Quản lý đất rừng cộng đồng, can thiệp từ bên ngoài và phản
hồi địa phương: Nghiên cứu cộng đồng người Thái ở
xã Hạnh Dịch, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, Việt Nam
Luận văn để
hoàn thành
Cao học Khoa học Xã hội
tại
Trường Đại học Waikato
của
PHẠM VĂN DŨNG
2014
Bản tóm tắt
Trong bối cảnh ngày càng có thêm nhiều tương tác giữa các nhóm dân tộc xa xôi
cách trở với các tác nhân bên ngoài, thì một trong những vấn đề đáng được quan
tâm và bàn luận là quyền về đất rừng của họ chưa được khẳng định. Liệu việc chiếm
giữ đất bởi các chủ thể bên ngoài và việc bảo trợ quản lý rừng theo mệnh lệnh có
đáp ứng được nguyện vọng của người dân bị mất đất? Cộng đồng địa phương cần
được tham gia quản lý đất rừng và có vai trò quyết định đối với tương lai của mình
ra sao và đến mức độ nào? Để trả lời các câu hỏi trên, nghiên cứu này dựa trên các
cuộc phỏng vấn sâu tập trung vào truyền thống, tín ngưỡng, luật tục, tri thức địa
phương, những bình luận và kiến nghị của người Thái và một số người ngoài sống
ở xã Hạnh Dịch, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Bên cạnh đó là việc tổng hợp và phân tích các nghiên cứu và báo cáo trước đây trong
hệ thống dữ liệu của SPERI (Viện Nghiên cứu Sinh thái Chính sách Xã hội).
Các phát hiện và tranh luận trong Luận văn này gồm có: đặc điểm văn hóa của người
Thái ở địa phương, lược sử các can thiệp từ bên ngoài, phản hồi từ địa phương, và
các phương pháp luận tiếp cận và nhận thức để nghiên cứu văn hóa và đất rừng bản
địa. Một trong những nhận định là: người dân địa phương đã và đang giữ gìn cách
hiểu, niềm tin, luật tục và thực hành các thể chế và tổ chức truyền thống một cách
toàn diện và đặc thù, và những giá trị cùng với sức mạnh vốn có đó có thể đóng góp
hiệu quả vào việc bảo vệ rừng và cải thiện sinh kế của người dân địa phương. Tuy
nhiên, cũng có thể nhận thấy rằng cách tiếp cận chính thống và ngày càng lấn lướt
từ trên xuống đã không nhận diện hoặc khuyến khích, thậm chí làm tổn hại đến sức
mạnh và giá trị của địa phương. Bên cạnh đó, cách nhìn vị chủng (tự cho dân tộc
mình là hơn tất cả) và cách hiểu hời hợt về giá trị của người dân tộc ít người đang
tràn ngập trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam. Trước hiện tượng
này, cần gióng lên một hồi chuông thức tỉnh về quyền văn hóa, nhân quyền và chất
ii
lượng của quá trình lập định chính sách và thực thi pháp luật, bởi vì tất cả đều không
tránh được ảnh hưởng của quan điểm và tiếp cận vị chủng.
Trước những tổn thương do những can thiệp chính thống, người dân địa phương
phản ứng một cách dè dặt và không trực diện. Do hệ quả của những can thiệp từ
ngoài, người dân phải tìm cách điều chỉnh hệ thống canh tác và đặc điểm văn hóa
của mình. Tuy nhiên người dân, đặc biệt là các cụ già vẫn mong mỏi hồi phục lại
những giá trị văn hóa. Với cách tiếp cận thay thế từ dưới lên do SPERI khởi xướng,
người dân được khuyến khích phát huy sức mạnh thể chế và tổ chức
truyền thống để hướng tới tương lai tươi đẹp hơn. Trong tiến trình dân chủ hóa và
phi tập trung hóa, thì quyền đất đai và quyền luật tục của cộng đồng cần được chính
thức nhận diện và khẳng định. Nhưng không nên nhìn nhận việc chứng thực bởi
chính quyền là mục tiêu cuối cùng, mà chỉ là yếu tố hỗ trợ, trong khi đó sức mạnh
của cộng đồng địa phương để tự thực thi các quyền của mình phải là yếu tố quyết
định. Để nhắm tới đích đó, người bản địa cần thêm cơ hội liên kết mạng lưới, tăng
cường năng lực và tham gia vào các nghiên cứu kỹ lưỡng về văn hóa-xã hội để bảo
đảm rằng tính đại diện của họ ngày càng thực chất và công bằng.
iii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới người dân và cán bộ xã Hạnh Dịch,
huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, Việt Nam, những người đã tạo điều kiện và cung
cấp cho tôi những thông tin quí báu về phong tục tập quán, quản lý đất rừng, cùng
những suy nghĩ, trăn trở của mình. Tôi đặc biệt ghi nhận vai trò của ông Sầm Quốc
Việt, ông Lô Khánh Xuyên, bà Lương Thị Văn và ông Vi Đình Văn cùng nhiều già
làng, những người có nhiều kinh nghiệm trong cộng đồng khi họ đã nhiệt tình chia
sẻ, giúp đỡ và tư vấn để tôi hoàn thành tốt nghiên cứu tại thực địa.
Tôi có được kết quả nghiên cứu và học tập ngày hôm nay là nhờ những tư vấn, giúp
đỡ rất lớn của bà Trần Thị Lành, người sáng lập và dẫn dắt các Trung tâm TEW,
CIRD và CHESH cùng với viện SPERI ngày nay, những nơi tôi đã công tác suốt 18
năm qua. Kết quả nghiên cứu trong Luận văn này không phải là của riêng tôi, mà là
kết quả từ những nỗ lực chung của nhiều cán bộ các tổ chức trên.
Tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Keith Barber, giảng viên Chương trình Nhân học trường Đại
học Waikato, người đã chỉ dẫn nhiệt tình, kịp thời, cụ thể cho tôi trong suốt quá trình
chuẩn bị nghiên cứu thực địa và hoàn thiện Luận văn này. Tôi cũng cảm ơn Tiến sĩ
Thomas Rayan cùng các giảng viên Chương trình nhân học vì những động viên về
tinh thần đối với tôi. Tôi ghi nhận công lao của bà Sheeba DevanRolls khi kiên trì
giúp tôi cải thiện ngữ pháp trong bản nháp Luận văn tiếng Anh.
Nói đến những hỗ trợ về ngân sách cho khóa học này, tôi không thể không nhắc đến
Học bổng Học thuật New Zealand-ASEAN (New Zealand ASEAN Scholars
Awards) thông qua Đại sứ quán New Zealand tại Việt Nam. Xin chân thành cảm ơn
các cán bộ Đại sứ quán đã tin tưởng và lựa chọn tôi, và tôi nghĩ là mình đã cố gắng
để không phụ lòng tin đó.
Những người được nhắc đến cuối, nhưng không kém phần quan trọng là cha mẹ, vợ
và các con tôi cùng những người thân khác đã luôn sát cánh và động viên về tinh
thần, giúp tôi vượt qua một giai đoạn khó khăn khi xa nhà để hoàn thành Luận văn
này.
iv
Những tranh luận trong Luận văn này không nhất thiết là những ý kiến của những
người đã được nhắc đến, và tôi hoàn toàn tự chịu trách nhiệm trước những thông tin
đó.
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
Bộ NN&PTNT
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Bộ TN&MT
Bộ Tài nguyên và Môi trường
BQL
Ban quản lý
BTTN
Bảo tồn Thiên nhiên
CHESH
CIRD
Centre for Human Ecology Studies in Highlands (Trung tâm
Sinh thái Nhân văn Vùng cao)
Centre for Indigenous Knowledge Research and
Development (Trung tâm Nghiên cứu Kiến thức Bản địa và
Phát triển)
CSQP
Cao su Quế Phong
HĐND
Hội đồng nhân dân
ICCO
MECO-ECOTRA
Interchurch Organization for Cooperation Development, the
Netherlands (Tổ chức Liên giáo hội vì Hợp tác và Phát triển,
Hà Lan), http://www.icco-international.com/int/
Mekong Community Networking and Ecological Trading
(Mạng lưới Thương mại Sinh thái vùng Mê-công)
QHVN
Quốc hội Việt Nam
SPERI
Social Policy Ecology Research Institute (Viện Nghiên cứu
Sinh thái Chính sách Xã hội), http://speri.org/
TEW
Towards Ethnic Women (Trung tâm Hướng tới Phụ nữ Dân
tộc)
TK&TD
Tiết kiệm & Tín dụng
v
TNTN
Tài nguyên thiên nhiên
TNXP7
Thanh niên Xung phong Xây dựng Kinh tế 7
UBND
MỤC LỤC
Ủy ban nhân dân
Bản tóm tắt ......................................................................................................................... ii
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................iv
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 2. TỔNG LƯỢC CÁC NGHIÊN CỨU ĐÃ CÓ ........................................................... 6
2.1. Tóm lược về người Thái và dân tộc ít người ở Việt Nam ......................................... 6
2.2. Bàn luận về kiến thức bản địa và quyền về văn hóa ................................................ 8
2.3. Tranh luận về đất rừng cộng đồng và sinh kế ........................................................ 11
CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU.................................................................................. 15
3.1. Lựa chọn tài liệu ..................................................................................................... 15
3.2. Sử dụng các dữ liệu phù hợp của SPERI ................................................................. 15
3.3. Phương pháp nghiên cứu tại thực địa ................................................................... 17
CHƯƠNG 4. NHỮNG PHÁT HIỆN ....................................................................................... 21
4.1. Sơ lược về người Thái ở xã Hạnh Dịch ................................................................... 21
4.2. Văn hóa dân gian của người Thái ở xã Hạnh Dịch ................................................. 25
4.2.1. Niềm tin, thế giới quan và hệ giá trị về con người và thiên nhiên .................. 25
4.2.2. Luật tục, lễ hội và bảo vệ rừng ........................................................................ 27
4.2.3. Tổ chức truyền thống và quản lý đất rừng ..................................................... 30
4.2.4. Tri thức địa phương và quy hoạch cảnh quan ................................................ 33
4.2.5. Kiến thức địa phương trong canh tác truyền thống ....................................... 34
4.3. Các can thiệp từ bên ngoài và hệ quả .................................................................... 36
vi
4.3.1. Thời phong kiến và thực dân (trước 1945) ..................................................... 36
4.3.2. Luật và chính sách về đất và rừng ở địa phương (từ năm 1945) .................... 37
4.3.3. Thời kỳ hợp tác xã (1960 đến giữa những năm 1980) .................................... 39
4.3.4. Ngành lâm nghiệp quốc doanh (từ 1970) ....................................................... 41
4.3.5. Tư nhân hóa (từ năm 2000) ............................................................................ 44
4.3.6. Các dự án phát triển (từ những năm 1970) .................................................... 45
4.4. Phản hồi từ địa phương ......................................................................................... 48
4.4.1. Thay đổi và điều chỉnh của địa phương .......................................................... 48
4.4.2. Bình luận của người dân về các can thiệp từ bên ngoài ................................. 51
4.4.3. Các câu ca, câu nói về các yếu tố bên ngoài ................................................... 53
4.4.4. Mong muốn và kiến nghị từ địa phương ........................................................ 56
4.5. Tiếp cận thay thế của TEW và SPERI (2001-2014) ................................................. 59
4.5.1. Quá trình học hỏi: giá trị văn hóa, nội lực và nhu cầu của cộng đồng ............ 59
4.5.2. Giao đất giao rừng ở xã Hạnh Dịch năm 2003 ................................................ 62
4.5.3. Chia sẻ kiến thức và liên kết mạng lưới .......................................................... 67
4.5.4. Giao đất kết hợp giao rừng ở bản Pỏm Om và bốn bản khác năm 2012 và
2013 .......................................................................................................................... 75
4.5.5. Hậu giao đất giao rừng: thách thức và những việc cần làm ........................... 79
CHƯƠNG 5. THẢO LUẬN ................................................................................................... 82
5.1. Lạc hậu và mê tín hay là bản sắc và sức mạnh? ..................................................... 82
5.2. Luật pháp hay luật tục? .......................................................................................... 88
5.3. Áp đặt hay từ dưới lên? ......................................................................................... 93
5.4. Hướng đi tương lai ................................................................................................. 98
5.4.1. Khung pháp lý về rừng cộng đồng tại Việt Nam ............................................. 98
5.4.2. Thực thi pháp luật ......................................................................................... 101
5.4.3. Vận dụng cho xã Hạnh Dịch .......................................................................... 102
vii
CHƯƠNG 6. KẾT LUẬN .................................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 109
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 114
Phụ lục 1. Bản đồ vùng nghiên cứu và vùng dự án của LISO ...................................... 114
Phụ lục 2. Những thuật ngữ có ích trong nghiên cứu người Thái ở xã Hạnh Dịch, Quế
Phong, Nghệ An .......................................................................................................... 115
Phụ lục 3. Tình hình sử dụng đất tại xã Hạnh Dịch (2002) .......................................... 117
Phụ lục 4. Phân tích chủ thể trong giao đất giao rừng 2003 ...................................... 118
Phụ lục 5. Kết quả giao đất giao rừng tại xã Hạnh Dịch năm 2003 ............................. 120
Phụ lục 6. Tình hình sử dụng đất tại huyện Quế Phong (2012) .................................. 121
Phụ lục 7. Phân loại đất rừng bởi cộng đồng bản Pỏm Om (2012) ............................ 122
viii
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU
Cùng với những tác động từ bên ngoài vào các cộng đồng dân tộc ít người và bản
địa trong suốt mấy chục năm qua, những thuật ngữ như “phát triển”, hay “hiện đại
hóa”, hoặc “xóa đói giảm nghèo” đã được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam và trên thế
giới. Tuy nhiên, người ta thường không làm rõ và hiểu sâu hàm nghĩa chính xác của
các thuật ngữ nêu trên. Những tác nhân bên ngoài các cộng đồng, như báo giới, quan
chức, và thậm chí cả các “tổ chức phát triển” hoặc các phi chính phủ thường sử dụng
các thống kê chung chung với cách hiểu hời hợt để phán xét và áp đặt phương pháp
can thiệp vào các vùng dân tộc ít người. Vì cách nhìn nông cạn và định kiến của
người ngoài, nên người ta thường bị bóp méo và hiểu sai lệch thực tế của người dân
tộc ít người, bản địa. Trong nhiều trường hợp các tác nhân ngoài cộng đồng (như
nhà nước, báo chí và các tổ chức ‘phát triển’) cứ mặc nhiên đơn giản hóa một cách
bất công khi gán cho người thiểu số các từ ‘lạc hậu’, ‘kém phát triển’. Vẫn còn thiếu
những nghiên cứu kỹ lưỡng và sự tôn trọng đối với các đặc tính văn hóa, luật tục,
thể chế truyền thống và sức mạnh nội tại của các cộng đồng. Mặc cho những thuật
ngữ rối rắm và dữ liệu nhằng nhịt trong các ‘chỉ sổ phát triển con người’ của các tổ
chức tầm quốc tế và quốc gia được tung ra, người dân tộc ở các địa phương đang
nhọc nhằn gồng mình giữ gìn các quyền cộng đồng, lối sống và an toàn sinh kế của
mình. Trở ngại đối với việc cải thiện cuộc sống của người dân tộc ít người và bản
địa không phải là do thực trạng xã hội hay phong tục của họ, mà thực sự là do những
tranh chấp về đất rừng và xung đột trong nhận thức và quan điểm giữa người dân
địa phương với các tác nhân bên ngoài.
Trong 50 năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách hợp tác hóa, tập
trung hóa, thiết lập nhiều vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, rừng phòng
hộ cùng với các lâm trường, nông trường. Nguồn tài nguyên rừng và đất vốn được
các cộng đồng sử dụng theo truyền thống đã được luật hóa và chuyển sang các cơ
quan nhà nước, đặc biệt là trong giai đoạn từ thập niên 60 đến 80 của thế kỷ XX. Do
quá trình tư nhân hóa và ảnh hưởng ngày càng mạnh của thị trường tự do kể từ những
năm 90 của thế kỷ XX, việc giao đất giao rừng thường thiên vị cho các doanh nghiệp
bên ngoài mà không phải các cộng đồng và người dân địa phương.
1
Luật Đất đai đầu tiên được ban hành năm 1987, rồi sau đó được sửa đổi, bổ sung 3
lần vào các năm 1993, 2003 và 2013. Tuy nhiên cộng đồng vẫn chưa được thừa nhận
là một chủ thể sử dụng đất cho đến tận khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực. Mặc dù
cộng đồng đã được công nhận là một chủ thể sử dụng đất theo Luật Đất đai 2003,
nhưng đến nay số cộng đồng được nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng
vẫn còn quá ít so với mong đợi. Những quy định và việc thực thi chính sách như trên
đã đưa đến hậu quả là các cộng đồng thiếu đất và rừng, nguồn tài nguyên sống còn
để duy trì an toàn sinh kế và giữ gìn bản sắc văn hóa của họ. Nếu không có sự tham
gia rộng rãi của người dân địa phương, thì khó có thể nói đến phương án các bên
cùng có lợi khi giải quyết các vấn đề an toàn sinh kế và môi trường (cụ thể là bảo vệ
rừng). Các vấn đề lớn, ngày càng bức thiết đang đặt ra trước các nhà hoạch định
chính sách, quan chức thực thi chính sách, các tác nhân về văn hóa và môi trường,
đó là làm sao tiếp cận thật phù hợp và hiệu quả ở từng địa phương trong khi đóng
góp giải quyết được những vấn đề lớn toàn cầu như an toàn sinh kế, bảo tồn đa dạng
sinh thái và văn hóa khi có biến đổi khí hậu và trái đất đang nóng lên.
Các cộng đồng gặp khó khăn đang cần phương pháp tiếp cận và những hỗ trợ phù
hợp để bảo đảm phúc lợi và giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Theo đuổi
công việc này, SPERI (Viện Nghiên cứu Sinh thái Chính sách Xã hội) và các tổ chức
tiền thân của mình đã và đang làm việc với nhiều cộng đồng dân tộc ít người khác
nhau, đặc biệt ở Việt Nam và Lào để cải thiện tình hình. SPERI là một tổ chức nghiên
cứu độc lập do tư nhân thành lập tại Việt Nam năm 2006. Các tổ chức tiền thân của
SPERI là TEW (Trung tâm Hướng tới Phụ nữ Dân tộc Thiểu số), CHESH (Trung
tâm Sinh thái Nhân văn Vùng cao), và CIRD (Trung tâm Nghiên cứu Kiến thức Bản
địa và Phát triển), đều là các tổ chức phi chính phủ (NGOs) được thành lập vào
những năm 90 của thế kỷ XX1. SPERI ưu tiên các hoạt động hỗ trợ nâng cao năng
lực quản lý tài nguyên thiên nhiên của các dân tộc ít người bản địa ở Việt Nam và
vùng Mê-công. Một mạng lưới của người dân có tên MECO-ECOTRA (Mạng lưới
Thương mại Sinh thái vùng Mê-công) được hình thành trong quá trình này để chia
sẻ các tri thức, luật tục, thuốc nam, thổ cẩm và thủ công mỹ nghệ, nông nghiệp sinh
thái liên thế hệ, liên cộng đồng, và tăng cường công bằng thương mại và thị trường
ngách cho các sản phẩm sinh thái. Các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn cũng đồng
thời được rút ra để chia sẻ với các nhà lập định chính sách, báo chí và công chúng,
1
Tác giả của luận văn này đã làm việc cho SPERI và các tổ chức tiền thân của SPERI từ năm 1996.
2
và trở thành đầu vào cho quá trình vận động chính sách để cải thiện hiểu biết và sự
công nhận các quyền của người bản địa đối với đất đai, các giá trị văn hóa, chủ quyền
sinh kế, và bản sắc sinh kế
(xem thêm các thuật ngữ này tại: http://speri.org/eng/107/LivelihoodSovereignty337.html).
Đối với trường hợp nghiên cứu cụ thể ở xã Hạnh Dịch, TEW đã bắt đầu chương trình
hỗ trợ bằng việc nghiên cứu văn hóa, phong tục tập quán, tri thức bản địa của cộng
đồng người Thái kể từ năm 2000. TEW, và sau đó là SPERI đã hỗ trợ cộng đồng
vận động chính sách để chính quyền địa phương giao đất và rừng cho cộng đồng và
hộ gia đình. Người dân có cùng sở thích đã cùng nhau lập ra các nhóm như thuốc
nam, thổ cẩm, làm vườn, chăn nuôi, tiết kiệm và tín dụng; về cơ bản các nhóm này
được lập trên cơ sở tổ chức truyền thống. Hoạt động mạng lưới giúp cho các thành
viên trong cộng đồng có thêm tự tin khi thực hành các tri thức địa phương cũng như
bảo vệ rừng. Vận động nội lực cộng đồng cùng với tiếp cận và các nghiên cứu của
SPERI/ TEW đã giúp xây dựng phương pháp tiếp cận văn hóa dựa vào cộng đồng
để thay thế cho cách làm áp đặt thường thấy ở các dự án chính thống.
Cũng tương tự như các cộng đồng khác, người Thái ở xã Hạnh Dịch đã thích nghi
tốt với điều kiện tự nhiên qua nhiều thế hệ. Họ có được nhiều tri thức quy báu trong
tổ chức xã hội và ứng xử với thiên nhiên. Tuy nhiên các giá trị của họ vẫn chưa được
nhận diện, tôn trọng và phát huy bởi các nhà kỹ trị, những người muốn chuyển đổi
đất và rừng từ tay cộng đồng sang vườn quốc gia, các ban quản lý rừng phòng hộ,
khu bảo tồn thiên nhiên, hoặc các công ty lâm nghiệp của nhà nước và tư nhân. Việc
chuyển quyền sở hữu đất rừng từ cộng đồng sang các chủ thể nhà nước diễn ra mạnh
mẽ nhất ở miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn 19601980 cùng với việc thiết lập các
hợp tác xã và cơ chế tập trung hóa. Mặc dù quản lý một lượng rất lớn đất rừng, nhưng
đa số các đơn vị quản lý rừng và doanh nghiệp nhà nước rất khó hoàn thành trách
nhiệm của mình; nhiều tổ chức không đạt được các nghĩa vụ xã hội và môi trường
bởi cách hiểu và tiếp cận của họ không phù hợp với thực tế địa phương. Vì thế hiểu
đúng đắn và tiếp cận phù hợp đối với mỗi cộng đồng dân tộc ít người cụ thể là yêu
cầu đặt ra đối với mỗi tổ chức thực thi và hỗ trợ cũng như mỗi nhà nghiên cứu thực
thụ. Để tranh luận có tính thuyết phục trên cơ sở bằng chứng cụ thể, chắc chắn,
nghiên cứu này sẽ tập trung vào trường hợp cụ thể của cộng đồng người Thái ở xã
Hạnh Dịch, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An ở Việt Nam. Nghiên cứu sẽ đặt vấn đề
3
tranh luận với các cách hiểu và cách làm quan liêu, và cố gắng hiểu thêm các giá trị
văn hóa, luật tục, thực tiễn sử dụng đất, bảo vệ rừng và sinh kế của người dân địa
phương.
Nghiên cứu này hướng tới trả lời hai câu hỏi chính là: 1) Người Thái ở xã Hạnh,
huyện Quế Phong đã và đang sử dụng đất và rừng của cha ông để lại trên cơ sở giữ
gìn luật tục và bảo toàn sinh kế như thế nào? và 2) Người Thái ở xã Hạnh Dịch đã
phản hồi các quan điểm, cách tiếp cận và can thiệp từ bên ngoài như thế nào? Các
câu hỏi phụ và minh họa cụ thể sẽ được trình bày trong các chương và mục của Luận
văn.
Luận văn này bao gồm sáu Chương. Tiếp sau phần Giới thiệu, chương thứ hai (Tổng
lược các nghiên cứu đã có) sẽ tóm lược và đánh giá các tác phẩm xuất bản về đặc
điểm văn hóa, luật tục và tri thức địa phương của người Thái, đặc biệt là chủ đề bảo
vệ rừng. Chương này cũng phân tích các tranh luận về chính sách rừng cộng đồng
và mối liên hệ giữa quyền của cộng đồng về đất rừng, chủ quyền sinh kế và bảo tồn
văn hóa ở địa phương. Chương thứ ba đề cập đến thiết kế nghiên cứu, mô tả rõ cách
thức tác giả tiến hành tổng hợp các nghiên cứu, lựa chọn tư liệu từ cơ sở dữ liệu của
SPERI và nghiên cứu điền dã. Phần Những phát hiện trong chương bốn, là phần lớn
nhất của Luận văn, sẽ lược thuật và liên kết các dữ liệu có liên quan của SPERI với
những phát hiện từ nghiên cứu điền dã. Chương này sẽ bắt đầu bằng việc giới thiệu
tóm tắt về người Thái ở xã Hạnh Dịch, sau đó mô tả tín ngưỡng, chuẩn mực, luật tục
và tổ chức truyền thống liên quan đến quản lý tài nguyên thiên nhiên. Sau phần lược
sử các can thiệp từ bên ngoài là phần phản hồi từ địa phương, tiếp đến là phần tiếp
cận hỗ trợ của SPERI, và phần triển vọng trong tương lai. Theo dòng lịch sử đã có
sáu tác nhân chính từ bên ngoài ảnh hưởng đến cộng đồng là: chính quyền phong
kiến và thực dân Pháp, nhà nước và luật pháp hiện đại, hợp tác xã, các chủ thể lâm
nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, và các dự án phát triển. Phản hồi của
người dân địa phương sẽ được xem xét dưới các góc độ: những thay đổi và điều
chỉnh của cộng đồng trong quản lý và sử dụng rừng, nhận xét đối với các can thiệp
bên ngoài, những câu nói, thơ, ca dao về người ngoài, và những mong mỏi, kiến nghị
của dân trước các chính sách và can thiệp về đất, rừng. Chương năm, phần Thảo luận
sẽ có các phân tích và tranh luận về vai trò của cộng đồng trong quản lý đất rừng.
Tác giả cố gắng giữ vai trò trung gian mặc dù các tranh luận được củng cố và dựa
vào những bằng chứng và câu chuyện từ địa phương, từ phương pháp tiếp cận của
4
SPERI, hoặc từ cách nhìn không quan liêu. Phần Kết luận trong chương sáu sẽ tóm
tắt và đánh giá về Luận văn cùng với những phát hiện và tranh luận quan trọng nhất
của tác giả đối với chủ đề quản lý rừng cộng đồng trên cơ sở nghiên cứu trường hợp
tại xã Hạnh Dịch.
5
CHƯƠNG 2. TỔNG LƯỢC CÁC NGHIÊN CỨU ĐÃ CÓ
2.1. Tóm lược về người Thái và dân tộc ít người ở Việt Nam
Cho đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu và xuất bản về dân tộc Thái ở Việt Nam.
Đáng chú ý là cuốn sách về luật tục của người Thái của Ngô Đức Thịnh và Cầm
Trọng xuất bản năm 1999. Hai tác giả này đã tập hợp các luật tục truyền miệng và
thành văn của người Thái, đặc biệt là nhóm sinh sống ở vùng Tây bắc Việt Nam.
Các tác giả cũng đề cập đến phong tục cưới xin và đám ma của người Thái Đen và
Thái Trắng. Về đặc trưng văn hóa 54 dân tộc ở Việt Nam, Hoàng Nam (2013) có
một số đoạn viết đáng chú ý về người Thái ở Việt Nam. Theo Hoàng Nam, Tên gọi
Bạch Y Man (Thái Trắng) đã lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện trong thư tịch thời
nhà Đường (618-907). Truyền thuyết của người Thái có nhắc đến nguồn gốc tổ tiên
của mình ở nơi hội tụ của chín con sông chảy qua Tây bắc Việt Nam, miền bắc Lào
và nam Trung Quốc. Từ thế kỉ thứ hai, người Thái Trắng đã di cư đến miền Bắc
Việt Nam, rồi sau đó tiếp tục di cư xuống phía nam, đến tỉnh Thanh Hóa (2013, trang
655-6), nghĩa là ở phía bắc vùng nghiên cứu của Luận văn này.
Nguồn sinh sống quan trọng đối với người Thái là thức ăn, thuốc nam, măng, cá và
các sản vật khác được thu hái từ rừng, sông suối (trang 658). Một bản làng đặc trưng
của người Thái thường có ruộng lúa, nương rẫy và đất chưa sử dụng. Người khai
hoang đất được thừa nhận quyền sử dụng, và đất chưa sử dụng là của chung cộng
đồng. Mọi người đều có quyền chăn thả gia súc và thu hái sản vật trên đất cộng đồng
(trang 660). Có hai nhân vật quan trọng nhất quản lý đời sống của bản làng là chảu
đin (chủ đất) và thày mo (lãnh đạo tinh thần). Khi cần lập bản mới, chảu đin dẫn dân
đi tìm vùng đất đủ để làm nhà, canh tác và chăn thả gia súc. Thầy mo làm lễ xin thần
đất cho phép lập bản và giúp chảu đin làm lắc mường, một cây cột tượng trưng cho
việc gắn kết và quy tụ cộng đồng (tài liệu đã dẫn, trang 661).
Phần trích dẫn trên của Hoàng Nam cơ bản phù hợp với những tìm hiểu của tác giả
tại vùng nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn cần nghiên cứu thêm để có thể xác định rõ người
Thái sống ở xã Hạnh Dịch và huyện Quế Phong thuộc về phân nhóm nào.
6
Theo Lô Khánh Xuyên (2004b) và một số già làng địa phương, người Thái di cư đến
sống ở xã Hạnh Dịch ngày nay có nguồn gốc từ Thanh Hóa và Lào. Trong khi người
dân địa phương tự nhận mình là Thái Thanh và Thái Mường, nên vẫn chưa khẳng
định được họ có phải là Thái Trắng hay không. Một số báo cáo nghiên cứu trong
kho tư liệu của SPERI lại gọi người Thái ở Hạnh Dịch là Thái Đen. Cách nhận diện
phân nhóm như vậy không khớp với nhận định của Hoàng Nam (2013) rằng người
Thái Trắng đã di cư đến Thanh Hóa, đồng thời là một nguồn gốc của một bộ phận
người Thái ở huyện Quế Phong. Thêm nữa, trong nghiên cứu về Chính tả trong ngôn
ngữ Thái ở Việt Nam, Mukdawijitra (2011) vẫn chưa khẳng định được người Thái
ở Nghệ An thuộc về phân nhóm nào. Bởi cách nhìn nhận khác nhau và có phần mâu
thuẫn như trên, nên trong Luận văn này tác giả sẽ dùng tộc danh mà người dân tự
nhận.
Trong khi các xuất bản nêu trên đề cập đến văn hóa của người Thái ở Việt Nam nói
chung, một số nghiên cứu khác tập trung cụ thể vào nhóm người Thái ở tỉnh Nghệ
An và huyện Quế Phong. Trong cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Quế Phong, Bùi Ngọc
Tam và cộng sự (2002) có bàn đến lịch sử di chuyển, định cư và điều kiện kinh tếxã hội của người dân địa phương, trong đó có người Thái trong mối liên hệ với thể
chế chính trị hiện đại và ảnh hưởng của nhà nước. Một số bài viết chưa xuất bản của
Lô Khánh Xuyên là nguồn tư liệu cụ thể và thích hợp nhất để trích dẫn trong Luận
văn này. Dựa trên nghiên cứu điền dã, Lô Khánh Xuyên (2004a) giới thiệu bản sắc
văn hóa, vũ trụ quan và các đặc điểm văn hóa vật thể và phi vật thể của người Thái
Thanh ở bản Na Xai thuộc xã Hạnh Dịch. Lô Khánh Xuyên (2004b) tập trung vào
luật tục trong quản lý và phát triển tài nguyên rừng, đất và nước của người Thái ở
tỉnh Nghệ An. Nhiều tài liệu nghiên cứu thực địa và báo cáo khác trong cơ sở dữ
liệu của SPERI giúp cho tác giả của luận văn khám phá và hiểu rõ hơn thể chế và tổ
chức truyền thống của người Thái, đặc biệt là tri thức và thực hành của họ trong việc
quản lý tài nguyên đất và rừng.
Trong khi các nghiên cứu kĩ lưỡng và xuất bản về văn hóa các dân tộc ít người chỉ
được một nhóm nhỏ các học giả và nhà chuyên môn ở Việt Nam quan tâm, thì báo
giới lại có vai trò quan trọng gây ảnh hưởng và định hướng cách nhìn của đại bộ
phận dân cư đối với các dân tộc ít người. Thí dụ, khi tìm một vài từ khóa tiếng Việt
là có thể thấy hàng ngàn kết quả gán các phong tục của các dân tộc ít người với các
từ ‘lạc hậu’, ‘ghê rợn’ hoặc ‘man rợ’. Một bài báo trên trang tin điện tử Pháp luật và
7
Xã hội (2012) gán các từ ‘lạc hậu’ và ‘phạm pháp’ vào phong tục và truyền thuyết
của người Đan Lai ở tỉnh Nghệ An. Báo Nghệ An (2011) mô tả người Đan Lai như
những người man rợ, được bộ đội biên phòng ‘phát hiện ra’, cho gạo ăn, phải định
canh và thay đổi hoàn toàn từ ‘lang thang’, ‘săn bắn hái lượm’ sang canh tác lúa
nước để cứu họ khỏi tuyệt chủng! Một bài khác trên Báo Mới (2012) mô tả phong
tục ma chay của người Ba-na, người H’mong và một số dân tộc khác là ghê rợn và
man rợ. Các bài viết theo kiểu nhìn nhận hời hợt và thiếu đạo đức nghề nghiệp như
trên gây ra cách hiểu sai lệch của công chúng đối với các dân tộc ít người ở Việt
Nam.
Các bất cập không chỉ tồn tại ở trên báo chí và nhận thức của công chúng, mà còn
cả trong lập pháp và thực thi chính sách. Mặc dù Hiến pháp Việt Nam cấm kì thị dân
tộc, nhưng một số văn bản quy phạm pháp luật vẫn dùng từ ‘lạc hậu’ để gán cho
thực trạng của các dân tộc ít người. Nhiều chính sách lại dựa trên giả định cho rằng
“các dân tộc ít người sống lang thang, và yêu cầu định canh” (Ngân hàng Thế giới,
2009, trang 6). Hệ quả là những ‘hỗ trợ’ chính thống thường có cách tiếp cận và can
thiệp mới nhưng không phù hợp, được lấy tên là các dự án ‘phát triển’. Thật nực
cười khi các ‘hỗ trợ’ không giúp phát huy sức mạnh nội tại và tính tự tin của người
dân địa phương, mà thường tạo ra áp lực buộc họ phải thay đổi và ngày càng phụ
thuộc vào bên ngoài. Nhận định này sẽ được bàn kĩ và rõ hơn trong phần bàn luận
về các giá trị văn hóa và quyền đất rừng của cộng đồng.
2.2. Bàn luận về kiến thức bản địa và quyền về văn hóa
Có thể xem xét cuộc tranh luận về kiến thức bản địa và vai trò của nó thông qua mối
quan hệ giữa kiến thức bản địa với kiến thức khoa học và sở hữu trí tuệ. Đã có nhiều
học giả đề cao kiến thức bản địa. Thí dụ, kiến thức bản địa được xem như có tính xã
hội và hội nhập cao (Ross và cộng sự, 2011, trang 35) và giúp tương tác giữa con
người với các sinh vật khác (tài liệu đã dẫn, trang 34). Hệ thống tri thức và niềm tin
bản địa giúp ích cho sinh kế lâu bền, quản trị tài nguyên và bảo tồn hoang dã (Taylor
& Lennon, 2011, trang 549). Bên cạnh đó, tri thức truyền thống về sinh thái là “cơ
sở để ra quyết định ở cấp địa phương” (Ellen & Harris, 2000, trang 28). Tuy vậy
kiến thức bản địa vẫn không được nhiều nhà khoa học thừa nhận một cách đúng
mức. Ellen & Harris (2000) phê phán khoa học hiện đại vì nó có tính vị chủng, thiên
8
vị đẳng cấp cao, giản hóa luận và việc nó coi tri thức ản địa là ‘phi khoa học’ (trang
12). Các tác giả này cũng cảnh báo “sự nguy hiểm khi chuyển hóa tri thức địa phương
thành tri thức toàn cầu” (trang 15) và việc lưu giữ tri thức bản địa để tạo khái niệm
phi cá nhân hóa và khách quan hóa (trang 20). Thậm chí đối với các nhà nghiên cứu
từ bên ngoài dù muốn ủng hộ quyền của cộng đồng nhưng vẫn gặp những trở ngại,
bởi vì người bản địa đã từng chịu đựng một lịch sử bị chiếm đất và mất đất, cho nên
họ luôn phải cảnh giác khi tương tác với nhà nước và người ngoài (Posey, 2000,
trang 39). Trong nền lập pháp, nếu có tồn tại luật quốc tế, thí dụ như Công ước về
Quyền Sở hữu Trí tuệ, thì “nó thường làm lợi cho các quốc gia công nghiệp hơn là
những quốc gia phong phú về văn hóa” (trang 42). Hiện trạng đó dẫn đến hậu quả là
các cộng đồng bản địa coi các nhà khoa học như nhân học hoặc thực vật học dân tộc
như những người phục vụ cho một cỗ máy bóc lột hơn là những nhà nghiên cứu
khách quan (tài liệu đã dẫn, trang 41). Để giải tỏa những bất cập đó, Posey (2000)
đề xuất hướng đi thay thế với “khái niệm về Quyền Tài nguyên Truyền thống” nhằm
thúc đẩy đối thoại và giải quyết mâu thuẫn (trang 43). Thêm nữa, Ellen & Harris
(2000) đề xuất việc thích nghi với hoàn cảnh địa phương và dựa vào “những gì các
cá nhân biết và thiết kế lại kiến thức sách vở chính thống theo hướng tiếp cận văn
hóa và tính độc lập” (trang 28).
Nhận thức của công chúng và sự tôn trọng các quyền văn hóa cùng với tri thức và
thực hành bản địa có thể được xem xét trong việc tranh luận về bảo tồn. Mặc dù du
canh đã được thực hành qua nhiều thế hệ, nhất là ở lục địa Đông Nam Á, nhưng hệ
thống canh tác này vẫn bị số đông gán ghép vào nguyên nhân suy thoái môi trường,
trong khi một số tổ chức quốc tế kiến nghị xóa bỏ hệ thống này. “Các quyền trên
nương rẫy theo phong tục đã không được thừa nhận và nương rẫy bỏ hóa bị coi là
đất hoang và không có chủ” (Latorre & Latorre, 2012, trang 467). Khi thảo luận về
các tiêu chí của Di sản Thế giới, Taylor & Lennon (2011) phê phán sự thống soái
của các giá trị phương Tây với việc nhấn mạnh “di sản văn hóa chủ yếu dựa trên các
bức tượng lớn và địa điểm ấn tượng, và di sản thiên nhiên lệ thuộc vào ý kiến khoa
học tách biệt giữa thiên nhiên và thế giới hoang dã với con người” (trang 546). Các
tác giả cho rằng các nhà quản lý, nhà lập định chính sách và nhà khoa học đã quá
chậm trễ khi công nhận “giá trị trường tồn của truyền thống trong việc bảo tồn đa
dạng sinh vật”. Họ phê phán sự thiếu vắng tính nhạy cảm đối với các địa điểm tôn
nghiêm và đề nghị đưa văn hóa địa phương vào giáo dục hiện đại (trang 549). Cần
thấy thêm vấn đề nữa là việc giáo dục chính thống nhìn nhận niềm tin, tín ngưỡng
9
truyền thống và thực hành văn hóa bản địa là ‘mê tín’ và ‘lạc hậu’ (Fui và cộng sự,
2012, trang 379). Để giải quyết vấn đề này, Fui và cộng sự (2012) đề nghị các vùng
đất thiêng của người bản địa phải được công nhận để giúp tăng cường bảo vệ rừng
và đời sống tinh thần phong phú của người dân (trang 383). Đưa các chuyên gia là
nông dân vào giảng dạy tri thức địa phương là việc làm bổ ích bởi vì hoạt động thực
tiễn của họ có lợi và thân thiện với môi trường (tài liệu đã dẫn, trang 385). Taylor &
Lennon (2011) đề xuất một cách quản lý với việc tổ chức Di sản thế giới xác nhận
các giá trị cảnh quan truyền thống (trang 550). Trên thực tế, cơ chế quản lý và đồng
quản lý cần được xây dựng trên cơ sở tri thức thực nghiệm địa phương kết hợp với
các đầu vào khoa học (Kalland, 2000, trang 329-30).
Các quan điểm và chương trình phát triển là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
quyền bản địa. Gardner and Lewis (1996) thách thức quan điểm ‘phát triển’ và đề
xuất những hướng tiếp cận mới thực tế, thí dụ như Tạo quyền, Nghiên cứu Hệ thống
Canh tác, Nông dân là trên hết, và Giới trong Phát triển. Các tác giả này đề xuất các
giải pháp và tiếp cận nhân học hậu phát triển để cải thiện tình hình của các nhóm
người chịu thiệt thòi. Họ đề nghị nghiên cứu kĩ lưỡng, tôn trọng văn hóa sắc tộc cùng
các thể chế và tri thức địa phương, tạo quyền và khuyến khích sức mạnh nội tại, tính
độc lập, tự chủ địa phương để thay thế cho bảo trợ từ bên ngoài. Khuyến khích tri
thức địa phương, thể chế và luật tục truyền thống chính là đóng góp quan trọng vào
việc quản lý và bảo vệ tài nguyên. Đối với mỗi nỗ lực hỗ trợ, việc khích lệ lãnh đạo
cộng đồng và tôn trọng tiếng nói và sáng kiến của người dân địa phương là giải pháp
phù hợp để giải quyết các vấn đề do cách tiếp cận từ trên xuống gây ra (Tyler and
Mallee, 2006, trang 368). Larson và cộng sự (2010) cho rằng cần phải công nhận
thực thể (de facto) và phong tục (trang 14) cũng như tính đa dạng và cùng tồn tại của
các quyền hợp pháp khác nhau. Các tác giả cảnh báo những hậu quả và mâu thuẫn
bùng phát nếu người ta không quan tâm đúng mức đến tính phức hợp đó (trang 15).
Họ đề xuất chuyển hóa từ đa nguyên luật pháp sang hội nhập về luật pháp và văn
bản hóa sự tồn tại song hành hệ thống luật tục với luật pháp nhằm tăng cường sức
mạnh của cả hai hệ thống này (Larson và cộng sự, 2010, trang 15).
2.3. Tranh luận về đất rừng cộng đồng và sinh kế
Đất rừng đã và đang có vai trò thiết yếu đối với sinh kế của nhiều cộng đồng bản địa
và dân tộc ít người. Đa số các cư dân gắn với rừng theo truyền thống đều chủ yếu
10
dựa vào rừng để kiếm đồ ăn và tài nguyên khác để đáp ứng nhu cầu của mình (Posey,
2000, trang 37). Trong xã hội hiện đại có luật pháp thì quyền đất đai của tập thể là
điều quan trọng đối với việc giữ gìn bản sắc dân tộc và tái tạo văn hóa cộng đồng
(Barry và cộng sự, 2010, trang 26, trích dẫn từ Bae, 2005). Tuy nhiên, các quyền đất
đai và sinh kế cộng đồng đã bị người ngoài phớt lờ và xâm hại, đặc biệt là dưới thời
cai trị của thực dân và luật pháp hiện đại. Tsing và cộng sự (2005) cho rằng việc ấn
định bản đồ và luật pháp là những sức ép và thách thức trầm trọng đối với việc quản
lý tài nguyên dựa vào cộng đồng. Các nhà nước thực dân và quốc gia hiện đại phủ
nhận sự tồn tại và coi sinh kế của người dân bản địa là bất hợp pháp trong khi người
dân đã từng sinh sống trên đất của mình hàng thế kỉ (trang 18-23). Các tác giả này
xem xét và cho rằng xu hướng bảo tồn là dựa vào các nguồn tài trợ và đầu tư ngắn
hạn cùng với trách nhiệm giải trình trước nhà tài trợ (trang 30).) Bên cạnh đó, mô
hình chính phủ kiểm soát đã bỏ qua các tác nhân có tiềm năng tham gia và làm cho
các cộng đồng phụ thuộc vào bao cấp từ bên ngoài (Cronkleton và cộng sự, 2010,
trang 44). Các cộng đồng bản địa không được tham gia vào tiến trình quyết định và
bị ngăn cản khi sử dụng tài nguyên thiên nhiên của mình (Ross và cộng sự, 2011,
trang 9). Các tổ chức bảo tồn thiên nhiên “ngày càng lộ rõ chân tướng là những kẻ
thực dân kiểu mới” bởi người dân địa phương bị cưỡng bức di dời ra khỏi đất tổ tiên
của mình (Barry và cộng sự, 2010, trang 31; Ross và cộng sự, 2011, trang 22). Bởi
các tác nhân bên ngoài, nhiều cộng đồng bản địa đang phải gánh chịu các vấn đề
nóng bỏng khi phải thay đổi từ cuộc sống tự cung tự cấp trên đất cha ông sang mất
đất và phụ thuộc vào người ngoài.
Trong việc bảo vệ quyền đất đai và sinh kế cho các cộng đồng thua thiệt, thì chứng
nhận quyền đất đai là một chủ đề đáng bàn. Tsing và cộng sự (2005) một mặt nghi
ngờ hiệu quả của việc chứng nhận đất cộng đồng nhưng lại không thấy rõ sức mạnh
nội tại của cộng đồng khi họ cho rằng “quá nhiều trường hợp việc chứng nhận [quyền
về đất] chỉ thúc đẩy hợp đồng với các công ty để phá hủy tài nguyên” (trang 26).
Nhưng mặt khác các tác giả trên cũng thấy các rủi ro mà các cộng đồng yếu thế gánh
chịu do các dữ liệu ‘đánh giá nhanh’ quan liêu và mưu đồ sáp nhập người dân địa
phương vào những kế hoạch sinh thái vùng (tài liệu đã dẫn, trang 30). Vì thế cần đặt
ra câu hỏi: làm thế nào cộng đồng có thể tự quyết trên đất rừng của mình và tránh
được rủi ro do người ngoài gây ra nếu họ không có được chứng nhận quyền đất đai
trong môi trường pháp luật hiện đại? Quyền hưởng dụng về rừng chưa hề được khẳng
định và hoạch định rõ ràng, và cũng không được bảo đảm an toàn ở những nước
11
đang phát triển (Sunderlin và cộng sự, 2013, trang 2). Đặc biệt ở Việt Nam, các trở
ngại đối với việc chứng nhận quyền đất đai của cộng đồng vẫn là vấn đề lớn khi địa
vị pháp lý của các cộng đồng không được Luật Dân sự thừa nhận, và quyền hưởng
dụng về đất cộng đồng không được luật pháp khẳng định mạnh mẽ hơn so với quyền
cho hộ gia đình và cá nhân (Fui và cộng sự, 2012, trang 375). Những phê phán đa
chiều như trên có vẻ đi đến bế tắc nếu không có được hướng thay thế khả quan và
những giải pháp thực tế trước các vấn đề tồn tại từ lâu. Cho dù Tsing và cộng sự
(2005) có phê phán đối với việc chứng nhận quyền về đất, nhiều học giả khác vẫn
ủng hộ quyền đất đai của cộng đồng để giữ gìn và tăng cường các giá trị văn hóa bản
địa và quản lý rừng (Lynch and Alcorn, 1994; Colchester, 1994; Vandergeest, 2006).
Tuy vậy quyền đất rừng của cộng đồng hoặc việc cấp giấy chứng nhận đất và rừng
cho cộng đồng không phải là thứ thuốc chữa bách bệnh. Có rất nhiều thách thức và
cạm bẫy trước quyền đất đai của cộng đồng, và cần làm thêm rất nhiều việc nhằm
bảo đảm duy trì được các quyền của cộng đồng.
Khi xem xét đồng thời sinh kế cộng đồng với quản lý tài nguyên thiên nhiên, một số
học giả đã cố gắng chỉ ra các chủ đề bảo tồn và đề xuất các giải pháp thực tiễn.
Alcorn (2005) chia ra hai loại hình bảo tồn là lớn và nhỏ. “Bảo tồn Lớn mang tính
toàn cầu” và là mối quan tâm của các tổ chức phi chính phủ quốc tế, phi chính phủ
địa phương, các cơ quan lâm nghiệp quốc doanh và vườn quốc gia (trang 39). Bên
cạnh đó, “Bảo tồn Nhỏ xuất hiện khi mỗi cá nhân lựa chọn trong cuộc sống thường
ngày ngay tại nơi họ sinh sống”. Các nghi lễ, luật tục và thực hành sử dụng đất chính
là những biện pháp truyền thống để quản lý diễn tiến sinh thái. Mặc dù Bảo tồn Nhỏ
có tính tổng thể, nhưng người ta lại ít biết đến nó và ảnh hưởng của nó đối với người
dân (trang 39-41). Bảo tồn Nhỏ bị Bảo tồn Lớn đe dọa bởi vì các quyền truyền thống
bị phớt lờ và xâm hại khi “Bảo tồn Lớn cấu kết với giới thượng lưu cấp quốc gia
chia chác lợi ích với những người đốn gỗ và khai thác mỏ khác” (trang 41). Alcorn
tin tưởng vào việc cộng tác trên thực tế và quá trình học tập để bảo đảm thành công
của bảo tồn dựa vào cộng đồng (trang 65).
Để tìm giải pháp cho các vấn đề kiểm soát áp đặt, nhiều học giả đã tranh luận về các
hướng tiếp cận quản lý tài nguyên có phương pháp và theo thể chế. Một trong những
hướng đó là quản lý tài nguyên thiên nhiên có sự tham gia do BorriniFeyerabend &
Tarnowski (2005) đề xuất. Theo các tác giả này, quản lý có sự tham gia bao hàm
quản lý dựa vào cộng đồng, cộng tác và hợp tác. Nhiều tác nhân xã hội có thể tổ
12
- Xem thêm -