MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………..1
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
MIỀN BẮC…………………………………………………………………...2
1. HOÀN CẢNH………………………………………………………….2
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC…………………………………………..3
CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1954-1975)……………………………...9
1. BƯỚC ĐẦU KHÔI PHỤC KINH TẾ SAU CHIẾN TRANH (1954 –
1957)…………………………………………………………………...9
2. CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BƯỚC ĐẦU PHÁT TRIỂN KINH
TẾ, VĂN HOÁ Ở MIỀN BẮC (1958 – 1960)……………………….11
3. KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 – 1965)……………..15
4. GIAI ĐOẠN 1965-1975……………………………………………...20
4.1 Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng chuyển hướng xây dựng miền Bắc,
đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lần thứ nhất (1965-1968)..20
4.2 Đảng lãnh đạo xây dựng miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại
lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1969-1973)……………………………………23
4.3 Đảng lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển
kinh tế ở miền Bắc, ra sức chi viện cho miền Nam (1973-1975)……………26
CHƯƠNG 3. THÀNH TỰU, KHUYẾT ĐIỂM TRONG CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1954-1975). TRÁCH
NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY………………………………………….29
1. THÀNH TỰU………………………………………………………...29
2. KHUYẾT ĐIỂM……………………………………………………...31
3. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY
DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY……………………….32
KẾT LUẬN…………………………………………………………………35
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………36
LỜI NÓI ĐẦU
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về lập lại hòa bình ở Việt Nam và
Đông Dương được ký kết, nước ta tạm thời chia làm hai miền, với hai chế độ
chính trị xã hội khác nhau. Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhân dân miền Bắc đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn,
thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, lập nên
những kỳ tích vĩ đại, góp phần to lớn quyết định thắng lợi đối với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của cả nước.
1
CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
MIỀN BẮC
1. HOÀN CẢNH
Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh
thế giới và trong nước có những thuận lợi to lớn, nhưng cũng gặp những khó
khăn không nhỏ.
Nét nổi bật của tình hình thế giới là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới
đang lớn mạnh về mọi mặt, quyết định chiều hướng phát triển của thời đại
mới. Sức mạnh đó là kết quả chung về sự phát triển toàn diện của các nước xã
hội chủ nghĩa bao gồm các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật,
trong đó Liên Xô là trung tâm, trụ cột của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sự lớn
mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân
các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam đứng lên chống đế
quốc, giành độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và hoà bình thế giới.
Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đặc biệt sau chiến thắng
Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân
tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới không ngừng phát
triển mạnh trên khắp các châu lục.
Tình hình trên làm cho lực lượng của chủ nghĩa đế quốc ngày càng suy
yếu nghiêm trọng. Biểu hiện trước hết ở sự tan rã của hệ thống thuộc địa, tiếp
đến là sự suy thoái của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và sự gia tăng mâu
thuẫn trong nội bộ, làm cho chủ nghĩa đế quốc đứng trớc vực thẩm của tổng
khủng khoảng.
Từ sau Hiệp định Giơnevơ, với sự can thiệp và xâm lược của đế quốc
Mỹ, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền, mỗi miền có chế độ chính trị, xã hội
khác nhau. Nhân dân miền Nam đang còn phải sống dưới ách thống trị của đế
quốc và tay sai, tiếp tục đấu tranh với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ vô cùng tàn
2
bạo và nham hiểm. Tình hình trên đặt ra cho cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc nhiều khó khăn gian khổ.
Sau ngày giải phóng, nhân dân miền Bắc vô cùng phấn khởi, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, hăng say lao động sản xuất xây dựng chế độ mới,
đó là điều kiện chính trị – xã hội thuận lợi cơ bản để miền Bắc bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng bên cạnh đó, miền Bắc đi lên chủ
nghĩa xã hội có nhiều khó khăn phức tạp, trong đó đặc điểm lớn nhất là từ sản
xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, sự phá hoại của các thế lực thù
địch trước và sau khi thực dân Pháp rút quân và hậu quả của chiến tranh; hàng
chục vạn người bị thất nghiệp, tàn dư của nền văn hóa nô dịch và tệ nạn xã
hội chưa cải tạo xong... Đó là những cản trở lớn gây ảnh hưởng không nhỏ
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa II họp từ ngày 15
đến ngày 17 tháng 7 năm 1954, tại Việt Bắc. Hội nghị đã xem xét, đánh giá
tình hình mới và vạch ra sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng:
Tranh thủ và củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân
chủ trong cả nước, kiên quyết chống đế quốc Mỹ xâm lợc. Với miền Bắc, tiếp
tục thực hiện người cày có ruộng, ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều kiện
kiến thiết nước nhà.
Để chỉ đạo kịp thời mọi hoạt động của Đảng trong thời kỳ mới, ngày 5
tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị
quyết về: “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng”. Nghị
quyết nêu rõ tình hình mới của đất nước tạm thời phân thành hai miền, chỉ ra
3
kẻ thù chủ yếu của cách mạng nước ta là đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, đề
ra nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước.
Về nhiệm vụ xây dựng miền Bắc, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9 năm
1954 vạch rõ: trước mắt là ổn định xã hội, ổn định vật giá, ổn định thị trường,
hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, phục hồi sản xuất,
mở rộng hoạt động quốc tế nhằm tạo cơ sở ban đầu thuận lợi để chuẩn bị tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) của Ban Chấp
hành Trung ương (khóa II), Đảng ta đề ra nhiệm vụ củng cố miền Bắc, đồng
thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, Đặc biệt
Hội nghị lần thứ tám của Đảng đã chủ trương đưa miền Bắc tiến dần từng
bước lên chủ nghĩa xã hội, củng cố miền Bắc phải luôn luôn chiếu cố miền
Nam, đó là hai nhiệm vụ không tách rời nhau.
Việc xác định đường lối đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa
xã hội hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, thích ứng với điểm xuất phát thấp của thực tiễn kinh tế – xã hội
và con người miền Bắc.
Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, tháng 1
năm 1956, trong tài liệu “Mấy vấn đề về đường lối cách mạng Việt Nam”, Bộ
Chính trị nhận định: “Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta đã chuyển
sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, bất kể tình hình như thế nào, miền Bắc
cũng phải được củng cố và phải tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đến đây, nhận
thức của Đảng ngày càng thể hiện rõ quyết tâm tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc. Quyết tâm đó hoàn toàn có cơ sở khoa học, bởi vì
miền Bắc đã được giải phóng, thế lực đế quốc và phong kiến đã bị đánh đổ,
nhân dân phấn khởi tin tưởng, khối liên minh công nông được củng cố, sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường, chính quyền nhân dân được xây dựng
4
ngày càng vững mạnh và đang chuyển sang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
chính vô sản, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngày càng có
hiệu lực. Vì vậy, chủ trương của Đảng đa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội,
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại và nguyện vọng thiết tha của toàn dân, đồng thời đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp giải phóng miền Nam, bước chuẩn bị cần thiết cho
chiến lược cách mạng lâu dài đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội sau này.
Để cụ thể hóa và phát triển đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc (tháng 12-1957), hội nghị lần thứ mời ba của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa II), họp bàn nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong
giai đoạn mới. Hội nghị tổng kết nhiệm vụ khôi phục kinh tế miền Bắc; bàn
phương hướng phát triển chủ nghĩa xã hội trong những năm tiếp theo; thông
qua cải tiến chế độ tiền lương cho cán bộ, công nhân viên; đề ra chủ trương
xây dựng Đảng, kiện toàn bộ máy Nhà nước đủ sức lãnh đạo cách mạng cả
nước nói chung và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nói riêng. Hội
nghị tập trung thảo luận và thông qua kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội
miền Bắc, theo phương hướng tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội; trọng
tâm là phát triển nền kinh tế quốc dân, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội
chủ nghĩa; đề ra phương hướng công tác tư tưởng – lý luận nhằm đẩy lùi tư
tưởng tiểu tư sản và ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại, làm cho hệ tư tưởng xã
hội chủ nghĩa chiếm vị trí thống trị tuyệt đối trong đời sống tinh thần của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Thực hiện quan điểm đa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã
hội, tháng 11 năm 1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần
thứ mười bốn, vạch ra những nhiệm vụ trước mắt của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, đề ra kế hoạch ba năm (1958 – 1960) cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa, tăng cường lực lượng
5
của chủ nghĩa xã hội cả về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, quân đội,
văn hóa tư tưởng… Trước xu thế phát triển của cách mạng cả nước, đồng thời
đáp ứng yêu cầu cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, tháng 1
năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp Hội nghị lần thứ
mười lăm. Hội nghị có nhiệm vụ tổng kết cách mạng hai miền từ năm 1954
đến năm 1958, đề ra đường lối cách mạng cho cả nước và cho mỗi miền,
trong đó tập trung chủ yếu bàn về đường lối cách mạng miền Nam. Đối với
cách mạng miền Bắc, hội nghị thống nhất chủ trương củng cố miền Bắc, đưa
miền Bắc tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng hậu phương lớn xã
hội chủ nghĩa vững mạnh toàn diện.
Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ mười lăm,
tháng 4 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
mười sáu. Hội nghị thông qua hai nghị quyết quan trọng bàn về cách mạng
miền Bắc: Nghị quyết về hợp tác hóa nông nghiệp và nghị quyết về vấn đề cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh nhằm thực hiện từng phần cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Sau hơn 5 năm tiến hành lãnh đạo cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đến thời điểm năm 1960, Đảng ta đã tích lũy đợc nhiều kiến
thức, kinh nghiệm về xác lập đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ
sở đó, ngày 5 tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng đã khai mạc tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời khai mạc Đại hội
và nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.Nội dung cơ bản của đường lối
chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc được Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng thông qua là:
Về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: Xây dựng đời sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ
sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà,
6
góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam á và
thế giới.
Con đường để đạt mục tiêu trên: Sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân
làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, để cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp
tư bản tư doanh ; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh ; thực hiện công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ;
đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật.
Về nhịp độ, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc: Tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Yêu cầu cần đạt đến của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là biến
nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông
nghiệp hiện đại, văn hóa, khoa học tiên tiến.
Điều kiện để thực hiện thắng lợi đường lối trên là: Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước dân chủ nhân dân; củng cố sự
nhất trí về chính trị, tinh thần của nhân dân; tăng cường sự đoàn kết, hợp tác
với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa; mở rộng quan hệ hữu nghị với các
nước có chế độ chính trị khác nhau, với nhân dân yêu chuộng hòa bình trên
thế giới.
Cùng với việc xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc, Đại hội còn xác định vị trí, vai trò của cách mạng miền Bắc có ý
nghĩa quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta,
đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đồng thời, Đại hội đã cụ thể hóa
đường lối chung bằng việc đề ra nhiệm vụ và phương hướng kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961 – 1965), nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội.
7
Như vậy, qua quá trình tích cực tìm kiếm, vừa nghiên cứu lí luận, vừa
tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã từng bước hình thành đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng (1960), đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa về cơ bản đã được hình
thành. Qua đó, thể hiện rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong
việc vận dụng lý luận Mác – Lênin, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây
dựng chủ nghĩa xã hội của các nước anh em để hình thành nên đường lối xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phù hợp với lịch sử đất nước và con người
Việt Nam.
Đường lối cơ bản đó tiếp tục được bổ sung, phát triển thể hiện qua các
nghị quyết Trung ương lần thứ 10 (1963), lần thứ 11, 12 (1965), lần thứ 19
(1971). Trong đó nghị quyết Trung ương lần thứ 19 được đánh giá là bước
phát triển tương đối hoàn chỉnh về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Nghị quyết nhấn mạnh: Phải nắm vững chuyên chính vô sản phát
huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học
và cách mạng tư tưởng, văn hóa); khẳng định thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội lâu dài, phân ra nhiều bước quá độ nhỏ hơn và chỉ ra miền Bắc đang ở
bước ban đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Kết hợp chặt chẽ xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
8
CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1954-1975)
1. BƯỚC ĐẦU KHÔI PHỤC KINH TẾ SAU CHIẾN TRANH
(1954 – 1957)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và hiẹp dịnh Giơnevơ bàn về lập lại hòa
bình ở Việt nam và Đông Dương được các bên tham dự hội nghị kí kết (7 1954), miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng, đó là điều kịên chính trị
– xã hội hết sức thuận lợi. Nhưng bên cạnh đó miền Bắc gặp vô vàn khó khăn
do hậu quả chiến tranh để lại: ở nông thôn hàng vạn héc-ta ruộng đất bị bỏ
hoang, nhân lực lao động, nông cụ, sức kéo đều thiếu nghiêm trọng. Ở thành
thị, nhiều cơ sở công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp bị địch tháo gỡ thiết bị hoặc
phá hoại trớc khi rút đi, công nhân thất nghiệp phổ biến; thương nghiệp và thủ
công nghiệp cũng rơi vào tình trạng tê liệt không hoạt động hoặc hoạt động
kém hiệu quả. Cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1953 cũng chỉ
mới thực hiện được ở một số địa phương thuộc vùng tự do. Đời sống các tầng
lớp nhân dân vô cùng khó khăn, có nhiều vùng xuất hiện tình trạng thiếu ăn,
đói kém nghiêm trọng.
Nhận thức sâu sắc những thuận lợi và khó khăn của miền Bắc, đồng thời
để tạo tiền đề kinh tế - xã hội mở đường đa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng đã mở các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu, lần
thứ bảy, lần thứ tám và lần thứ mười (khoá II), bàn nhiều vấn đề quan trọng
liên quan đế sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: Trong giai
đoạn mới, toàn Đảng, toàn dân cần tập trung mọi nỗ lực kinh tế đó là nhiệm
vụ trọng tâm trước mắt và khâu chính là nông nghiệp; tiến hành cải cách
ruộng đất ,thực hiện người cày có ruộng là nhiêm vụ trọng yếu; đồng thời
phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, củng cố Đảng và chính quyền dân chủ
nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản; củng cố quốc
9
phòng, xây dựng quân đội, tạo điều kiện đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ trên, trong khôi phục kinh tế ở miền Bắc
sau chiến tranh, Đảng ta đã chỉ đạo toàn dân thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ.
Trước hết là nhiệm vụ khôi phục sản xuất nông nghiệp và bước đầu xây dựng
bộ phân kinh tế tập thể. Giai cấp nông dân đang phấn khởi bởi được giải
phóng khỏi ách áp bức bóc lột của đế quốc và phong kiến, lại được Đảng,
chính phủ chia ruộng đất nên đã hăng hái vượt mọi khó khăn, ra sức khai
hoang phục hóa, chống hạn, đẩy mạnh sản xuất,tăng nhanh sản lượng lương
thực. Tính đến năm 1957, sản lượng lương thực ở miền Bắc đạt 4,2 triệu tấn,
vượt mức trước chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939) là 2,4 triệu tấn. Đời
sống của nhân dân mà chủ yếu là nông dân dần dần đi vào ổn định, đẩy lùi
nạn đói. Về khôi phục sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, Đảng chủ
trơng phải tập trung khôi phục và phát triển công nghiệp trong phạm vi cần
thiết và có khả năng phục vụ cho nông nghiệp. Do đó trong các năm 1955 đến
năm 1957 hầu hết các cơ sở công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp quan trọng
như: Mỏ than Hồng Gai, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy xi măng Hải
Phòng, nhà máy điện Hà Nội, đi vào hoạt động có hiệu quả, công nhân phấn
khởi trở thành người làm chủ cơ sở sản xuất của mình. Đồng thời, Đảng và
Nhà nước chỉ đạo xây dựng thêm một số nhà máy mới. Đến cuối 1957, miền
Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp do Nhà nước quản lý, thương nghiệp
miền Bắc đã tăng tổng mức bán lẻ lên 70,6%, doanh số gấp 2 lần so với năm
1955. Về khôi phục và phát triển giao thông vận tải, Đảng và Nhà nước chỉ
đạo nhanh chóng khôi phục đường xe lửa, đường ôtô, đường thủy, bưu điện,
nạo vét và mở rộng các bến cảng: Long Biên, Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả,
Bến Thủy; khai thông đường hàng không quốc tế. Các ngành văn hóa, giáo
dục, y tế phát triển nhanh chóng theo tính chất xã hội chủ nghĩa. Hệ thống
10
giáo dục phổ thông theo chương trình 10 năm được xác lập, giáo dục đại học
được chú ý phát triển. Hệ thống y tế và chữa bệnh miễn phí đợc phát triển
rộng trên miền Bắc. Hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở được xây
dựng và củng cố, đã phát huy hiệu lực trong lãnh đạo và chỉ đạo nhiệm vụ
khôi phục kinh tế, đập tan mọi âm mưu và hành động của bọn phản động
chống đối chế độ mới.
Trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương
thực hiện đợt 6 giảm tô thuế, đợt 2 cải cách ruộng đất đem ruộng đất về cho
dân cày và từng bước đưa họ vào con đường làm ăn tập thể. Trong hơn 2 năm
(1954 - 1956), cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tiến hành tiếp 4 đợt còn lại
(từ đợt 2 đến đợt 5) với tổng cộng 3.314 xã. Trải qua 5 đợt cải cách ruộng đất,
khoảng 81 vạn ta ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 1,8 triệu nông cụ từ tay giai cấp
địa chủ được chia cho trên 2 triệu nông dân. Giai cấp địa chủ bị xóa bỏ, quan
hệ sản xuất mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm
phải một số sai lầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến tư tưởng tình cảm và
nhiệt tình cách mạng của nhân dân. Nhận thức rõ điều đó, Đảng đã kịp thời
sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, củng cố
niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, công cuộc khôi phục kinh tế và hoàn thành những nhiệm vụ
còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ năm 1954 đến 1957 do
Đảng lãnh đạo, thực chất là quá trình san nền, xây móng, mở đường để bắt tay
triển khai thực hiện từng bước cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
2. CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BƯỚC ĐẦU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ, VĂN HOÁ Ở MIỀN BẮC (1958 – 1960).
11
Công cuộc khôi phục kinh tế thắng lợi đã tạo cơ sở thuận lợi cho sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vững bước tiến lên. Tháng 4
năm 1958, Hội nghị lần thứ mười bốn Ban Chấp hành Trung ương Đảng bàn
về kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần
kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, thành phần kinh tế tư bản tư doanh,
người buôn bán nhỏ, đồng thời mở mang xây dựng cơ bản, tăng cường lực
lượng của thành phần kinh tế quốc doanh.
Đảng chủ trương tập trung sự lãnh đạo cải tạo toàn diện nền kinh tế xã
hội, khâu chính là cải tạo nông nghiệp bằng cách hợp tác hóa toàn bộ nông
nghiệp, thực hiện hợp tác hóa trớc khi cơ giới hóa, từ hợp tác hóa trong nông
nghiệp làm đòn bẩy thúc đẩy và phát triển các ngành kinh tế khác.
Mục đích cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa là để xác
lập chế độ công hữu về tư hiệu sản xuất, dưới hai hình thức chủ yếu: sở hữu
nhà nước (toàn dân) và sở hữu tập thể, nhằm hình thành quan hệ sản xuất mới
xã hội chủ nghĩa, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong khi lấy cải tạo là trọng tâm, phải tiến
hành đồng thời với xây dựng cải tạo để xây dựng và xây dựng phải kết hợp
với cải tạo, thúc đẩy cải tạo nhanh chóng hoàn thành.
Hướng phấn đấu đến năm 1960, nhân dân miền Bắc sẽ có đủ lương thực,
có thêm rau, thịt, cá, đường; tự cung cấp phần lớn hàng tiêu dùng, chủ yếu là
vấn đề ăn, mặc, học tập, đồ dùng gia đình; trình độ văn hóa và kỹ thuật được
nâng dần; nạn thấp nghiệp do chế độ cũ để lại sẽ được giải quyết căn bản.
Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ mười
bốn, Đảng ta đã có các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách xã hội chủ nghĩa toàn diện trên các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, tạo nên phong trào sản xuất sôi nổi trên toàn miền Bắc. Trong
xu thế phát triển đó, tháng 4 năm 1959 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
12
lần thứ mời sáu (khóa II) họp, tập trung bàn về vấn đề hợp tác hóa trong nông
nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa với công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Về hợp tác hóa nông nghiệp, hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng lúc này
là chuẩn bị mọi mặt về đường lối, chính sách, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kế
hoạch để phát triển tổ đổi công, mở mang hợp tác xã nông nghiệp một cách
tích cực, vững chắc tiến tới cao trào cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.
Nguyên tắc chỉ đạo xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi, quản lý
dân chủ. Phương châm tiến hành cải tạo là tích cực, vững chắc, quy hoạch về
mọi mặt, sát với từng vùng.
Về cải tạo đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, Đảng đề ra chủ
trương cải tạo hòa bình, hai bên cùng có lợi, đi đôi với sắp xếp công ăn việc
làm cho các nhà tư bản và giai cấp tư sản.
Thực hiện chủ trương của Đảng, phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa và
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhanh chóng trở thành cao trào trên toàn
miền Bắc. Cuộc vận động hợp tác hóa trong nông nghiệp thu nhiều thành tựu
to lớn; tính đến cuối năm 1960, miền Bắc có hơn 85% hộ nông dân, với 68%
diện tích ruộng đất vào hợp tác xã nông nghiệp. Đối với cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh tính đến cuối năm 1960, miền Bắc có 783 hộ tư sản
công nghiệp (100%), 826 hộ tư sản thương nghiệp (97,1%) và 319 hộ tư sản
vận tải cơ giới (99%) đã được cải tạo. Hàng vạn công nhân được giải phóng
khỏi ách bóc lột của giai cấp tư sản. Ngành thủ công nghiệp từng bước được
phục hồi và đi vào con đường làm ăn tập thể thông qua các hình thức tổ chức
hợp tác như: hợp tác xã cung tiêu, hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp. Tính
đến cuối năm 1960, miền Bắc có 87,9% số thợ thủ công tham gia cải tạo và đi
vào làm ăn tập thể.
Về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng tiến hành chỉ đạo chú trọng
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh. Tính đến năm 1960, miền Bắc có
13
56 nông trường quốc doanh, với diện tích trên 10 vạn héc ta canh tác. Công
nghiệp sản xuất các tư liệu sản xuất được Đảng, Nhà nước chú trọng đầu tu
phát triển, nhiều công trình lớn, nhỏ ra đời. Từ chỗ có 97 xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh năm 1957, đến năm 1960 đã có 172 xí nghiệp do Trung
ương quản lý và trên 500 cơ sở do địa phương quản lý. Nhiều khu công
nghiệp tập trung ra đời như Nhà máy gang thép Thái Nguyên, khu liên hiệp
công nghiệp Việt Trì ... Ngành công nghiệp tiêu dùng có sự phát triển đáng
kể. Năm 1959 tổng số hàng tiêu dùng đợc sản xuất trong nước tăng 283,7% so
với năm 1955, bảo đảm cung cấp được 90% hàng tiêu dùng cần thiết cho đời
sống nhân dân. Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa còn non trẻ cũng có sự
phát triển vượt bậc. Đến năm 1959, mậu dịch quốc doanh đã có 12 tổng công
ty chuyên nghiệp, bao gồm 1.400 cửa hàng, mạng lưới hợp tác xã mua bán có
ở hầu hết các địa phương trong miền Bắc. Sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo
dục, y tế luôn được Đảng, Nhà ưnớc quan tâm xây dựng. Tính đến cuối năm
1960, miền Bắc đã căn bản xóa nạn mù chữ ở miền xuôi cho những ngời dưới
50 tuổi. Hệ thống giáo dục phổ thông được hoàn chỉnh và mở rộng, với số học
sinh tăng 80% so với năm 1957. Các trường đại học và trung học chuyên
nghiệp không ngừng mở rộng. Đến năm 1960, miền Bắc có 9 trường đại học,
với 11,070 sinh viên (gấp 2 lần so với năm 1957). Hệ thống y tế hình thành
căn bản trên khắp các địa phương miền Bắc, bao gồm các bệnh viện, bệnh xá,
trạm y tế phục vụ nhân dân miễn phí.
Cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trong những năm từ 1958
đến 1960. Đảng còn đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, củng cố
chính quyền, xây dựng Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Các Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ mười bốn, lần thứ
mười lăm được quán triệt toàn Đảng, trong đó chú trọng khâu chỉnh đốn tổ
chức, tăng cường giáo dục lý luận Mác - Lênin, cải tạo tư tưởng, nhằm chống
14
lại các quan điểm phản động, sai trái, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tháng 12 năm 1959, Quốc hội nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa thông qua Hiến pháp mới. Ngày 1 tháng 1 năm 1960,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố với toàn dân và thế giới bản Hiến pháp xã
hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta. Thông qua bầu cử dân chủ, Hội đồng
Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp đã đợc mở rộng, bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước ngày càng phát huy hiệu quả. Các tổ chức
quần chúng như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, đoàn thanh niên lao động
Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Mặt trận dân tộc thống nhất đều
được củng cố và hoạt động tích cực. Quân đội nhân dân Việt Nam nòng cốt
của nền quốc phòng toàn dân, trụ cột của chuyên chính vô sản được Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng từng bước, tiến lên chính
quy hiện đại.
Những thành tựu thu được trong sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát
triển kinh tế, văn hóa ở miền Bắc (1958 – 1960), đã chứng minh tính đúng
đắn, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo và chỉ đạo toàn dân bắt tay vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến dần từng bước vững chắc, phù hợp với
thực tiễn đất nước và trình độ nhận thức của nhân dân.
3. KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 – 1965)
Sau khi hoàn thành cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa về quan hệ
sản xuất và thiết lập quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, miền Bắc chuyển
sang thời kỳ lấy xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật là nhiệm vụ trung tâm,
đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh cải tạo xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần đó, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã vạch ra phương hướng nhiệm
vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965).
15
Mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1961 – 1965) là: Phấn đấu xây dựng bước
đầu cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội.
Để thực hiện mục tiêu trên, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đề ra những
nhiệm vụ cơ bản là:
- Ra sức phát triển công nghiệp nặng và nông nghiệp, thực hiện một
bước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển
nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển
giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương
nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để tiến lên biến nước ta thành một
nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư
doanh, tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể,
mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
- Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành
nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân
dân lao động, xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật, xúc tiến thăm dò tài
nguyên thiên nhiên và tiến hành điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu
phát triển kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa. Cải thiện thêm một bước
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, làm cho nhân dân
ta được ăn no, mặc ấm, tăng thêm sức khỏe, có thêm nhà ở và được học
16
tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở
nông thôn và thành thị.
- Đi đôi với phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng
cường trật tự an ninh bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đề ra một số chỉ tiêu
chủ yếu của kế hoạch 5 năm là: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp và
thủ công nghiệp tăng 148% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng
khoảng 20%. Về nông nghiệp, giá trị tổng sản lượng dự tính tăng 10%.
Về xây dựng cơ bản, Nhà nước sẽ đầu tư 5,1 tỷ đồng, chiếm 48% ngân
sách. Thu nhập thực tế bình quân đầu người đến năm 1965 tăng khoảng
30% so với năm 1960.
Triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm (1961 – 1965), Đảng ta đã liên tiếp
họp các Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương nhằm giải quyết các
vấn đề hệ trọng về phát triển kinh tế – xã hội, từng bước cụ thể hóa đường lối
của Đại hội III: Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
III (7-1961) chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, giải quyết
vấn đề lương thực lúa nước, coi trọng cây công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) (6-1962),
bàn về phát triển công nghiệp. Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (12-1964), bàn về công tác thương nghiệp và giá cả… Qua các
hội nghị nói trên, Đảng ta đã nghiên cứu phân tích, làm rõ mối quan hệ giữa
ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách
mạng tư tuởng và văn hóa, cùng nhiều vấn đề quan trọng khác như: tích lũy
vốn ban đầu, mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa xây dựng kinh tế và
củng cố quốc phòng, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa công nghiệp
17
nặng và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp Trung ương và công nghiệp địa
phương.
Hưởng ứng chủ trương của Đảng, toàn thể nhân dân miền Bắc đã dấy lên
phong trào thi đua sôi nổi, tiến công vào nghèo nàn lạc hậu, thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm.
Về nông nghiệp: Nổi lên phong trào thi đua học tập và tiến kịp hợp tác
xã nông nghiệp Đại Phong, tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác
xã, cải tiến kỹ thuật. Nhiều công trình thủy lợi đợc xây dựng. Các nông
trường quốc doanh, trang trại cây trồng và chăn nuôi được đầu tư xây dựng.
Tỷ lệ sử dụng cơ khí trong nông nghiệp tăng nhanh (số máy kéo năm 1965
tăng hơn 3,3 lần so với năm 1960). Những biện pháp trên đã làm cho năng
suất lúa tăng lên đáng kể. Đến cuối năm 1965, có 7 huyện và 640 hợp tác xã
đạt hoặc vượt năng suất 5 tấn thóc trên 1 héc ta. Tính đến đầu năm 1965, có
90,1% tổng số hộ nông dân vào hợp tác xã (trong đó có 60,1% hợp tác xã bậc
cao).
Về công nghiệp: Nổi lên phong trào thi đua “Học tập Duyên Hải”, “thi
đua với Duyên Hải”. Nhà nước đầu tư đến 48% vốn xây dựng cơ bản của nền
kinh tế quốc dân, trong đó đầu tư vào công nghiệp nặng chiếm tỷ trọng lớn
nhất. Kết hợp phát huy nội lực với tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa anh em, đứng đầu là Liên Xô, Trung Quốc, miền Bắc đã xây dựng
được nhiều cơ sở công nghiệp. Đến năm 1965, miền Bắc đã có 1.132 xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh, trong đó có 205 xí nghiệp Trung ương, 927
xí nghiệp địa phương. Công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng 93,1% trong
tổng số giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc. Tiêu biểu về công
nghiệp nặng có Khu gang thép Thái Nguyên, Nhà máy điện Uông Bí, Nhà
máy thủy điện Thác Bà, phân đạm Bắc Giang, Supe phốt phát Lâm Thao…
18
- Xem thêm -