời vua Gia Long, ngày 12 - 01 năm Mậu Thìn 1808, vua Gia Long đổi Gia
Định trấn thành Gia Định thành, cai quản 5 trấn trong Nam: Phiên An, Biên Hòa (Trấn
Biên cũ), Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Trấn Biên Hòa gồm: 1 phủ, 4 huyện.
Phủ Phước Long có 4 huyện: Huyện Bình An, huyện Phước Chánh, huyện Phước
An và huyện Long Thành. Huyện Bình An có 2 tổng: Tổng Bình Chánh và tổng An Thủy
Tổng Bình Chánh có 50 thôn, ấp, xã, điếm5:
4
Nhiều tác giả (1988), Kỉ niệm Đệ nhất bách chu niên 1888 – 1988 nhà thờ họ đạo Búng, Tr 15-16
5
Phước An thôn, Long Tuyền thôn, Hòa Thạnh Đông thôn, Hòa Thuận thôn, Hòa Thuận Đông thôn, An Định thôn,
An Định Tây thôn, Tây An Đông Giáp xã, Tân An Nhị Giáp xã, Tân An Thuận Giáp xã, Tân An Hòa Giáp xã, Tân
An Lợi Giáp xã, Tân An Thạnh Giáp xã, Tân An Trung Giáp xã, Tân An Tây Giáp xã, Tân Mỹ Tây thôn, Bến Sắn
điếm, Hòa Mỹ thôn, Phú An ấp, Vĩnh Trường thôn, Bình Nhan Tây thôn, Phước Hóa Thuận thôn, Tân Khánh Tây
thôn, Tân Phước thôn, Vĩnh Phú, Bình Hòa thôn, Tân Đồng thôn, Phú Lợi Trung Giáp thôn, Phú Lợi Tây thôn, Bình
Điềm thôn, Bình Luật Tây thôn, Chánh An Tây thôn, Phú Thạnh thôn, Phú Thuận thôn,Hòa Thạnh thôn, Chánh An
Tây thôn, Chánh An Trung Giáp thôn, Chánh An thôn, Chánh Hòa ấp, Phú Lợi Đông Giáp thôn, Phú Lợi Thôn, Phú
16
Tuy nhiên, chưa thấy có tên làng Hưng Định. Thời kỳ này phân định ranh giới các
thôn xã chưa được rõ ràng, một số địa danh ở vùng Búng ngày nay chưa có lúc đó như:
An Thạnh, Bình Sơn, Bình Thuận. Nên đến năm 1810, khi dân cư quy tụ khá đông, ông
Bình đã thương lượng với các làng bên phân chia địa vực và đăng kí với triều đình theo
thể thức lập làng mới. Xã mới lấy tên là Hưng Định, xã thứ 13 trong tổng Bình Chánh
dưới thời vua Gia Long. Ông Bình là tiền hiền có công khai phá đất hoang, đứng ra lập
thành xã. Định rõ ranh giới cho xã Hưng Định như hiện nay.
Ông lấy tên 2 đứa con đặt cho xã. Xã được phân làm 3 ấp:
Ấp HƯNG PHƯỚC (ở giữa)
Ấp HƯNG LỘC (ở lò chén Chùm sao)
Ấp HƯNG THỌ (ở Cầu Ngang)
Ông Lê Văn Quyền làm Hương Cả, ông Nguyễn Văn Định làm Xã Trưởng
Là làng mới Tân Tạo nên không có ai đủ điều kiện vì vậy hai ông cất một công sở
tại Hưng Thọ, nơi này đặt 2 câu liễng đối toán chữ nho tại đó:
Xuân cúc thu đào Hưng địa vinh huê vô hạn lạc
Ngọc đường kim mã Định gia nhựt lệ hữu thời lai
(Liễng đối này tồn tại tới năm 1945)
Cơ sở hành chính xã thường được gọi là Nhà Việc, Trụ sở chánh gọi là Nhà Hội,
được xây cất ở ấp Hưng Thọ, đối diện Cầu Ngang. Nhà Việc ấp Hưng Phước ở tại ngã ba,
Hòa thôn, An Phú ấp, Bình Nhan Đông thôn, Bình Nhan Thạnh thôn, Bình Nhan Nhứt thôn, Bình Nhan Thượng
thôn, Tân Thới Trung Giáp thôn, Tân Thới Đông Giáp xã, Tân Thới xã.
17
góc đường nhà thờ quẹo vô lò chén Cây Sao, còn nhà Việc ấp Hưng Lộc ở gần cuối
đường lò chén.6
Đến đầu thế kỉ XVIII, Hưng Định đã được hình thành và là làng thứ 18 trong Tổng
Bình Chánh, huyện Bình An, phủ Phước Long, thị trấn Biên Hòa. Hưng Định được thành
lập với tên Nguyễn Văn Định đứng đơn làm xã trưởng.
Làng Hưng Định từ năm 1810 đã hình thành với dân số khoảng 200 người cuộc
sống giai đoạn đầu tuy có khó khăn về vật chất nhưng cũng thỏa mãn được đối với những
lưu dân trên vùng đất mới này. Tổ chức hành chính đã đi vào nề nếp với đầy đủ hương
chức hội tề, việc giữ đạo của người công giáo không bị cản trở nào trong thời vua Gia
Long (1802 – 1820).
Dân số khoảng 30 hộ từ ngày đầu cho đến khi lập thôn. Ngoài những người bà con
thân thuộc từ quê hương của ông Bình, còn có một số dân ở những vùng miền khác cũng
đến sinh sống như: Gia đình ông Đoàn Công Miên đến từ Huế, vì lý do Công giáo cũng
vào định cư ở ấp Hưng Thọ, và năm 1826, người con út là Phêrô Đoàn Công Quí sinh tại
đây.
Năm 1821, triều Minh Mạng thứ 2, huyện Bình An coi 4 tổng: Bình Chánh Thượng,
Bình Chánh Hạ, Bình Chánh Trung và Bình Chánh Tây.
Năm 1832, vua Minh Mạng đổi trấn Biên Hòa thành tỉnh Biên Hòa.
Năm 1836, vua Minh Mạng (1820 – 1840) cho đạc điền và lập địa bạ ở tỉnh Biên Hòa.
Lúc này, làng Hưng Định đã có tên chánh thức trong sổ bộ quản lý thuộc tổng Bình
Chánh Thượng, huyện Bình An, có diện tích ruộng là 3.4.12.9 chia ra 29 sở chủ, nhiều
chủ chỉ có 9 hay 10 thước đất.
6
Nguyễn Thới Linh (cháu 5 đời của ông Bình) (1965), Tiểu sử làng Hưng Định – Họ Búng, Tr 4-5
18
Trải qua 31 năm từ triều Gia Long đến triều Minh Mạng thứ 17, công cuộc đo đạc sáu
tỉnh Nam kỳ mới hoàn thành. Phân ranh địa lý và quản lý hành chính.
Biên Hòa Tỉnh, Phước Long Phủ, Bình An Huyện: gồm 8 tổng
o 1. An Thủy Thượng tổng
5. Bình Chánh Thượng tổng
o 2. An Thủy Hạ tổng
6. Bình Chánh Hạ tổng
o 3. An Thủy Trung tổng
7. Bình Chánh Trung tổng
o 4. An Thủy Đông tổng
8. Bình Chánh Tây tổng
Bình Chánh Thượng tổng: 8 thôn. 1 xã. Toàn diện tích: 188.8.13.5
v Hưng Định thôn, ở xứ Ghe Tám: Phía Đông giáp thôn Bình Nhan Đông, có lập cột
gỗ làm giới. Tây giáp thôn An Thạnh, có lập cột gỗ làm giới, lại giáp thôn Bình Nhan
Thượng. Nam giáp thôn Bình Nhan Thượng, có rạch nhỏ làm giới. Bắc giáp thôn An
Thạnh, lập cột gỗ làm giới. Thực canh điền tô điền 3.4.12.9 (3 mẫu. 4 sào. 12 thước. 9
tấc). Dân cư thổ 1.8.0.0. Đất hoang nhàn 1 khoảnh.
v An Thạnh thôn, ở xứ Thâm Đà (rạch hay suối sâu)
v 3. Bình Nhan Đông thôn, ở 3 xứ Cây Me, Lương Đức, Bình Thuận
v 4. Bình Nhan Nhứt thôn, ở xứ Tài Lộc
v 5. Bình Nhan Thượng thôn, ở Lái Thiêu
v 6. Hòa Thạnh thôn, ở xứ Cầu Kè
v 7. Phú Long thôn, ở xứ Lái Thiêu
v 8. Tân Thới Đông xã, ở Lái Thiêu
v 9. Vĩnh Bình thôn, ở Khúc Duệ
Tổ chức hành chính thôn Hưng Định tức Bàn Hội Tề đã hình thành và hoàn thiện
từ lúc mới lập làng năm 1810. Bộ máy hành chính cơ sở này được qui định vào khoảng
cuối thế kỷ 17, hoàn chỉnh vào thời chúa Nguyến Phúc Ánh ở Gia Định. Các địa phương
được tùy tiện công cử, nên nơi này nơi khác không thống nhất. Tổ chức Hội Đồng Kỳ
Mục trong thời Nguyễn được hoàn chỉnh vào năm 1852. Theo Minh Điều Hương Ước
19
các làng tùy lớn nhỏ được công cử các chức vụ sau và làng Hưng Định cũng gồm có các
chức danh:
1. Trưởng Mục (có nơi gọi là Cả trưởng, Hương trưởng, Hương chủ...và phổ biến là
Hương cả) là Hương chức đứng đầu Hội đồng Kỳ mục, được quyền đề cử nhân sự vào
hội đồng.
2. Hương Chủ: Phó Trưởng mục, là Hương chức chịu trách nhiệm luật lệ, được quyền
phân xử các vụ việc khiếu kiện.
3. Hương Sư: Hương chức làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra. Tiêu chí phảilà người mẫu
mực, mô phạm.
4. Hương Chánh: làm nhiệm vụ thu thuế, chi xuất, phân công sai phái. Tiêu chí phải là
người công bình ngay thẳng.
5. Hương Quản: chức vụ chuyên trách giữ gìn an ninh trật tự, kiểm tra nhân khẩu.
6. Hương Thân: làm nhiệm vụ giáo hóa thuần phong mỹ tục. Tiêu chí phải là trí thức,
nhân sĩ hoặc quan lại hồi hưu.
7. Hương Hào: làm nhiệm vụ tuần phòng, kiểm tra an ninh trật tự. Tiêu chí phải là người
hào hiệp, hay giúp đỡ người hoạn nạn.
8. Thôn Trưởng: (có Phó thôn hoặc Lý trưởng giúp việc) là Hương chức trung gian giữa
địa phương và chính quyền cấp trên. Người thừa hành công vụ thu các loại thuế, chi xuất
nhu phí, giữ mộc triện.
9. Phó Thôn: (tùy nơi, có khi gọi là Phó xã, Phó ấp, Phó phường hoặc Lý trưởng) là chức
việc phụ tá Thôn trưởng, giữ gìn sổ bộ của xóm ấp.
20
- Xem thêm -