LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập
khẩu thiết bị phát thanh truyền hình của Công
ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, bởi vậy vai trò của xuất nhập khẩu là rất lớn. Trong đó nhập khẩu giữ vai trò
quan trọng vì nó sẽ cung cấp những yếu tố cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tiên tiến và đồng bộ. Hơn nữa, nhập
khẩu cũng giúp cho quá trình công nghiệp hoá tiếp cận nhanh hơn, dễ dàng hơn với
những công nghệ tiên tiến trên thế giới và tạo ra động lực thúc đẩy sự chuyển dịch
cơ cấu của nền kinh tế theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Không những thế,
nhập khẩu còn cung cấp các nguồn nguyên liệu cho quá trình sản xuất, thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu hàng hoá… Bên cạnh đó, trong những năm gần đây Việt Nam
đang trong từng bước hội nhập một cách mạnh mẽ hơn, sâu hơn vào nền kinh tế
thế giới, nhất là sau khi gia nhập WTO thì nhập khẩu càng thể hiện vai trò là cầu
nối quan trọng giữa Việt Nam và các nước trên toàn thế giới. Vấn đề đặt ra đối với
tất cả các doanh nghiệp là làm thế nào để nâng cao hiệu quả nhập khẩu nói riêng
cũng như hiệu quả kinh doanh nói chung. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường
như hiện nay, với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp đối thủ thì vấn đề
hiệu quả là vấn đề đặt ra cho mỗi chủ doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hiệu quả
trong hoạt động kinh doanh mới có thể đứng vững trên thị trường.
Qua một thời gian thực tập tại Công ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình
(TEKCAST) em đã cố gắng tìm hiểu về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của
Công ty và em đã thấy rằng hoạt động của Công ty chủ yếu là nhập khẩu. Bên cạnh
đó, cùng với việc phân tích vai trò đặc biệt quan trọng của hiệu quả kinh doanh đối
với mỗi doanh nghiệp em đã hướng sự quan tâm vào lĩnh vực hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu của Công ty để có thể rút ra một vài ý kiến với mục đích nhằm nâng cao
hiệu quả nhập khẩu của Công ty. Vì vậy em đã chọn đề tài cho chuyên đề của mình
là: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị phát thanh
truyền hình của Công ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình"
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh
nghiệp kinh doanh nhập khẩu
Chương II: Thực trạng hiệu quả nhập khẩu thiết bị phát thanh truyền
hình của Công ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị
phát thanh truyền hình của Công ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
THIẾT BỊ PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH CỦA DOANH
NGHIỆP KINH DOANH NHẬP KHẨU
I. HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA KINH DOANH NHẬP
KHẨU THIẾT BỊ PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH
1. Khái niệm về nhập khẩu thiết bị phát thanh truyền hình
Hoạt động nhập khẩu có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu, nó là
phương thức phổ biến nhất để thâm nhập thị trường quốc tế. Hiện nay, các quốc
gia ngày càng có sự liên kết chặt chẽ vào nhau, điều này thể hiện qua kim ngạch
thương mại quốc tế của từng quốc gia và của cả nền kinh tế thế giới. Hoạt động
thương mại quốc tế bao gồm hai hoạt động cơ bản là hoạt động xuất khẩu và nhập
khẩu. Trong đó, nhập khẩu là chiếc cầu nối thể hiện sự gắn bó mật thiết và phụ
thuộc lẫn nhau giữa nền kinh tế của một quốc gia với các quốc gia khác.
Theo luật thương mại 2006 thì "nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được
đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh
thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật".
Theo cách hiểu nhập khẩu như trên thì hoạt động nhập khẩu thiết bị phát
thanh truyền hình là việc thiết bị phát thanh truyền hình được đưa vào lãnh thổ
Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam
được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời
sống trong nước. Nhập khẩu là để bổ sung những loại hàng hoá mà trong nước
không sản xuất được hoặc nếu sản xuất thì cũng không đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng. Nhập khẩu để đem những công nghệ hiện đại tiên tiến trên thế giới phục vụ
cho sản xuất và tiêu dùng trong nước mà công nghệ sản xuất trong nước chưa đáp
ứng được. Và nhập khẩu là để tận dụng lợi thế so sánh của mỗi nước, nhập khẩu
những hàng hoá mà chúng ta không có lợi thế để tập trung nguồn lực vào sản xuất
những hàng hoá mà chúng ta có lợi thế hơn.
Công ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình nhập khẩu thiết bị phát thanh
truyền hình để cung cấp những thiết bị mà trong nước chưa sản xuất được nhằm
đáp ứng nhu cầu thông tin và liên kết giữa các vùng miền trong nội bộ quốc gia và
giữa nước ta với các nước trên toàn thế giới.
2. Các đặc điểm cơ bản của kinh doanh nhập khẩu thiết bị phát thanh truyền
hình
Nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia, vì vậy nó phức tạp hơn
buôn bán trong nước.
- Nhập khẩu là hoạt động chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật khác
nhau, có thể là luật quốc gia hay quốc tế, các điều ước quốc tế hay các tập quán
thương mại quốc tế.
- Các phương thức giao dịch trên thị trường quốc tế rất phong phú: giao dịch
thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch tại hội chợ triển lãm, buôn bán
đối lưu.
- Mọi hoạt động nhập khẩu hàng hoá đều phải được tiến hành thông qua hợp
đồng kinh tế.
- Phương thức thanh toán trong hoạt động nhập khẩu cũng rất phong phú và
đa dạng như: phương thức thanh toán nhờ thu, phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ, phương thức thanh toán đối lưu. Trong đó phổ biến nhất hiện nay là
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
- Để tránh các rủi ro về hối đoái, ngoại tệ được dùng trong thanh toán của
các giao dịch nhập khẩu thường là các ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi cao
như: USD, EURO…
- Điều kiện giao hàng phổ biến nhất được các bên thoả thuận và sử dụng
trong hoạt động nhập khẩu là các điều kiện FOB và CIF…Trong quá trình vận
chuyển có thể xảy ra những rủi ro về hàng hoá. Do đó để đề phòng và giảm thiểu
những thiệt hại do rủi ro gây ra, các bên có thể thoả thuận mua bảo hiểm cho hàng
hoá, chi phí bảo hiểm do người nhập khẩu hay người xuất khẩu trả tuỳ theo các
điều kiện thoả thuận trong hợp đồng.
Khác với các loại hàng hoá thông thường khác, các thiết bị phát thanh truyền
hình đòi hỏi mức độ kỹ thuật và trình độ công nghệ cao, có những thiết bị liên
quan trực tiếp đến vấn đề an ninh quốc gia và bảo mật thông tin, đó là những thiết
bị thu phát sóng như máy thu phát sóng không dây do vậy mà việc nhập khẩu các
thiết bị này phải chịu sự quản lý của cục tần số - Bộ Bưu chính Viễn thông.
Một đặc điểm nổi bật khác của việc nhập khẩu các thiết bị phát thanh truyền
hình hiện nay ở Việt Nam là chưa có truyền hình tư nhân, hầu như thiết bị truyền
hình phải mua bằng tiền của Nhà nước, các đài truyền hình sử dụng vốn ngân sách
Nhà nước là chủ yếu.
3. Các hình thức nhập khẩu thiết bị phát thanh truyền hình
Có nhiều cách phân loại hình thức nhập khẩu, ta có thể phân loại theo một
số tiêu thức sau:
3.1. Theo sự quản lý của Nhà nước
- Nhập khẩu uỷ thác: là hình thức nhập khẩu trong đó các đơn vị kinh doanh
có nhu cầu hàng hoá nhưng không có quyền hay không có khả năng nhập khẩu trực
tiếp như không có quota nhập khẩu hoặc không có kinh nghiệm nhập khẩu… nên
công ty uỷ thác cho một công ty khác tiến hành nhập khẩu theo nhu cầu của đơn vị
mình. Bên nhận uỷ thác sẽ đứng ra tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để
làm thủ tục, ký kết hợp đồng nhập khẩu và được nhận một phần thù lao theo thoả
thuận gọi là phí uỷ thác.
Ƣu điểm:
Không phải bỏ ra nhiều chi phí để nghiên cứu thị trường.
Mức độ rủi ro thấp.
Nhƣợc điểm:
Không có sự liên kết trực tiếp với nguồn hàng, không kiểm soát được nguồn
hàng.
Lợi nhuận giảm do phải mất chi phí trung gian.
Không thích nghi nhanh với những thay đổi trên thị trường quốc tế.
Kết quả nhập khẩu phụ thuộc vào năng lực của người trung gian nên đôi khi
nhà nhập khẩu phải gánh chịu rủi ro hậu quả.
- Nhập khẩu tƣ doanh: là hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp nhập khẩu
trực tiếp, trong đó có hai loại:
+ Nhập khẩu mậu dịch: hàng hoá nhập khẩu mậu dịch do Nhà nước trực tiếp
quản lý theo kế hoạch phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Hàng nhập khẩu
mậu dịch phải đăng ký kế hoạch với cơ quan chủ quản Bộ Thương mại, Bộ
Thương mại lập kế hoạch nhập khẩu dự kiến trong năm, khi nhập khẩu hàng hoá
phải có giấy phép của Bộ thương mại.
+ Nhập khẩu phi mậu dịch: hàng hoá nhập khẩu phi mậu dich là hàng hoá
không trực tiếp đưa vào kinh doanh, Nhà nước không trực tiếp quản lý và không
nằm trong kế hoạch quản lý của Nhà nước. Khi làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá
phi mậu dịch không phải xin giấy phép của Bộ Thương mại mà do hải quan cấp
phép.
3.2. Theo mục đích nhập khẩu
- Nhập khẩu trực tiếp: là hình thức trong đó nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu có
mối quan hệ trực tiếp với nhau để bàn bạc thoả thuận về giá cả, phương thức giao
dịch, phương thức thanh toán và các điều kiện giao hàng khác.
Ƣu điểm:
Cho phép doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với nhà
cung ứng.
Giảm các chi phí trung gian, nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Hiệu quả hoạt động nhập khẩu sẽ được nâng cao do hai bên giao dịch trực
tiếp nên dễ dàng thống nhất, ít xảy ra hiểu lầm sai sót đáng tiếc.
Hạn chế:
Khối lượng giao dịch phải đủ lớn để bù đắp được chi phí phát sinh trong
giao dịch trực tiếp như chi phí giấy tờ đi lại, khảo sát thị trường.
Doanh nghiệp phải đủ tiềm lực về tài chính cũng như có nguồn nhân lực có
trình độ và kinh nghiệm thì mới có khả năng thực hiện thành công hoạt động nhập
khẩu này.
- Nhập khẩu gián tiếp: là hình thức thông qua các trung tâm thương mại,
trung tâm môi giới nhập khẩu tức là thông qua trung gian thương mại.
Hình thức nhập khẩu này có những ưu điểm và hạn chế gần giống như hình
thức nhập khẩu uỷ thác.
- Tạm nhập tái xuất: là việc hàng hoá được đưa từ nước ngoài hoặc từ các
khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng
theo quy định của pháp luật vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá
đó ra khỏi Việt Nam.
3.3. Theo khối lượng hàng hoá nhập khẩu
- Nhập khẩu tiểu ngạch: Thường áp dụng với hàng hoá không chịu sự quản
lý của Nhà nước. Về thủ tục hành chính, hàng hoá nhập khẩu tiểu ngạch phải làm
thủ tục kê khai hải quan và đóng thuế tiểu ngạch do Bộ Tài chính quy định và ban
hành thống nhất trong cả nước. Nhập khẩu tiểu ngạch chính là nhập khẩu hàng hoá
qua biên giới với khối lượng từng đợt nhỏ.
- Nhập khẩu chính ngạch: Là phương thức nhập khẩu chịu sự quản lý của
Nhà nước trực tiếp thông qua Bộ Thương mại. Nhập khẩu chính ngạch mang tính
chất kinh doanh lớn, có thị trường ổn định.
4. Vai trò của hoạt động nhập khẩu thiết bị phát thanh truyền hình ở doanh
nghiệp kinh doanh nhập khẩu
Nhập khẩu tạo ra hiệu quả kinh tế cao hơn, nó góp phần mở rộng khả năng
sản xuất và tiêu dùng các mặt hàng với số lượng lớn hơn mức có thể so với khả
năng sản xuất, với chi phí thấp và nhiều sự lựa chọn hơn cho người tiêu dùng, góp
phần bổ sung các mặt kém lợi thế của quốc gia như: nguồn nhân lực, tài nguyên,
khoa học công nghệ…
Trong điều kiện nước ta hiện nay, vai trò của nhập khẩu thể hiện ở những
khía cạnh sau:
- Hạn chế sự khan hiếm và tình trạng giá cả leo thang trên thị trường.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, tăng cường cơ sở vật chất
cho nền kinh tế, góp phần đẩy mạnh việc tiếp cận với công nghệ hiện đại.
- Tạo đầu vào cho sản xuất và xuất khẩu, tạo việc làm ổn định cho người lao
động, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Một quốc gia muốn phát triển kinh tế cần có vốn, nguồn nhân lực, công
nghệ và tài nguyên thiên nhiên. Nhập khẩu giúp Việt Nam có được những công
nghệ tiên tiến hiện đại so với thực trạng sản xuất trong nước. Từ đó góp phần thúc
đẩy hoạt động sản xuất trong nước, tạo điều kiện cho Việt Nam sớm bắt kịp với
khu vực và thế giới.
Thực tế Việt Nam là một quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật và công
nghệ chưa cao. Do đó những dây chuyền công nghệ chưa đủ sức để chế tạo những
loại thiết bị như thiết bị phát thanh truyền hình đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật và công
nghệ cao. Việc nhập khẩu các thiết bị này sẽ giải quyết tình trạng khó khăn trong
việc tìm những thiết bị phát thanh truyền hình có chất lượng và đạt tiêu chuẩn quốc
tế để phục vụ cho việc phát triển ngành phát thanh truyền hình trong nước.
Đối với doanh nghiệp, hoạt động nhập khẩu đóng vai trò quan trọng quyết
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, vai trò của nhập khẩu đối với các
doanh nghiệp nói chung và đối với Công ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình
nói riêng được thể hiện như sau:
- Nhập khẩu là nguồn cung cấp thiết bị phát thanh truyền hình với nhiều sự
lựa chọn phong phú cả về chủng loại, giá cả và chất lượng cho Công ty.
- Là nguồn cung cấp hàng hoá đầu vào cho Công ty bán ra tại thị trường
trong nước.
- Là nguồn cung cấp và trang bị cho Công ty các công nghệ sản xuất tiên
tiến, hiện đại và hiệu quả.
Đối với doanh nghiệp chủ yếu thực hiện các hoạt động nhập khẩu như Công
ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình thì vai trò của hoạt động nhập khẩu càng
được thể hiện rõ hơn. Bởi vì nhập khẩu để tạo ra nguồn đầu vào phục vụ nhu cầu
trong nước, nhất là đối với các thiết bị yêu cầu công nghệ hiện đại. Trong những
năm qua, nhờ sự lựa chọn đối tác hợp lý trong hoạt động nhập khẩu mà lợi nhuận
nhập khẩu của Công ty ngày một tăng cao, dần nâng cao được vị thế của Công ty,
đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu hàng đầu của Công ty giai đoạn này là mục tiêu thế
lực.
II. HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU THIẾT BỊ PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH
CỦA DOANH NGHIỆP KINH DOANH NHẬP KHẨU
1. Hiệu quả và phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thiết bị phát thanh
truyền hình
1.1. Quan niệm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thiết bị phát thanh truyền
hình
Trong điều kiện hiện nay việc đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu là mối quan tâm của bất kỳ nền kinh tế nào nói chung và của mỗi
doanh nghiệp nói riêng. Hiệu quả kinh tế được thẩm định bởi thị trường, là tiêu
chuẩn cơ bản để xác định phương hướng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cần phải xác định đúng bản chất hiệu quả kinh doanh nhập khẩu để làm cơ sở cho
việc xác định các tiêu chuẩn và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả nhập khẩu của doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Hiệu quả của hoạt động nhập khẩu là phần lợi ích tài chính thông qua hoạt
động nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, về mặt hình thức là một
đại lượng so sánh giữa chi phí và kết quả. Chi phí tồn tại dưới nhiều dạng như chi
phí sản xuất cá biệt, chi phí lao động xã hội, chi phí trong nước và chi phí quốc tế.
Kết quả cũng có rất nhiều hình thức biểu hiện như lượng hàng hoá nhập khẩu, kim
ngạch nhập khẩu, thu nhập quốc dân, lợi nhuận...
Xét trên phạm vi doanh nghiệp: hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh
nghiệp thể hiện trình độ, khả năng sử dụng các yếu tố nguồn lực phục vụ cho quá
trình kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp và nó chỉ đạt được khi kết quả thu
được lớn hơn chi phí bỏ ra.
Xét trên phạm vi toàn xã hội: hiệu quả kinh doanh chỉ đạt được khi kết quả
thu được từ hoạt động kinh doanh lớn hơn so với kết quả đạt được khi tiến hành
sản xuất các mặt hàng đó ở trong nước. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả lao
động xã hội, tăng thu nhập, giảm tỉ lệ thất nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân,
nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là hoạt động kinh doanh thương mại quốc
tế phức tạp hơn các hoạt động đối nội, nó chịu sự điều tiết của nhiều hệ thống luật
pháp, hệ thống tiền tệ tài chính khác nhau. Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu
cần nắm vững thị trường trong nước và nước bạn, lựa chọn bạn hàng và khách
hàng, tìm hiểu và nắm vững đường lối chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh của
nước ta cũng như nước bạn và đòi hỏi doanh nghiệp phải tuân thủ một cách vô
điều kiện. Do sự phức tạp đó đòi hỏi các doanh nghiệp nhập khẩu cần chuẩn bị chu
đáo, kết quả của việc giao dịch phụ thuộc phần lớn vào sự chuẩn bị đó.
Kết quả vật chất mà hoạt động nhập khẩu mang lại được hình thành ra sao
điều đó phụ thuộc vào tính chất, chức năng của tổ chức nào đó tham gia vào sản
xuất hay sử dụng sản phẩm nhập khẩu. Những kết quả thu được từ hoạt động nhập
khẩu, tác động nhiều mặt của nó đến nền kinh tế cần được đánh giá và đo lường
thông qua các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất.
Chỉ tiêu đó là năng suất lao động xã hội. Tuy vậy, trên thực tế khó xác định ảnh
hưởng của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế nói chung vì tác động của nó
phải thông qua nhiều công đoạn của sản xuất, nhiều tổ chức thực hiện khác nhau
và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố sản xuất và phi sản xuất. Nhưng yêu cầu của
công tác quản lý và hạch toán đòi hỏi phải xác định được hiệu quả của hoạt động
nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân và đối với từng doanh nghiệp nói riêng.
Điều này có liên quan đến việc xác định biểu hiện của hiệu quả và chỉ tiêu hiệu quả
kinh doanh nhập khẩu.
1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thiết bị phát thanh truyền hình
Trong quản lý kinh doanh thương mại quốc tế phạm trù hiệu quả được thể
hiện ở nhiều hình thái khác nhau và việc phân loại hiệu quả theo các tiêu thức khác
nhau có tác dụng tích cực trong quản lý kinh doanh, nó là cơ sở để xác định các chỉ
tiêu và mức hiệu quả, có ý nghĩa to lớn trong công tác quản lý và nâng cao hiệu
quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
1.2.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc
dân
Hiệu quả kinh doanh cá biệt hay hiệu quả tài chính là hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp được đánh giá và xem xét về mặt kinh tế tài chính, được biểu
hiện qua các chỉ tiêu thu - chi trực tiếp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó biểu hiện mối quan hệ giữa lợi ích mà doanh nghiệp
nhận được trong hoạt động kinh doanh với chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thu
được lợi ích đó.
Hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đem lại
cho nền kinh tế quốc dân, đó là sự đóng góp vào quá trình phát triển sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, bổ sung vào tích luỹ
ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân…Đó là hiệu quả kinh tế xã hội nói chung cho tất cả các ngành sản xuất
kinh doanh, còn đối với doanh nghiệp kinh doanh các thiết bị phát thanh truyền
hình như Công ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình thì hiệu quả mà nó đem lại
cho xã hội trước hết là nâng cao, phổ cập kiến thức cho người dân nhất là đối với
vùng xa, vùng nông thôn nơi mà người dân ít tiếp cận với sách báo, họ chỉ có thể
thu nhận thông tin qua tivi hoặc qua các đài phát thanh xã, phường… Bên cạnh
việc cung cấp thông tin thì nó còn đáp ứng một nhu cầu lớn khác là giải trí.
Nhu cầu tiếp nhận thông tin, nâng cao kiến thức của con người ngày một
cao. Xã hội mà chúng ta đang sống là xã hội thông tin cao độ và thông tin đòi hỏi
được cập nhật liên tục. Tác dụng của thông tin và tốc độ mà chúng ta nắm bắt nó
có thể thấy được rất rõ, thông tin đến nhanh một phút cũng có thể giúp một doanh
nghiệp nắm được cơ hội kinh doanh và ngược lại nếu đến chậm, không những
doanh nghiệp không nắm bắt được cơ hội kinh doanh mà còn có thể gây ra những
thiệt hại lớn không lường trước được.
Cùng với quá trình quốc tế hoá, ngành Phát thanh Truyền hình và một số
ngành như Bưu chính Viễn thông có vai trò quan trọng giúp liên kết Việt Nam với
khu vực và thế giới.
Trong quản lý kinh doanh không những cần tính toán để đạt được hiệu quả
của từng người, từng doanh nghiệp mà quan trọng hơn còn phải đạt được hiệu quả
kinh tế xã hội đối với nền kinh tế nói chung. Giữa hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu
quả kinh doanh cá biệt có mối quan hệ nhân quả chặt chẽ với nhau. Hiệu quả kinh
tế xã hội chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh
nghiệp và ngược lại. Tuy nhiên trên thực tế có thể tồn tại một số doanh nghiệp kinh
doanh nhập khẩu không có hiệu quả nhưng toàn thể nền kinh tế vẫn có hiệu quả
kinh tế xã hội nói chung. Nhưng tình hình thua lỗ của doanh nghiệp chỉ có thể
được chấp nhận ở những thời điểm nhất định, trong ngắn hạn do nguyên nhân
khách quan mang lại. Các doanh nghiệp để có thể tồn tại lâu dài và phát triển được
trong môi trường cạnh tranh cần thiết phải đạt được và tối đa hoá lợi nhuận kinh
doanh. Tuy nhiên để các doanh nghiệp phấn đấu vì hiệu quả chung của toàn nền
kinh tế thì Nhà nước cần phải có những chính sách kết hợp hài hoà giữa lợi ích của
xã hội với lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích
của Nhà nước. Trong đó lợi ích cá nhân phải được coi trọng và xem như là động
lực.
1.2.2. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp: là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn
doanh nghiệp, nó phản ánh một cách khái quát về mối quan hệ giữa kết quả và chi
phí để thực hiện mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra trong một giai đoạn nhất định.
Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có tác động thiết thực tìm ra
được hướng giảm chi phí hiệu quả nhằm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh nhằm
đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Hiệu quả kinh doanh bộ phận: là hiệu quả kinh doanh tính riêng cho từng bộ
phận hoặc từng yếu tố sản xuất như: vốn, lao động, máy móc thiết bị… Nó chỉ
phản ánh hiệu quả kinh doanh ở từng mặt hoạt động của doanh nghiệp mà không
phản ánh được hiệu quả của toàn doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh
doanh nhập khẩu phải quan tâm đến việc nghiên cứu các biện pháp đồng bộ để
nâng cao hiệu quả kinh doanh trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh.
1.2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh việc xác định hiệu quả kinh
doanh nhằm mục tiêu:
- Đánh giá thực tế trình độ sử dụng tiết kiệm các chi phí cần thiết phát sinh
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Phân tích và lập các luận chứng kinh tế kỹ thuật về các phương án kinh
doanh có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Hiệu quả tuyệt đối là phạm trù chỉ lượng hiệu quả được tính toán cho từng
phương án kinh doanh bằng cách xác định những lợi ích có thể thu được từ những
lượng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả tương đối được xác định trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối giữa các phương án. Hay hiệu quả tương đối là sự chênh lệch giữa hiệu
quả tuyệt đối của các phương án. Việc tính toán hiệu quả tương đối nhằm mục đích
so sánh các phương án kinh doanh để từ đó lựa chọn phương án tối ưu nhất, có lợi
nhuận lớn nhất.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
nhưng chúng lại có tính độc lập tương đối, xác định hiệu quả là cơ sở để so sánh,
đồng thời là chỉ tiêu phản ánh một cách tổng hợp hiệu quả tuyệt đối của các
phương án.
2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Thương mại quốc tế ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng lĩnh vực hoạt động này và nhấn mạnh:
"Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự nghiệp phát triển khoa học ở
nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc vào việc nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại".
Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm của mọi nền sản
xuất và là mối quan tâm chủ yếu của mỗi doanh nghiệp. Đối với chúng ta hiện nay
vấn đề nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu trở thành cấp bách
vì:
- Cùng với hoạt động xuất khẩu, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu không những là một nhân tố quyết định nhất để tham gia vào phân công lao
động quốc tế, thâm nhập vào thị trường nước ngoài mà còn là một yêu cầu tất yếu
của việc thực hiện quản lý tiết kiệm các nguồn lực khan hiếm.
- Thông qua hoạt động nhập khẩu, hoạt động thương mại quốc tế làm đa
dạng hoá hoặc làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong
trao đổi với nước ngoài.
Hoạt động nhập khẩu đối với doanh nghiệp thương mại chính là tạo đầu vào
cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sản phẩm mà Công ty phát
thanh truyền hình Công nghệ và Truyền hình kinh doanh chủ yếu là mua từ nước
ngoài vì công nghệ trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu, do vậy nó càng khẳng
định vai trò đặc biệt quan trọng của hoạt động nhập khẩu đối với Công ty. Hiệu
quả của hoạt động nhập khẩu phản ánh chính hiệu quả kinh doanh của Công ty bởi
vì khoảng 90% nguồn đầu vào của Công ty là từ nhập khẩu, còn 10% là từ việc
mua từ thị trường trong nước do vậy vấn đề đặt ra là phải nâng cao hiệu quả nhập
khẩu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
3. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thiết bị phát
thanh truyền hình
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán
quốc tế, giảm tỉ lệ thất nghiệp, giúp cho nền kinh tế được ổn định đồng thời ổn
định cả về chính trị.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào được thành lập và hoạt động thì mục tiêu hàng
đầu cũng là lợi nhuận và lợi nhuận càng cao thì càng tốt. Đã kinh doanh là muốn
có lãi, muốn có lãi tức là kinh doanh phải có hiệu quả. Đối với doanh nghiệp kinh
doanh nhập khẩu thì đó là hiệu quả nhập khẩu. Công ty Phát triển Công nghệ và
Truyền hình là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực nhập
khẩu bởi doanh nghiệp kinh doanh những sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao mà sản
xuất trong nước chưa đáp ứng được. Các thiết bị phát thanh truyền hình được công
ty nhập khẩu từ thị trường nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước do đó
mối quan tâm lớn nhất của công ty là làm cách nào nâng cao hiệu quả nhập khẩu.
Việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu là điều kiện để đảm bảo sự tồn tại, phát triển và
mở rộng công ty. Cũng giống như mọi doanh nghiệp khác khi tham gia vào hoạt
động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt
việc kinh doanh có hiệu quả là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả nhập khẩu thì việc nhập khẩu cần phục vụ tốt khâu lưu
thông và phát triển thị trường trong nước, phục vụ đời sống nhân dân, trong việc
nhập khẩu cần tiết kiệm ngoại tệ. Nhập khẩu hàng hoá đúng yêu cầu về quy cách
phẩm chất đồng thời giá phải rẻ. Việc doanh nghiệp tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu
không những làm tăng phần lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn tiết kiệm chi phí
cho nền kinh tế quốc dân, duy trì mức giá ổn định. Do đó việc tổ chức nghiên cứu
thị trường nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, cần tiến hành khảo sát, so sánh và
đánh giá để lựa chọn thị trường nhập khẩu phù hợp theo từng loại hàng. Vì đặc
điểm mặt hàng thiết bị phát thanh truyền hình đòi hỏi phải đảm bảo về chất lượng
và kỹ thuật công nghệ mà Công ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình đã lựa
chọn và có quan hệ đối ngoại với các hãng có uy tín trên thế giới, chủ yếu là các
hãng của Mỹ, Nhật Bản, Đức và Hàn Quốc như: SONY, HITACHI, SANYO,
PANASONIC, PANTHER, SEACHAGE…
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP
KHẨU THIẾT BỊ PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH Ở DOANH NGHIỆP
KINH DOANH NHẬP KHẨU
Với thực trạng hiện nay ở Việt Nam chưa tự sản xuất được các loại thiết bị
phát thanh truyền hình đòi hỏi mức độ kỹ thuật và trình độ công nghệ cao, tất cả
các thiết bị chúng ta đều phải nhập khẩu từ thị trường nước ngoài do đó giá mua
phụ thuộc vào nước ngoài, Công ty nếu không tổ chức tốt khâu tạo nguồn thì sẽ bị
động trong việc mua hàng hoá vì vậy Công ty phải chủ động trong khâu bán ra.
Như vậy muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu vấn đề mà doanh nghiệp
cần quan tâm nhất là khâu tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước. Hiệu quả
kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố cả
chủ quan cũng như khách quan, cả bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp.
1. Nhóm yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
1.1. Chế độ chính sách, môi trường luật pháp trong nước và quốc tế
Mỗi doanh nghiệp đều hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất
định. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoạt động trong môi trường kinh doanh
quốc tế. Môi trường kinh doanh quốc tế bao gồm các yếu tố rất dễ thay đổi tạo
thành một dòng chảy liên tục tạo nên cơ hội hay đe doạ cho doanh nghiệp.
Kinh doanh nhập khẩu là một hoạt động rất phức tạp vì nó chịu sự chi phối
của các nguồn luật khác nhau với những quy định khác nhau của mỗi quốc gia và
những quy định này đôi lúc mâu thuẫn nhau. Do vậy mà yếu tố về chế độ chính
sách, môi trường luật pháp trong nước và quốc tế đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp
phải nắm rõ và tuân thủ một cách vô điều kiện. Đây là nhân tố quyết định đến sự
thuận lợi hay khó khăn của doanh nghiệp khi tham gia hoạt động kinh doanh nhập
khẩu.
Các chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng quan trọng đến doanh nghiệp
khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu là:
- Chính sách nhập khẩu: gồm các quy định về thuế nhập khẩu, hạn ngạch
nhập khẩu, nhóm mặt hàng được khuyến khích, hạn chế hay cấm nhập khẩu.
- Chính sách tỷ giá hối đoái: là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt
động nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái giảm sẽ tăng khối lượng hàng nhập khẩu vì
lúc này đồng nội tệ sẽ lên giá so với đồng ngoại tệ. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái
tăng tức là đồng nội tệ giảm giá so với ngoại tệ, lúc này sẽ hạn chế lượng hàng hóa
nhập khẩu.
- Các thủ tục khi tiến hành nhập khẩu như: xin giấy phép nhập khẩu, làm thủ
tục hải quan. Khi Nhà nước có hành lang pháp lý thông thoáng, các thủ tục khi
thực hiện hoạt động nhập khẩu đơn giản và nhanh chóng sẽ tăng đáng kể lượng
hàng hóa nhập khẩu.
- Các yếu tố mang tính quốc tế như: luật pháp quốc tế, thông lệ và các điều
ước quốc tế, các tổ chức quốc tế mà quốc gia tham gia như ASEAN, AFTA, đặc
biệt là tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới WTO, đây là một cơ hội rất lớn cho tất cả các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và cho Công ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình nói
riêng.
Do thiết bị phát thanh truyền hình có tính đặc thù và có tính chuyên ngành
cao nên việc nhập khẩu các thiết bị phát thanh truyền hình của Công ty đều nằm
dưới sự kiểm soát và quản lý chặt chẽ của Bộ Văn hoá - Thông tin. Bên cạnh đó thì
đối với các thiết bị truyền phát sóng ngoài sự quản lý của Bộ Văn hoá - Thông tin
thì còn chịu sự quản lý của Cục Tần số - Bộ Bưu chính Viễn thông để kiểm soát
các tần số cho phép phát sóng tại Việt Nam.
Ngoài các thiết bị thu phát sóng không dây, việc nhập khẩu phải có giấy
phép và chịu sự quản lý của Bộ Bưu chính Viễn thông thì các thiết bị phát thanh
truyền hình khác các doanh nghiệp được tự do nhập khẩu vào thị trường Việt Nam.
Đối với các loại thiết bị chuyên dùng cho truyền hình Nhà nước có những ưu đãi
nhất định về thuế quan: giảm thuế nhập khẩu, doanh nghiệp nhập khẩu được nộp
thuế chậm 30 ngày sau khi đã hoàn thành thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam.
1.2. Môi trường kinh tế, chính trị
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp. Nền kinh tế nước ta trong những năm qua có mức tăng trưởng cao, nền
kinh tế phát triển nhanh làm gia tăng nhu cầu cả về sản phẩm vật chất và phi vật
chất. Nó mở ra cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp và cho Công ty nói riêng. Do
kinh tế phát triển, mức sống của nhân dân tăng, họ không chỉ đòi hỏi thoả mãn nhu
cầu về vật chất mà còn đòi hỏi ở mức cao hơn là nhu cầu về tinh thần, nhu cầu giải
trí và cập nhật thông tin, chính điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao
hiệu quả kinh doanh của Công ty thông qua việc tăng khối lượng sản phẩm tiêu
thụ.
Ngành phát thanh truyền hình ở Việt Nam mới chỉ phát triển trong 20 năm
đổi mới, cơ sở hạ tầng hệ thống phát thanh truyền hình phát triển với tốc độ chóng
mặt phần lớn trong 10 năm gần đây. Các thiết bị thu phát sóng từ chỗ thu bằng
ăngten đến thu bằng chảo, rồi đến truyền hình DTH, truyền hình vệ tinh, truyền
hình kỹ thuật số… Đây là những bước tiến của ngành công nghệ truyền hình, Công
ty Phát triển Công nghệ và Truyền hình đã bắt kịp với tốc độ phát triển đó và hàng
năm đều đem về nguồn lợi nhuận khá lớn.
Xu hướng đóng mở cửa của nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới cơ hội kinh
doanh của doanh nghiệp, nhờ tự do hoá thương mại mà rất nhiều mặt hàng được
giảm thuế đặc biệt là các thiết bị điện tử, giá giảm sẽ kích thích nhu cầu tiêu dùng
tăng tạo ra cơ hội mở rộng và phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp.
Tiếp đó phải nói đến môi trường chính trị, nếu môi trường chính trị trong
nước ổn định sẽ giảm bớt các rủi ro cho doanh nghiệp như rủi ro về chiến tranh,
đảo chính, khủng bố, xung công, trưng thu tài sản... Sự ổn định về chính trị là một
sự đảm bảo cho doanh nghiệp khi tiến hành giao dịch với các đối tác nước ngoài.
Những biến động của môi trường quốc tế cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng tới giá cả của hàng hóa nhập
khẩu, ảnh hưởng tới sự ổn định của nguồn hàng, đối với những doanh nghiệp kinh
doanh các mặt hàng đòi hỏi công nghệ cao thì sự ổn định của nguồn hàng chính là
yếu tố đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp.
1.3. Môi trường văn hóa xã hội
Là yếu tố luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng, có ảnh hưởng lớn tới
khách hàng và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là yếu tố hình thành tâm
lý, thị hiếu của người tiêu dùng.
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp cần chú ý tới
các yếu tố văn hóa xã hội của đối tượng cần nghiên cứu như: tập quán tiêu dùng,
niềm tin, dân số, thu nhập, lối sống, tôn giáo... nhằm đưa ra những nhận định chính
xác về thị trường. Nền văn hóa phản ánh quan điểm và cách thức sử dụng sản
phẩm, văn hóa ảnh hưởng tới quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Biết được các
yếu tố văn hóa của từng dân tộc giúp ta đưa ra những đối sách kinh doanh phù hợp.
1.4. Đối thủ cạnh tranh
Bao gồm các nhà sản xuất, kinh doanh cùng mặt hàng mà doanh nghiệp
đang kinh doanh nhập khẩu, hoặc các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có
thể thay thế. Đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp, doanh
nghiệp muốn tồn tại được thì phải chiến thắng trong cạnh tranh, ngược lại sẽ bị đẩy
lùi khỏi thị trường. Cạnh tranh giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng hoạt động
dịch vụ phục vụ khách hàng, tạo ra tính năng động và hiệu quả hơn trong hoạt
động kinh doanh. Hiện nay có rất nhiều đối thủ cạnh tranh xuất hiện trên thị trường
phần lớn là các doanh nghiệp tư nhân, điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải không
ngừng củng cố, nâng cao uy tín và vị thế của mình trên thị trường.
2. Nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp
Bên cạnh những yếu tố bên ngoài tác động khách quan đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thì nhóm yếu tố trực tiếp góp phần
quyết định sự thành công của doanh nghiệp chính là các yếu tố bên trong doanh
nghiệp.
2.1. Nguồn nhân lực
Có thể nói nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động kinh
doanh nhập khẩu vì con người trực tiếp quyết định việc diễn ra và thực hiện hoạt
động nhập khẩu. Do đó, để hoạt động nhập khẩu có hiệu quả thì đòi hỏi nguồn
nhân lực phải có trình độ quản lý, am hiểu thị trường trong và ngoài nước, có khả
năng tiếp thị, kinh nghiệm kinh doanh, trình độ ngoại ngữ, khả năng nắm bắt thông
tin và hoạch định chiến lược. Vì vậy việc tuyển chọn và tuyển dụng nguồn nhân
lực là hết sức quan trọng, sau khi tuyển dụng họ cần được sắp xếp vào đúng vị trí
phù hợp với năng lực và chuyên môn nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong kinh
doanh. Trong môi trường kinh tế cạnh tranh ngày càng quyết liệt như hiện nay thì
nguồn nhân lực có trình độ cao sẽ có ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh và hiệu
quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
2.2. Tiềm lực tài chính
Tiềm lực tài chính hay nguồn vốn của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng
trong hoạt động nhập khẩu. Doanh nghiệp cần phải biết huy động nguồn vốn bằng
nhiều cách, có thể là vốn chủ sở hữu, vốn góp, vốn vay ngân hàng và các nguồn
khác. Hiện nay Công ty phát triển Công nghệ và Truyền hình đang trong quá trình
chuẩn bị cho việc cổ phần hoá. Đây là một bước rất quan trọng trong hoạt động của
doanh nghiệp vì nó giúp doanh nghiệp huy động được nguồn vốn khá lớn từ các
nhà đầu tư chứng khoán để có thế mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên
thực tế khi thực hiện giao dịch, nếu doanh nghiệp có nguồn vốn hạn hẹp thì rất khó
có được và thực hiện được các hợp đồng ngoại thương của mình, vì khi đó doanh
nghiệp khó có thể đảm bảo được khả năng thanh toán cho đối tác khi thực hiện hợp
đồng. Nếu tiềm lực tài chính vững mạnh sẽ giúp doanh nghiệp tự chủ và chủ động
- Xem thêm -