Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận hành vi lễ chùa của người dân nội thành hà nội hiện nay (khảo sát tại ...

Tài liệu Tiểu luận hành vi lễ chùa của người dân nội thành hà nội hiện nay (khảo sát tại địa bàn nội thành hà nội) (1)

.PDF
16
1
66

Mô tả:

XÃ HỘI HỌC VĂN HÓA Đề tài nghiên cứu: “Hành vi lễ chùa của người dân nội thành Hà Nội hiện nay” (khảo sát tại địa bàn nội thành Hà Nội) 1. Lý do chọn đề tài: Trong bối cảnh chung của sự nghiệp đổi mới, bên cạnh những biến đổi đáng khích lệ về mặt kinh tế, đời sống tinh thần của nhân dân ta có nhiều khởi sắc và nảy sinh nhu cầu phục hồi nền văn hóa truyền thống. Trong số 6 tôn giáo lớn được Nhà nước công nhận gồm: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Cao Đài, Hòa hảo, Hồi giáo thì Phật giáo là tôn giáo lớn nhất và có số lượng tín đò đông nhất ở Việt Nam. Phật giáo có một vị trí quan trọng trong cơ cấu tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa Việt Nam và hiện nay nó đang được phục hồi và phát triển. Nhiều ngôi chùa được xây dựng lại, tu bổ thêm cùng những lê nghi ngày càng phong phú, đa dạng. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của các cộng đồng dân cư, Khi Việt Nam chuyển sang thời kinh tế thị trường, yếu tố may rủi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội có xu hướng gia tăng. Tôn giáo là một lĩnh vực của đời sống tinh thần phản ánh khát vọng của con người muốn tạo dựng cuộc sống theo ý tưởng của mình. Những khát vọng không đạt được trong đời sống hiện thực thì con người nỗ lực tìm kiếm trong đời sống tôn giáo. Đây là một trong những lý do tôn giáo bùng lên và phát triển trong thời kinh tế thị trường. Sự đa dạng và phong phú của các hình thức khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội tạo nên sự phong phú và đa dạng của đời sống tôn giáo. Nhu cầu của tín đồ cũng nhiều thay đổi và dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngày nay, tín đồ không chỉ nhìn nhận người tu sĩ trên phương diện đắc đạo mà còn nhiều nội dung khác Hà Nội là Thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của nước ta từ ngày xưa cho tới ngày nay. Đồng thời Hà Nội cũng là trung tâm Phật giáo lớn mang tính đặc thù Việt Nam từ truyền thống tới hiện đại, hiện có tới gần 600 ngôi chùa. Các ngôi chùa đều thu hút một lượng dân cư rất lớn tới lễ vào những ngày rằm, mồng một, các ngày lễ quan trọng trong năm hoặc dịp đầu năm, cuối năm. Theo quan niệm từ xưa, đi chùa là để thành tâm hướng về cõi Phật, cầu mong mưa thuận gió hòa, gửi gắm mong ước khỏe mạnh, hạnh phúc, mọi sự đều tốt đẹp. Trong sự hòa quyện văn hóa dân gian và giáo lý nhà Phật, vào những ngày mùng 1, ngày rằm trong năm, nhiều người dân Việt Nam thường có thói quen đi chùa, thắp nhang cầu an, cầu siêu…. Tuy nhiên, bên cạnh những người đến chùa lễ Phật, hành thiện tích đức, gìn giữ nét văn hóa thanh lịch khi đến cửa chùa thì cũng còn không ít người làm mai một bản sắc văn hóa, gây mất mỹ quan hay nói cách khác làm giảm giá trị văn hóa đích thực khi đi chùa lễ Phật. Trong xã hội hiện đại ngày nay, bên cạnh nét đẹp của phong tục văn hóa phương Đông vẫn tồn tại những mặt trái cần loại bỏ, thay đổi. Vẫn còn nhiều hiện tượng thiếu ý thức trong khi hành lễ, nhiều hành vi không phù hợp thuần phong mỹ tục, trái với bản sắc văn hóa truyền thống, gây mất mỹ quan. Đâu đó trong cộng đồng còn có những quan niệm, ý thức lệch lạc, ứng xử trái ngược với thuần phong mỹ tục trong sinh hoạt tín ngưỡng. Đến cửa chùa là đến nơi thờ tự trang nghiêm, tuy nhiên không ít người lại xúng xính trong những bộ váy không hợp ngữ cảnh, thậm chí là váy “ngắn cũn cỡn”, nhất là một số bạn trẻ. Và thường, đi lễ chùa đầu năm mọi người thường cầm theo tiền lẻ để dâng lên các ban thờ phật gọi là “giọt dầu”, là chút thành tâm để góp phần xây dựng, tu bổ đền, chùa nhưng họ lại giắt tiền vào tay tượng hoặc để lung tung trên ban thờ. Thậm chí, ở nhiều nơi, cổng chùa là nơi diễn ra hoạt động thương mại hóa khi việc đổi tiền lẻ khi đi lễ chùa đã mang lại lợi nhuận vô cùng lớn. Đặc biệt, nhiều người đang coi việc đi lễ, rải tiền lẻ như “một giao ước” với thần, phật cho những điều mình mong cầu, tạo hình ảnh phản cảm, làm mất đi nét đẹp vốn có của phát tâm công đức. Tục đốt vàng mã và thắp hương dường như vẫn không thể thiếu trong tâm niệm của một bộ phận người dân khi đi lễ chùa. Không ít năm, khi bước vào sân chùa đã thấy nghi ngút khói tỏa ra từ lư hương đá ở giữa sân giống như một màn sương dày đặc, cộng với việc có quá nhiều người đến lễ chùa, chen chúc nhau khiến nhiều người khó thở, bị ngất khi đang hành lễ. Rồi tro của vàng mã khi bị hóa bay tứ tung trong không gian… Hiểu và thực hành các giá trị văn hóa của việc đi lễ chùa sẽ góp phần nâng cao các giá trị đời sống tâm linh của người dân Việt Nam nói chung, người dân đô thị nói riêng, trong bối cảnh xây dựng văn hóa, nếp sống văn minh đô thị. Mục đích của việc đi chùa là trải nghiệm đời sống văn hóa và tâm linh để thăng hoa nhận thức, sám hối những việc làm chưa đúng, tu tâm tích đức và thông qua đó cải thiện đời sống xã hội. Nếu không hiểu và làm không đúng thì ranh giới giữa văn hóa và phản văn hóa liên quan đến câu chuyện đi lễ chùa rất mong manh. Xuất phát từ những lý do đề cập trên, nhóm lựa chọn đề tài: “Hành vi đi lễ của người dân đô thị hiện nay” (Khảo sát tại địa bàn Hà Nội) làm đề tài nghiên cứu cho môn Xã hội học văn hóa. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn chỉ ra những động cơ, mục đích của người dân khi đi lễ chùa; hành vi của người dân khi đi lễ chùa và những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đi lễ chùa của người dân. Từ đó đưa ra các kết luận, khuyến nghị và đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm định hướng hành vi khi đi lễ chùa của người dân. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện các mục đích trên cần làm rõ các nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu và phân tích động cơ, mục đích đi lễ chùa của người dân - Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của hành vi đi lễ chùa của người dân hiện nay - Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi đi lễ chùa của người dân hiện nay - Kiến nghị giải pháp định hướng hành vi đi lễ chùa cho người dân 3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Biểu hiện, mức độ và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đi lễ chùa của người dân - Khách thể nghiên cứu: Người dân đi lễ tại các ngôi chùa trên địa bàn nội thành Hà Nội. Từ 20 -65 tuổi - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi không gian: Khảo sát tại một số chùa, nhà thờ ở Hà Nội và khảo sát trên mạng xã hội zalo và facebook trong các hội nhóm khu dân cư. + Phạm vi thời gian: Thời gian thu thập thông tin định lượng từ 14/3 đến 24/3/2022. Thông tin định tính được thực hiện song song thời gian đi khảo sát thực địa. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguyên tắc phương pháp luận Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của Tâm lý học sau: - Nguyên tắc tiếp cận hoạt động: hoạt động là cơ sở hình thành và phát triển tâm lý của con người, mặt khác là nơi thể hiện sinh động đời sống tâm lý của con người. Hành vi đi lễ chùa được hình thành, phát triển và biểu hiện thông qua hoạt động thực tiễn của người dân. Vì vậy, nghiên cứu hành vi đi lễ chùa của người dân cần phải dựa trên hoạt động đi lễ chùa của họ. - Nguyên tắc tiếp cận hệ thống: các hiện tượng tâm lý của con người luôn có sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Nghiên cứu hành vi đi lễ chùa của người dân trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, giữa hoạt động đi lễ chùa với các hoạt động khác trong cuộc sống của người dân. - Nguyên tắc tiếp cận liên ngành: để có cái nhìn khái quát, toàn diện biểu hiện của các khía cạnh trong hành vi đi lễ chùa của người dân. Sử dụng kết hợp nhiều kiến thức lý luận của các ngành: Tâm lý học, Sinh lý học, Xã hội học, Triết học, Tôn giáo học, Phật học... Trong đó, lấy hệ thống phương pháp nghiên cứu thuộc ngành Tâm lý học tôn giáo làm trọng tâm. - Nguyên tắc tiếp cận của Tâm lý học tôn giáo. Hành vi đi lễ chùa là một khía cạnh của Tâm lý học tôn giáo. Chính vì vậy cần phải nghiên cứu các biểu hiện trong hành vi đi lễ chùa của người dân dựa trên những lý luận cơ bản của Tâm lý học tôn giáo. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp quan sát Từ những người thân hoặc người quen là người dân đang sinh sống tại địa bàn Thành phố Hà Nội, thông qua đó quan sát hành vi khi đi lễ chùa cũng như các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến hành vi đó của họ. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là một phương pháp phỏng vấn viết, được thực hiện cùng một lúc với nhiều người theo một bảng hỏi được in sẵn. Người được hỏi trả lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tương ứng theo một quy ước được định ra. Từ kết quả thu thập được sau khi điều tra bằng bảng hỏi, nhóm nghiên cứu tiến hành phân tích dữ liệu. Phương pháp phân tích – thống kê Để kết quả nghiên cứu đảm bảo tính khách quan, khoa học, chính xác, có độ tin cậy cao, sử dụng phương pháp phân tích – thống kê để xử lý và kiểm tra các số liệu thu thập. Từ đó có những đánh giá khách quan nhẩt về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp phỏng vấn Tiến hành phỏng vấn sâu người dân đi lễ chùa thông qua hệ thống câu hỏi được xây dựng sẵn. Hệ thống câu hỏi xoay quanh hành vi đi lễ chùa. Bên cạnh đó, lấy thêm ý kiến của người dân về các đề xuất để từ đó đánh giá và hoàn thiện các giải pháp, khuyến nghị. 5. a) - Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu Động cơ, mục đích của người dân nội thành Hà Nội đi lễ là gì? Tác động của dịch COVID-19 tới hành vi đi lễ như thế nào? b) Giả thuyết nghiên cứu - Người dân đi lễ chùa có nhiều mục đích như đi lễ cầu bình an, tài lộc...có nhiều người coi đi chùa để bình an trong tâm hồn. - Hành vi đi lễ đã thay đổi đáng kể sau khi chịu tác động của dịch COVID-19. - Hành vi đi lễ của người dân không chỉ gắn với tôn giáo mà còn mang tính đa dạng. 6. Thao tác hoá khái niệm. a) Đại dịch COVID-19 Virus Corona là chủng virus mới chưa từng xuất hiện ở người, có tên gọi từ nguồn gốc tiếng Latin. Vi rút Corona là chủng virus được bao bọc bằng những chiếc gai bao bọc bên ngoài, tương tác với thụ thể trên tế bào, theo cơ chế tương tự chìa khóa và ổ khóa, từ đó cho phép virus xâm nhập vào bên trong. Đại dịch Covid - 19 bùng phát vào cuối tháng 12/2019, bắt nguồn từ một chợ hải sản ở Hồ Nam, Vũ Hán, miền Trung Trung Quốc, virus Corona ban đầu được xác nhận là một loại bệnh “viêm phổi lạ” hoặc “viêm phổi không rõ nguyên nhân”. Chỉ sau 100 ngày xuất hiện, đại dịch viêm đường hô hấp cấp do virus Corona đã nhanh chóng tác động tới các lĩnh vực kinh tế, xã hội, thị trường tài chính chao đảo, nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái với tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói chưa từng có trong lịch sử. Tên gọi vi rút Corona có nguồn gốc từ tiếng Latin, trong đó “corona” có nghĩa là “vương miện” hoặc “hào quang”. Virus này có những chiếc gai bao bọc bên ngoài, chúng tương tác với thụ thể trên tế bào, theo cơ chế tương tự chìa khóa và ổ khóa, từ đó cho phép virus xâm nhập vào bên trong. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết tên gọi chính thức của bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi-rút corona (nCoV) là Covid 19. Tên gọi mới này gọi tắt của coronavirus disease 2019, theo các từ khóa “corona”, “virus”, “disease” (dịch bệnh) và 2019 là năm mà loại virus gây đại dịch này xuất hiện. Tháng 2/2020, Ủy ban quốc tế về phân loại Virus – International Committee on Taxonomy of Viruses (ICTV) chính thức đặt tên cho chủng mới của vi-rút corona là Sars-CoV-2. Đây là tên gọi khác với tên Covid 19 mà WHO đã chỉ định trước đó. Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu và phân lập được một chủng corona virus mới, được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tạm thời gọi là 2019-nCoV có trình tự gen giống với Sars-CoV trước đây, với mức tương đồng lên tới 79,5%. Ngày 11 tháng 03 năm 2020, Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra công bố Covid-19 là đại dịch toàn cầu và đòi hỏi các nước cần có những biện pháp phòng chống dịch quyết liệt. Theo thông tin của Bộ Y tế Việt Nam, trên thế giới đã có gần 2 triệu ca nhiễm (tính đến cuối tháng 3 năm 2020), điều này cho thấy mức độ nghiêm trọng của Covid-19. Nhằm thực hiện phòng chống đại dịch, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg với các biện pháp thực hiện cách ly toàn xã hội, hạn chế di chuyển, tạm dừng tổ chức các hoạt động tụ tập đông người trong đó có hoạt động đào tạo tập trung tại các cơ sở giáo dục. b) Niềm tin tôn giáo Niềm tin tôn giáo là trạng thái tâm lí đặc biệt của chủ thể nhận thức, thể hiện sự tin tưởng, ngưỡng mộ, sùng bái của con người vào một thực thể siêu việt nào đó như Thượng đế, Thần, Phật,... Sự xuất hiện và tồn tại của niềm tin tôn giáo được quy định bởi trình độ, khả năng nhận thức của tín đồ. Nó được hình thành do con người không làm chủ được mình hoặc “đánh mất mình”, có nhu cầu được đền bù, xoa dịu bằng niềm tin vào lực lượng siêu nhiên. Được hình thành và tồn tại trên cơ sở tình cảm tôn giáo nên niềm tin tôn giáo bao giờ cũng giữ vai trò là hạt nhân của ý thức tôn giáo. Niềm tin tôn giáo thường đối lập với niềm tin khoa học. Khi nó được nâng lên ở cấp độ cao trong hoạt động nhận thức thì trở thành đức tin tôn giáo. Đức tin tôn giáo là niềm tin tôn giáo được hình thành, củng cố, đề cao trên cơ sở có sự lí giải mang tính hệ thống, lôgíc của thế giới quan tôn giáo. Những tín đồ khi có đức tin tôn giáo sẵn sàng “tử vì đạo”. Khi bị kẻ xấu kích động, đức tin tôn giáo là yếu tố dễ đưa tín đồ tới những hành động cuồng tín. (Giáo trình tôn giáo học_Trần Đăng Sinh & Đào Đức Doãn) c) Chức năng của tôn giáo - Chức năng “đền bù hư ảo” Tôn giáo giống như liều thuốc an thần thường làm dịu, làm nhẹ nỗi đau của con người. Niềm tin vào đấng tối cao mong được sự che chở, cứu vớt thường làm cho con người có cảm giác được đền bù, xoa dịu, hạnh phúc cho dù đó chỉ là “hạnh phúc hư ảo”. - Chức năng thế giới quan Ý thức tôn giáo là ý thức về một “thế giới lộn ngược”, là một cách lí giải mơ hồ về thế giới. Thế giới quan tôn giáo dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy tâm, đề cao thực thể tinh thần, coi đó là cái sáng tạo, chi phối thế giới hiện thực. Thế giới quan tôn giáo thường xa lạ với thế giới quan khoa học. Những chức sắc trong các tổ chức tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền thế giới quan tôn giáo mong hình thành trong tín đồ hệ thống những quan niệm về thế giới, từ đó hướng họ vào việc thực hiện những quy chuẩn, giá trị tôn giáo. - Chức năng điều chỉnh hành vi Tôn giáo nào cũng có hệ thống những chuẩn mực, giá trị nhằm điều chỉnh hành vi của tín đồ trong các quan hệ xã hội của họ. Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện vừa tự giác, vừa bắt buộc tuỳ thuộc vào sự nhận thức của tín đồ, vào việc duy trì các quy phạm giáo luật, các điều kiêng kị của tổ chức tôn giáo. Ví dụ, tín đồ đạo Cơ đốc có lễ xưng tội, tín đồ đạo Phật cầu niệm Phật để tự nhận thức, điều chỉnh những hành vi của mình. - Chức năng liên kết Trong lịch sử xã hội có giai cấp, tôn giáo là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng, do đó cũng là nhân tố liên kết xã hội, góp phần duy trì, bảo vệ những trật tự xã hội hiện hành dựa vào những hệ thống giá trị và chuẩn mực chung của xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào tôn giáo cũng là một nhân tố liên kết xã hội mà nhiều khi trong những điều kiện lịch sử nhất định tôn giáo lại là nhân tố gây mất ổn định xã hội. - Chức năng giao tiếp Các tín đồ của một tôn giáo giao tiếp với nhau thông qua các sinh hoạt tôn giáo. Sự giao tiếp (liên hệ) với nhau đó tạo nên sự gắn kết trong cộng đồng, trong tín hữu. Chức năng giao tiếp của tôn giáo còn được biểu hiện ở chỗ, các tín đồ không những chỉ liên hệ với nhau với tư cách là những người đồng tín ngưỡng mà còn liên hệ với những người khác không cùng tín ngưỡng. Đó chính là sự giao tiếp xã hội rộng lớn, ngoài phạm vi tôn giáo, mang tính kinh tế, chính trị, văn hoá. Đặc biệt, các tín đồ tôn giáo còn có mối liên hệ, mối giao tiếp với một thực thể siêu nhiên đó là thần thánh. Tín đồ giao tiếp với thần thánh thông qua việc thực hiện các nghi thức cầu cúng trong các không gian tôn giáo. Ngoài các chức năng trên, tôn giáo còn có nhiều chức năng khác như chức năng nhận thức, chức năng văn hoá, chức năng đạo đức... Các chức năng trên của tôn giáo tồn tại với tư cách là một hệ thống. Chúng không biệt lập mà bao chứa lẫn nhau, tuỳ trong các hoàn cảnh khác nhau mà có những biểu hiện khác nhau. Nội dung xã hội của các chức năng của tôn giáo có thể biến đổi và thường được các giai cấp khác nhau lợi dụng. Nhờ có hệ thống chức năng riêng của mình, tôn giáo đã có tác động không nhỏ tới con người và xã hội. Sự tác động ấy được biểu hiện rõ nét trong vai trò của nó. (Giáo trình tôn giáo học_Trần Đăng Sinh & Đào Đức Doãn) d) Tín ngưỡng Tín ngưỡng là một thuật ngữ chưa có khái niệm hay định nghĩa một cách thống nhất, rõ ràng. Dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta có thể đưa ra những quan niệm, khái niệm khác nhau. Chẳng hạn như: tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người dùng để giải thích thế giới tự nhiên và xã hội, với mục đích đem lại sự bình an, hạnh phúc cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng được hình thành trong một dân tộc hay một số dân tộc có những quan niệm chung về thần linh. GS.Đặng Nghiêm Vạn cho rằng “Cần phân biệt niềm tin tôn giáo (tin ngưỡng) với niềm tin trần tục. Trước hết trong tin ngưỡng phải có yếu tố thiêng liên quan đến một thế giới vô hình, đến những siêu linh, mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra chúng, rồi để chúng chi phối và tác động ngược trở lại đến đời sống trần tục". [Đặng Nghiêm Vạn (1998), Về tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội] Theo Nguyễn Đăng Duy thì “Tín ngưỡng là một cách tử thực tế cuộc sống cộng đồng con người ý thức về một dạng thần linh nào đó, rồi cộng đồng con người đó tin theo tôn thờ lễ bái, cầu mong cho hiện thực cuộc sống. gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy”. [Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội] PGS,TS.Nguyễn Đức Lữ cho rằng "Lòng tin, sự ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó - một lực lượng siêu thực, hư ảo, vô hình là nội hàm cơ bản của tín ngưỡng”. [Nguyễn Đức Lữ (2000), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo, Hà Nội] Trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 19 ngày 18/6/2004, mặc dù không có khái niệm cụ thể về tín ngưỡng nhưng cũng đã chỉ ra “Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng, thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tin ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giả trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”. [Ban Tôn giáo Chính phủ (2004), Tài liệu phổ biến Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội]  Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào lực lượng nhiên thần hoặc nhân thần, mà lực lượng đó có khả năng chi phối cuộc sống của con người, thể hiện qua các hoạt động tôn thờ, cầu cúng, tôn vinh thông qua hệ thống đình, đền, miếu, nhà thờ tộc họ. Tin ngưỡng mang tinh dân gian, được hình thành trong một cộng đồng, một dân tộc có chung quan niệm về thần linh. e) Lễ - Những nghi thức được tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự kiện có ý nghĩa nào đó: lễ thành hôn lễ bái lễ ca lễ đài lễ đường lễ lạt lễ nhạc lễ phục lễ tang lễ tế lễ trường lễ tục đại lễ hành lễ hiếu lễ hôn lễ nghi lễ quốc lễ tang lễ tế lễ tuần lễ. - Những phép tắc phải theo khi tiếp xúc với người khác, biểu thị sự tôn kính: giữ lễ với thầy lễ độ lễ giáo lễ nghi lễ nghĩa lễ phép lễ tiết lễ vật cống lễ sính lễ thất lễ thư lễ vô lễ. - Lần vái lạy: lạy ba lễ. Tham dự các nghi thức tôn giáo: đi lễ chùa. - Tặng, biếu (người có quyền thế): lễ quan tham lễ. 1. (triết), khái niệm đạo đức và chính trị của Nho giáo. "Lễ" lúc đầu chỉ cách thức cúng tế. Sau dùng rộng ra, chỉ những quy tắc được tập thể thừa nhận trong đời sống cộng đồng như cưới xin, tang chế, giao tiếp... Lễ có giá trị đặc biệt với đạo Nho, vì được coi như bắt nguồn từ trật tự của trời đất, từ "thiên lí", mà con người nhất định phải tuân theo. "Trời cao đất thấp, muôn vật khác nhau, nhân đó phải đặt ra lễ để chế định hành động con người" (Lễ kí). Khổng Tử nói: "Lễ nhằm sửa cho đúng theo đạo trung" (Lễ kí). Đạo trung là đạo sống đúng mức về mọi mặt, không thái quá, không bất cập, và cũng là đạo sống trung thực, đối với mình, đối với người. Lễ gắn liền với nghĩa, hợp với điều nghĩa để hoà nhập với chung quanh. Lễ cũng gắn liền với nhạc. Trong xã hội, Lễ phân biệt trên dưới, ngăn cản những thứ quá đáng, thiên về lí trí, nên cần có nhạc kèm theo để điều hoà tình cảm tạo nên sự hoà hợp tương thân. Đối với cả lễ và nhạc, điều cơ bản là phải xuất phát từ đức nhân bên trong. Khổng Tử thường nói: "Người mà không có nhân, thì dùng lễ sao được? Người mà không có nhân thì dùng nhạc sao được?". 2. (tôn giáo, dân tộc), hoạt động chủ chốt trong đời sống tín ngưỡng của người theo Công giáo, gắn bó Chúa với tín đồ, giáo sĩ với giáo dân. Vì được coi là thiêng liêng, nên còn được gọi là thánh lễ (sainte messe). Người làm lễ, thay mặt Chúa - phải là giáo sĩ, từ phẩm trật linh mục trở lên; có thể nhiều người cùng tham gia làm lễ, gọi là đồng tế. [từ điển tiếng việt điện tử] f) Hành vi Khái niệm hành vi theo từ điển Tiếng Việt “Hành vi con người là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử, biểu hiện ra bên ngoài của một con người trong một hoàn cảnh thời gian nhất định”. Theo từ điển Tâm lý học Mỹ “Hành vi là thuật ngữ khái quát chỉ những hoạt động, phản ứng, phản hồi, di chuyển và tiến trình đó có thể đo lường được của bất cứ cá nhân nào”. 7. Lý thuyết sử dụng a) Lý thuyết lựa chọn hợp lý Lý thuyết lựa chọn hành vi hợp lý có nguồn gốc từ Kinh tế học, Triết học, và Nhân học vào thế kỉ VIII, XIX. Lý thuyết này gắn với tên tuổi của các nhà Xã hội học tiêu biểu như: G Homans, Peter Blau, James Coleman…Nội dung lý thuyết cho rằng con người luôn hành động một cách có chủ đích có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý nhằm đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Theo quan điểm của Homans ông đã diễn đạt theo kiểu định lý Toán học: Khi lựa chọn trong số các hành động có thể có, cá nhân sẽ chọn cách nào mà họ cho là tích của xác suất thành công của hành động đó đối với giá trị thành công của phần thưởng hành động đó là lớn nhất. Điều này có nghĩa ông nhấn mạnh đến sự tối ưu hoá. Ông đưa ra một số định đề cơ bản trong lý thuyết của mình: Phần thưởng, kích thích, giá trị, duy lý, giá trị suy giảm, mong đợi. Dựa vào những định đề đã nêu, Homans đã đưa ra quy tắc liên quan đến phần thưởng của họ tương xứng với việc đầu tư của họ.  Định đề phần thưởng: Đối với tất cả các hành động của con người, hành động nào càng thường xuyên được khen thưởng thì càng có khả năng lặp lại.  Định đề kích thích: Nếu một nhóm kích thích nào trước đây đã từng khiến cho hành động nào đấy được khen thưởng thì một nhóm mới càng giống kích thích đó bao nhiêu thì càng có khả năng làm cho hành động tương tự trước đây được lặp lại bấy nhiêu.  Định đề giá trị: Kết quả của hành động có giá trị cao đối với chủ thể bao nhiêu thì chủ thể đó càng có xu hướng thực hiện hành động đó bấy nhiêu.  Định đề duy lý: Cá nhân sẽ lựa chọn hành động nào mà giá trị của kết quả hành động đó và khả năng đạt được kết quả đó là lớn nhất.  Định đề giá trị suy giảm: Càng thường xuyên nhận được một phần thưởng nào đó bao nhiêu thì giá trị của nó càng giảm đi bấy nhiêu đối với chủ thể hành động.  Định đề mong đợi: Nếu sự mong đợi của con người được thực hiện thì người ta sẽ hài lòng, còn nếu không được thực hiện thì cá nhân sẽ bực tức, không hài lòng. Với những phần thưởng mang lại lợi nhuận cao và dễ thực hiện thì luôn được chủ thể lựa chọn và tiếp cận. Việc lựa chọn hành vi đi lễ của người dân nội thành Hà Nội, với số lượng thành phần đông nhưng được giới hạn từ 20 đến 50 tuổi thì hành vi đi lễ đã phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng. Áp lực từ học hành, công việc, xung đột trong các mối quan hệ thì việc đi lễ dường như là 1 giải pháp nhằm trấn an tinh thần, đáp ứng nhu cầu bản thân. Tuy nhiên dịch COVID-19 đã tác động tới mọi mặt ở đời sống khiến cho các áp lực trước đây càng có sự gia tăng đáng kể, việc tìm tới các chốn tâm linh như vậy là càng cần thiết nhưng do sự nguy hiểm của dịch mà việc đó đã phải hạn chế lại. Việc hạn chế đi lễ như vậy thì quả thực làm thế nào để lựa chọn giải pháp trấn an tinh thần cho mình thì cũng là vấn đề cần được quan tâm đáng kể và hành vi đi lễ liệu thực sự nó có thay đổi hay là không? b) Lý thuyết hành động xã hội Theo Xã hội học, hành động xã hội thực chất là sự trao đổi trực tiếp giữa các cá nhân với nhau, cũng như các khuôn mẫu quan hệ đã được cấu trúc hoá dựa trên các nhóm, thiết chế xã hội, tổ chức. Hành động xã hội là cách thức giải quyết các vấn đề của xã hội được tạo ra bởi các phong trào, tổ chức, đảng phái. Theo quan niệm của M.Weber ông định nghĩa hành động xã hội là hành động được chủ thể gán cho một ý nghĩa chủ quan nào đó, là hành động có tính đến hành vi của người khác và vì vậy được định hướng cho người khác, trong đường lối, quá trình của nó. Hành động xã hội là một bộ phận cấu thành trong hoạt động sống của cá nhân. Hành động xã hội bị quy định bởi hàng loạt các yếu tố như: lợi ích, nhu cầu, định hướng giá trị của chủ thể hành động. Cấu trúc hành động xã hội: 1) Nhu cầu: Đây là thành tố đầu tiên, cội nguồn của cấu trúc hành động xã hội. Hành động xã hội không chỉ đơn thuần là những yếu tố mà chúng ta quan sát, nó bao gồm yếu tố ý thức, định hướng động cơ mà chúng ta khó có thể quan sát nhưng ý thức rất rõ thì đó gọi là nhu cầu. Nhu cầu là mong muốn của chủ thể là khởi điểm của hành động, không có nhu cầu thì không có hành động. Nhu cầu luôn tồn tại ở dạng ý tưởng, mong ước. 2) Động cơ: Là lực thúc đẩy con người hành động để thoả mãn nhu cầu bản thân. Nói cách khác động cơ là nhu cầu được ý thức hoá, phản ánh trong tư duy của chủ thể hành động. Động cơ luôn tồn tại trong ý thức, suy nghĩ của chủ thể hành động. Mọi hành động đều được động cơ dẫn dắt, thúc đẩy để đạt được mục đích nhưng không phải hành động nào cũng đạt được mục đích vì việc đặt ra mục đích còn phụ thuộc nhiều yếu tố hành động. 3) Mục đích: Là đích mà hành động cần phải đạt tới. Mục đích được xác định rõ ràng có vai trò cho định hướng hành động và giúp cho chủ thể dễ dàng đạt được hiệu quả. Hành động chưa đạt được mục đích thì coi như hành động đó chưa hoàn thành. 4) Hoàn cảnh: Đó là những điều kiện về mặt thời gian, không gian, vật chất, tinh thần của hành động. Nói cách khác đó là hành động diễn ra tại thời điểm nào, không gian nào? Bối cảnh nào? Giữa 4 yếu tố cấu thành nên hành động xã hội chúng có mối liên hệ lẫn nhau được biểu hiện bởi sơ đồ sau: Với những quan điểm trên của Weber về hành động xã hội, áp dụng vào nghiên cứu sẽ giải thích và mô tả được hành vi đi lễ của người dân nội thành Hà Nội hiện nay, hơn nữa còn tìm hiểu được thực trạng về đặc điểm cơ bản của người dân và các yếu tố ảnh hưởng tới hành động đi lễ chùa của họ. Thông qua việc tìm hiểu và phân tích về mục đích và động cơ đi lễ chùa trong nghiên cứu sẽ thấy rõ hơn nguyên nhân mà người dân nội thành lại quyết định đi lễ trước và trong tình hình dịch bệnh hiện tại. 8. Phương pháp nghiên cứu a) Phương pháp tích tài liệu phân Tiến hành thu thập, phân tích các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. những thông tin từ nghiên cứu tài liệu đã giúp nhóm nghiên cứu có thể so sánh những phát hiện từ cuộc khảo sát với những kết quả được tìm thấy trong tài liệu. Việc so sánh này vô cùng quan trọng cũng như giúp trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra trong nghiên cứu này. b) Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp - Phương pháp sử dụng bảng hỏi Anket Phương pháp này được sử dụng để thu thập thông tin định lượng, cung cấp thông tin bổ sung cho những phát hiện của phần nghiên cứu định tính. Thông tin định lượng tiến hành trực tuyến trên mạng xã hội Facebook và Zalo. Thông tin nghiên cứu thu được sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS 13.0 để lọc ra những thông tin cần thiết. Chọn mẫu: Sử dụng phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên dựa trên danh sách số lượng người tại hội nhóm 12 quận nội thành trên facebook “Tôi yêu Phường… + Quận” với số lượng 12 quận X 30.000 tài khoản = 360.000 tài khoản. Dựa theo công thức sau: n= N. N. . 0,25 + . 0,25 Trong công thức trên: - n: Số mẫu cần điều tra (số lượng sinh viên) - N. Tổng số tài khoản facebook trên các group đó là 360.000 - t=1.96 (mức tin cậy bằng 95%) - d: sai số có thể chấp nhận được bằng 0.06  Số lượng mẫu dự kiến là: 266 người được tính toàn từ công thức trên Lý do lựa chọn: Phương pháp thu thập thông tin do đây là phiếu trưng cầu ý kiến nên phương pháp này giúp thu thập được nhiều thông tin hơn. Nguồn thông tin là các câu trả lời không bị tác động bởi người hỏi nên họ dễ dàng thể hiện quan điểm, thái độ và ý thức. 9. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu a) Câu hỏi nghiên cứu - Động cơ, mục đích của người dân nội thành Hà Nội đi lễ là gì? - Tác động của dịch COVID-19 tới hành vi đi lễ như thế nào? b) Giả thuyết nghiên cứu - Người dân đi lễ chùa có nhiều mục đích như đi lễ cầu bình an, tài lộc...có nhiều người coi đi chùa để bình an trong tâm hồn. - Hành vi đi lễ đã thay đổi đáng kể sau khi chịu tác động của dịch COVID-19. - Hành vi đi lễ của người dân không chỉ gắn với tôn giáo mà còn mang tính đa dạng. 10.Khung phân tích Ảnh hưởng của dịch COVID-19 Giới tính Hành vi đi lễ Độ tuổi Nơi cư trú Hành vi đi lễ của người dân nội thành Hà Nội Tần suất đi lễ Cách thức hành lễ Nơi đi lễ chùa Cách thức sắm lễ Nghề nghiệp Động cơ, mục đích đi lễ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất