TRƯỜNG………………………
KHOA……………………
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà
Nội”
1
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC
Lời mở đầu.
Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu.
I. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu.
1. Nguồn gốc của TMQT.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát
triển của mỗi quốc gia.
3. Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu.
4. Các loại hình xuất khẩu.
II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu.
1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu.
2. Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu.
3. Kí kết hợp đồng xuất khẩu.
4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
5. Đánh giá hiệu qủa xuất khẩu.
III. Khái quát về lịch sử tơ tằm thế giới và đặc điểm
của ngành sản xuất tơ tằm xuất khẩu.
1. Lịch sử tơ tằm thế giới.
2. Các yếu tố đặc trưng của hàng tơ tằm xuất khẩu.
3. Đặc điểm của ngành sản xuất tơ tẵm xuất khẩu.
4. Sự cần thiết phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm,
ươm tơ dệt lụa cho xuất khẩu tơ lụa của Việt
Nam.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu
tằm tơ I
Hà Nội.
I. Tổng quan về công ty dâu tằm tơ I.
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty.
3. Cơ cấu tổ chức quản lý và cơ cấu tổ chức sản xuất
của công ty.
3.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty.
3.2: Quy trình công nghệ của các bộ phận sản
xuất của công ty.
II. Thực trạng xuất khẩu hàng tơ lụa ở công ty dâu tằm tơ
I.
1. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh nói
chung.
2
TRANG
3
4
4
4
5
7
8
11
11
15
16
17
21
22
22
26
27
30
31
31
31
32
33
33
36
40
40
2. Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả
đạt được.
3. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu tơ lụa
của công ty dâu tằm tơ I.
3.1: Doanh thu xuất khẩu của công ty dâu tằm tơ
I.
3.2: Thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty.
3.3: Tình hình xuất khẩu theo mặt hàng.
3.4: Phương thức xuất khẩu của công ty.
3.5: Phương thức thanh toán áp dụng trong xuất
khẩu.
3.6: Nỗ lực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công
ty.
3.7: Quy trình nghiệp vụ xuất khẩu của công ty.
4. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của công
ty dâu tằm tơ I.
4.1: Những mặt đã làm được.
4.2: Những tồn tại chủ yếu và nguyên nhân kìm
hãm
sự phát triển hoạt động xuất khẩu ở công ty.
Chương III: Định hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu
ở công ty dâu tằm tơ I - Hà Nội trong thời
gian tới.
I. Định hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của công ty
trong thời gian tới.
1. Định hướng phát triển ngành tơ tằm Việt Nam
trong thời gian tới.
2. Định hướng phát triển hoạt động xuất khẩu
của công ty trong thời gian tới.
II. Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu
tằm tơ I - Hà Nội.
1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường
mở rộng thị trường xuất khẩu.
2. Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ sản
xuất hiện đại.
3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân
viên trong công ty.
4. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
5. Hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý và tổ chức
xây dựng
chiến lược kinh doanh phát triển thị
trường.
6. Hoàn thiện nghiệp vụ xuất khẩu.
3
40
45
45
46
47
48
48
49
49
52
52
53
56
56
56
58
59
59
60
60
61
64
65
III. Một số kiến nghị với nhà nước.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
66
68
69
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân
loại, không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa
mà vẫn có thể phồn vinh được. Trong bối cảnh đó TMQT là một lĩnh vực
hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập
với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận
dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý
tiên tiến từ bên ngoài, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu
những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế, chiến lược phát triển kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn là
hướng mạnh về xuất khẩu, từng bước thay thế nhập khẩu.Với chiến lược
đó các nhà doanh nghiệp đã có nhiều cơ hội để tăng trưởng và phát triển
mạnh, tham gia vào TMQT.
Công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội là một điển hình, trong những năm vừa
qua nhờ hoạt động xuất khẩu tơ lụa công ty đã đạt được những thành tựu
đáng kể, lợi nhuận liên tục gia tăng, uy tín được tăng cường, đời sống của
cán bộ công nhân viên ngày một cải thiện. Tuy vậy, trong quá trình xuất
khẩu công ty không tránh khỏi những khó khăn hạn chế. Trong thời gian
thực tập tại công ty, thấy được thực trạng như vậy, đồng thời nhận thức
được tầm quan trọng của của công tác xuất khẩu đối với hoạt động sản
4
xuất kinh doanh của công ty, với sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của thầy
giáo, Thạc Sĩ Nguyễn Trọng Hà cùng các cô chú, các anh chị trong công
ty, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở
công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội”.
Báp cáo được chia làm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ IHà Nội.
Chương III: Định hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội trong thời gian tới.
Do những hạn chế về thời gian, tài liệu nghiên cứu và khả năng của
người viết, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong
nhận được sự góp ý chân thành để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và quý báu của thầy
giáo Th.s Nguyễn Trọng Hà và các cô chú, các anh chị trong công ty đã
nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I.Tổng quan về hoạt động xuất khẩu.
Nằm trên những vùng khác nhau của quả đất, mỗi một quốc gia có
điều kiện tự nhiên đất đai khí hậu khác nhau. Cho đến nay trên thế giới
chưa có một quốc gia nào có đủ tất cả các nguồn lực để tự sản xuất tất cả
các hàng hoá cho tiêu dùng trong nước một cách có hiệu quả. Chính vì thế
từ xưa tới nay, thương mại quốc tế (TMQT) dù dưới hình thức nào thì
cũng luôn có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Vậy TMQT là gì?
TMQT là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ (hàng hoá hữu hình và
hàng hoá vô hình) giữa các quốc gia, thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm
môi giới tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá. Sự trao đổi đó là một
hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lấn nhau về kinh
tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia trên thế
giới. TMQT cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số
5
lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất
trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán. TMQT là
một lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào
phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất
nước.TMQT bao gồm nhiều hoạt động khác nhau trên giác độ một quốc
gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của TMQT bao gồm:
Xuất và nhập khẩu hàng hoá, hữu hình và vô hình.
Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công
Tái xuất khẩu và chuyển khẩu.
Xuất khẩu tại chỗ.
Thương mại hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài không thể là quan
hệ ban phát cho không, không phải chỉ có nhập mà phải có xuất, phải cân
đối được xuất nhập và tiến tới xuất siêu ngày càng lớn. Vậy xuất khẩu là
gì? Xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra nước ngoài nhằm
mục đích thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nườc, phát triển sản
xuất kinh doanh khai thác ưu thế tiềm năng đất nước và nâng cao đời sống
nhân dân. Khác với hoạt động mua bán sản phẩm diễn ra trên thị trường
nội địa, hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều, bởi đây là hoạt động
buôn bán trao đổi qua biên giới quốc gia, thị trường vô cùng rộng lớn khó
kiểm soát, thanh toán bằng ngoại tệ đồng thời phải tuân thủ theo những tập
quán thông lệ quốc gia cũng như luật pháp của từng địa phương.
Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực trong mọi điều
kiện từ xuất nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng, máy móc thiết bị và cả công
nghệ cao. Tất cả các hoạt động buôn bán trao đổi này đều nhằm mục đích
là đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia.
1. Nguồn gốc của TMQT.
TMQT có từ hàng ngàn năm nay, nó ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn
giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
TMQT trước hết là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ
khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm
và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào, sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn. Thương mại bắt nguồn từ
sự đa dạng và điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên
môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng
khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn đem
lại lợi nhuận lớn hơn.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự
hình thành TMQT giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu
lửa, lương thực, dịch vụ du lịch... Song như chúng ta đã biết phần lớn số
lượng thương mại trong các mặt hàng không xuất phát từ điều kiện tự
6
nhiên vốn có của sản xuất. Một nước có thể sản xuất được mặt hàng này
tại sao lại nhập khẩu chính mặt hàng đó từ một nước khác? Làm sao nước
ta với xuất phát điểm thấp, chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt
hàng của các cường quốc kinh tế lại có thể vẫn duy trì quan hệ thương
mại với các nước đó? Để giải thích những câu hỏi trên chúng ta hãy xem
xét quy luật lợi thế tương đối (hay lý thuyết về lợi thế so sánh) của nhà
kinh tế học David Ricardo (1772- 1823).
Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản
xuất coi đó là chía khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này
khẳng định nếu mỗi quốc gia chuuyên môn hóa sản xuất các sản phẩm mà
nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất cao nhất thì thương
mại có hiệu quả cho cả hai nước. Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn
so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì
quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích. Khi tham gia
vào TMQT quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại
hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có
lợi thế tương đối). Còn nhiều lý do khác nhau khiến TMQT ra đời và ngày
càng trở lên quan trọng, đặc biệt trong một thế giới hiện đại. Một trong
những lý do đó có thể là TMQT tối cần thiết cho việc chuyên môn hoá để
có hiệu quả kinh tế cao trong các ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên
môn hoá quy mô lớn làm chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo
quy mô sẽ được thực hiện trong hàng hoá các nước sản xuất. Sự khác
nhau về sở thích và mức cầu cũng là một nghuyên nhân khác để có
TMQT. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối ở hai nơi giống hệt
nhau, TMQT vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về sở thích.
Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, con đường xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ theo kiểu cô lập với bên ngoài, tự cấp, tự túc hay thay
thế nhập khẩu đã hoàn toàn không có sức thuyết phục. Thực tế cho thấy
con đường dẫn đến phát triển nhanh, bền vững không phải qua chuyên
môn hoá ngày càng sâu rộng để sản xuất ra những sản phẩm sơ chế, mà
thông qua việc mở rộng và phát triển các ngành sản xuất chế biến sâu, có
giá trị thặng dư cao, hướng về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế
những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả hơn để khai thác tốt nhất
lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật,
công nghệ, thị trường cho sự phát triển. Để thấy rõ điều này chúng ta hãy
xem xét những vai trò sau đây của TMQT nói chung và của xuất khẩu nói
riêng.
2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia.
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có
được đầy đủ mọi thứ hàng hoá. Buôn bán quốc tế có ý nghĩa sống còn, mở
7
rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Xuất khẩu là một hoạt động
TMQT có vai trò quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
2.1: Xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế, phát triển có hiệu quả kinh tế
trong nước.
Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách
đóng cửa của mình lại phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn
phát triển nhanh mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của
mình mà phải biết tận dụng các thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật của
loài người để phát triển. Nền kinh tế “mở cửa”, trong đó xuất khẩu đóng
vai trò then chốt sẽ mở hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi
thế tiềm năng sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc
tế một cách có lợi nhất.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước
ta, những nhân tố tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn
những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và kĩ năng quản lý.
Xuất khẩu là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật
của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và
tài nguyên thiên nhiên để tạo sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp
phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu.
2.2: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, tạo nguồn vốn
và kỹ thuật bên ngoài cho quá trình sản xuất trong nước.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành nhân tố
quyết định cho sự phát triển của sản xuất. Xuất khẩu để tăng khả năng tiếp
thu kỹ thuật mới, làm cho nền kinh tế nông nghịêp lạc hậu sản xuất nhỏ là
phổ biến có nguồn bổ sung kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất và
hiệu quả lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Quá trình phát triển của nền kinh tế đỏi hỏi phải nhập khẩu một
lượng ngày càng nhiều máy móc thiết bị và nguyên liệu công nghiệp ...
Trong các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... thì bằng cách
này hay cách khác đểu phải trả. Chỉ có xuất khẩu mới là hoạt động có hiệu
quả nhất taọ ra nguồn vốn nhập khẩu bởi chúng không phải trả bất cứ một
khoản chi phí nào khác như nguồn vốn vay ngoài hơn nữa còn thể hiện
tính tự chủ của nguồn vốn. Trong thực tiễn, xuất khẩu và nhập khẩu có
mối quan hệ mật thiết với nhau, vừa là kết quả, vừa là tiền đề của nhau,
đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cường nhập khẩu, tăng nhập khẩu để mở
rộng và tăng khả năng xuất khẩu.
Trong tương lai nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội
đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi
các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu- nguồn
vốn duy nhất để trả nợ- trở thành hiện thực.
8
2.3: Xuất khẩu góp phần mở rộng tiêu thụ hàng hoá, giải quyết công
ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ bảo đảm cho sự phát triển
công nghiệp với quy mô hiện đại, sản xuất hàng loạt do đó không tạo
thêm công ăn việc làm, một vấn đề mà các nước nghèo luôn luôn phải giải
quyết.
Với phạm vi vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hoạt động xuất khẩu
mở ra một thị trường tiêu thu rộng lớn với nhu cầu vô cùng đa dạng của
mọi tầng lớp, mọi dân tộc trên toàn thế giới. Sản xuất phải gắn với thị
trường, có thị trường là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sản xuất hàng
xuất khẩu, đến lượt nó sản xuất hàng xuất khẩu lại là nơi thu hút hàng
triệu lao động vào làm việc và tăng thu nhập. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn
vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp
ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
2.4: Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất đó là
thành quả của công cuộc khoa học và công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong qúa trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng
phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với đất nước ta. Vì vậy xuất
khẩu có vai trò quan trọng đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận
lợi, tức là sự phát triển của ngành hàng xuất khẩu này sẽ kéo theo sự
phát triển của một ngành khác có quan hệ mật thiết.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh
trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi
hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn
thích nghi với thị trường.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng
cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, hoàn thiện
công việc quản trị sản xuất và kinh doanh.
2.5: Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại luôn có tác động qua lại
phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một bộ phận rất quan trọng của kinh tế
đối ngoại. Vì vậy khi hoạt động xuất khẩu phát triển sẽ kéo theo các bộ
phận khác của kinh tế đối ngoại phát triển như dịch vụ, quan hệ tín dụng,
đầu tư, hợp tác, liên doanh, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các
quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện mở rộng xuất khẩu. Vì vậy
9
đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các
nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế, góp phần
vào sự ổn định kinh tế chính trị của đất nước.
Nói tóm lại, với những vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền
kinh tế, phát triển hoạt động xuất khẩu luôn là chiến lược để phát triển
kinh tế ở nước ta.
3.Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu có các chức năng cơ bản sau:
- Tạo vốn và kỹ thuật bên ngoài cho quá trình sản xuất trong nước.
- Thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất trong
nước.
- Tăng hiệu quả sản xuất.
Từ những chức năng trên hoạt động xuất khẩu tự đặt ra cho mình một số
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu chiến lược, chính sách và công cụ nhằm phát triển TMQT
nói chung, hoạt động xuất khẩu nói riêng, hướng tiềm năng, khả năng
kinh tế nói chung và sản xuất hàng hoá dịch vụ của nước ta nói riêng
vào sự phân công lao động quốc tế . Ra sức khai thác có hiệu quả mọi
nguồn lực cua đất nước, không đánh giá mình quá cao, quá lạc quan
cũng như không tự ti đánh giá mình quá thấp, từ đó bỏ lỡ cơ hội làm ăn
với nước ngoài, liên kết và đan xen vào chương trình kinh tế thế giới.
- Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng ngày càng chứa
đựng nhiều hàm lượng chất xám, kỹ thuật và công nghệ để tăng nhanh
khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
- Tạo ra những mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu có khối lượng và giá trị
lớn đáp ứng những đòi hỏi cuả thị trường thế giới và của khách hàng về
chất lượng và số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao.
- Mở rộng thị trường và đa phương hoá đối tác.
- Hình thành các vùng, các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo các chân
hàng vững chắc, phát triển hệ thống thu mua hàng xuất khẩu.
- Xây dựng các mặt hàng chủ lực ở phạm vi chiến lược, từ đó có kế
hoạch phát triển và mở rộng mặt hàng chủ lực.
4.Các loại hình xuất khẩu.
Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau phụ
thuộc vào số lượng và các loại hình trung gian thương mại. Mỗi phương
thức có đặc điểm riêng, có kỹ thuật tiến hành riêng. Thông thường có các
loại hình xuất khẩu chủ yếu sau:
10
4.1: Xuất khẩu trực tiếp.
Giống như các hoạt động mua bán thông thường trực tiếp ở trong
nước, phương thức xuất khẩu trực tiếp trong kinh doanh TMQT có thể
được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi trong đó người mua và người bán trực
tiếp gặp mặt ( hoặc thông qua thư từ, điện tín...) để bàn bạc và thoả thuận
với nhau về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh
toán... mà không qua người trung gian. Những nội dung này được thoả
thuận một cách tự nguyện, việc mua không nhất thiết gắn liền với việc
bán.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này khác với hoạt
động nội thương ở chỗ: bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở
các quốc gia khác nhau, đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với
một trong hai bên, hàng hoá là đối tượng của giao dịch được di chuyển
qua khỏi biên giới của một nước.
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp thường có những ưu điểm sau:
- Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất, ít xảy ra
những hiểu lầm đáng tiếc.
- Giảm được chi phí trung gian.
- Có điều kiện xâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý kiến của khách
hàng, khắc phục thiếu sót
- Chủ động trong việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá
Tuy nhiên hoạt động này cũng gặp phải một số hạn chế đó là:
- Đối với thị trường mới còn nhiều bỡ ngỡ, dễ bị ép giá trong mua bán
- Khối lượng mặt hàng cần giao dịch phải lớn để bù đắp được chi phí:
giấy tờ, đi lại, điều tra tìm hiểu thị trường.
4.2: Xuất khẩu gián tiếp.
Nếu trong xuất khẩu trực tiếp người bán tìm đến người mua, người
mua tìm đến người bán và họ trực tiếp thoả thuận quy định những điều
kiện mua bán, thì trong xuất khẩu gián tiếp, một hình thức giao dịch qua
trung gian, mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán và người mua và
việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua người thứ ba.
Người thứ ba này gọi là người trung gian buôn bán. Người trung gian
buôn bán phổ biến trên thị trường thế giới là đại lý và môi giới.
Đại lý: là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều
hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác (principal). Quan hệ giữa người
uỷ thác với đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý.
Môi giới: là loại thương nhân trung gian giữa người mua và người
bán, được người bán hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua
hàng hoá hay dịch vụ. Khi tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không
được đứng tên của chính mình mà đứng tên của người uỷ thác, không
chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người uỷ
11
thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng. Người môi giới không
tham gia vào việc thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp được uỷ quyền.
Quan hệ giữa người uỷ thác với người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng
lần, chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn.
Việc sử dụng những người trung gian thương mại (đại lý và môi giới) có
những lợi ích như:
Những người trung gian thường có hiểu biết rõ tình hình thị trường,
pháp luật và tập quán địa phương, do đó, họ có khả năng đẩy mạnh việc
buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người uỷ thác.
Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất
nhất định, do đó, khi sử dụng họ, người uỷ thác đỡ phải đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài.
Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại, đóng gói,
người uỷ thác có thể giảm bớt chi phí vận tải.
Tuy nhiên việc sử dụng trung gian có khuyết điểm như:
Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị
trường. Công ty cũng thường phải đáp ứng những yêu sách của đại lý
hoặc môi giới.
Lợi nhuận bị chia sẻ
Trước sự phân tích lợi hại như vậy, người ta chỉ thường sử dụng
trung gian trong những trường hợp cần thiết như: khi thâm nhập vào một
thị trường mới, khi mới đưa vào thị trường mới một mặt hàng mới, khi tập
quán đòi hỏi phải bán hàng qua trung gian, khi mặt hàng đỏi hỏi sự chăm
sóc đặc biệt như hàng tươi sống chẳng hạn.
4.3: Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu (counter- trade) là một phương thức giao dịch trao
đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người
bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với
lượng hàng nhận về. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu
về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương
đương.
Buôn bán đối lưu đã ra đời lâu trong lịch sử quan hệ hàng hoá- tiền
tệ, trong đó sớm nhất là “ hàng đổi hàng”, rồi đến trao đổi bù trừ. Ngày
nay, ngoài hai hình thức truyền thống đó, đã có nhiều loại hình mới ra đời
từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Các loại hình buôn bán đối lưu phải kể đến như:
Nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter): trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi
trực tiếp với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao
hàng diễn ra gần như đồng thời.
Nghiệp vụ bù trừ (compensation): đây là hình thức phát triển nhanh
nhất của buôn bán đối lưu. Trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi hàng
hoá với nhau trên cơ sỏ giá trị hàng giao và hàng nhận đến cuối kỳ hạn,
12
hai bên mới đối chiếu sổ sách, so sánh giữa giá trị hàng giao với giá trị
hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế, mà còn số dư thì số
tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những
khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
Nghiệp vụ mua đối lưu (counter- purchase): trong nghiệp vụ này một
bên giao thiết bị cho khách hàng của mình và để đổi lại mua sản phẩm
của công nghiệp chế biến, bán thành phẩm, nguyên vật liệu...
Giao dịch bồi hoàn (offset): người ta đổi hàng hoá và/hoặc dịch vụ lấy
những dịch vụ và ưu huệ ( như ưu huệ trong đầu tư và giúp đỡ bán sản
phẩm).
Nghiệp vụ mua lại sản phẩm (buy- backs): trong nghiệp vụ này một
bên cung cấp thiết bị toàn bộ và/hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật
(know-how) cho bên khác, đồng thời cam kết mua lại những sản phẩm
do thiết bị hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật đó chế tạo ra.
4.4: Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh thương mại trong
đó một bên (gọi là bên đặt gia công) giao (hoặc bán) nguyên liệu hoặc bán
thành phẩm cho một bên khác (gọi là bên nhận gia công) để chế biến ra
thành phẩm giao lại (hoặc bán lại) cho bên đặt gia công và nhận thù lao
(gọi là phí gia công). Như vậy trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập
khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại
thương của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp
họ tận dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận
gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết
công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được thiết
bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp
dân tộc. Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng được phương thức
gia công quốc tế mà có được một nền công nghiệp hiện đại như Hàn
Quốc, Thái Lan, Xingapo...
4.5: Giao dịch tái xuất.
Là hoạt động xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã
nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
4.6: Xuất khẩu theo nghị định thư.
Là hình thức xuât khẩu hàng hoá (hay trả nợ) được kí theo nghị định
thư của chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm: khả năng
thanh toán chắc chắn (do nhà nước trả cho đối tác xuất khẩu), giá cả hàng
hóa dễ chấp nhận.
13
II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu.
Kinh doanh TMQT là hoạt động thương mại phức tạp hơn nhiều so
với kinh doanh thương mại nội địa bởi nhiều lý do: bất đồng ngôn ngữ, hệ
thống luật pháp, phong tục tập quán, thói quen tâm lý... rất khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều
khâu từ điều tra thị trường, lựa chọn thị trường xuất khẩu... cho đến khi
hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua hoàn
tất các thủ tục thanh toán. Đó là cả một qua trình phức tạp cần phải được
nghiên cứu đầy đủ kĩ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh
thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy
đủ và kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Nội dung của hoạt động xuât khẩu bao gồm những nghiệp vụ cơ bản
sau:
1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Không chỉ riêng với hoạt động xuất khẩu mà với bất kỳ hoạt động
kinh doanh nào trước khi bước vào nghiên cứu thực hiện các khâu nghiệp
vụ người kinh doanh phải nắm bắt được các thông tin về thị trường.
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu là vấn đề đầu tiên cần thiết được tiến
hành hết sức kỹ lưỡng trong hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường
tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động
của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi cung cầu và giá cả
trên thị trường giúp họ giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh
doanh như yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh
của hàng hoá... từ đó mà lựa chọn thị trường xuất khẩu thích hợp nhất
cho sản phẩm của mình.
1.1: Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng đó là quá trình điều tra để tìm
triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể
cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là
quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích
những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà
quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh. Công
tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong phương châm hành
động “ chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái có sẵn”.
Có hai loại thông tin cần thu thập trong nghiên cứu thị trường:
- Thông tin sơ cấp (primary information): là những thông tin thu thập
mang tính chất trực tiếp từ thị trường đó.
14
Đối với loại thông tin này người ta thường áp dụng phương pháp
nghiên cứu tại thị trường (Field study): đây là việc thu thập thông tin chủ
yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên thị trường. Nói cách khác, đó là
cách thu thập thông tin từ trực quan, qua các quan hệ giao tiếp với thương
nhân và với người tiêu dùng. Biện pháp cụ thể: điều tra, phỏng vấn, quan
sát, thực nghiệm.
Như vậy, xét về tính phức tạp và mức độ chi phí, nghiên cứu tại thị
trường là một hoạt động tốn kém và không phải ai cũng đủ trình độ để làm
được. Tuy vậy, phương pháp nghiên cứu này cho kết quả khá chính xác.
Vì vậy, trước hết cần sơ bộ xử lý các thông tin về các thị trường đã đề cập,
chọn ra những thị trường có nhiều triển vọng nhất. Sau đó căn cứ vào kết
quả lựa chọn để tiến hành nghiên cứu hiện trường và lập kế hoạch khảo
sát.
+ Thông tin thứ cấp (Secondary information):
Đối với loại thông tin này người ta sử dụng phương pháp nghiên cứu tại
bàn (Desk study). Về cơ bản nghiên cứu tại bàn bao gồm việc thu thập
thông tin từ các nguồn tư liệu xuất bản hay không xuất bản và tìm những
nguồn đó. Chìa khoá thành công của nghiên cứu tại bàn là phát hiện ra các
nguồn thông tin và triệt để khai thác những nguồn thông tin đó. Ngày nay,
trong thời đại tin học, thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả... rất phong
phú. Có thể lấy được thông tin từ các nguồn như: qua hệ thống Internet,
qua các cơ quan xúc tiến thương mại, các cơ quan thống kê, qua các sách
báo thương mại được xuất bản, qua quan hệ với thương nhân... Trong đó,
số liệu thông kê là một trong những loại thông tin quan trọng nhất, được
sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu tại
bàn. Đó là những số liệu thống kê về sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu, dự trữ
tồn kho, giá cả... Nó giúp cho người nghiên cứu có một cái nhìn bao quát
về dung lượng thị trường và xu hướng phát triển.
Nghiên cứu tại bàn, có thể nói là phương pháp phổ thông nhất về
nghiên cứu thị trường, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của
những người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên,
nó cũng có những hạn chế như chậm và mức độ tin cậy có hạn. Kết quả
nghiên cứu tại bàn cũng cần phải bổ sung bằng nghiên cứu tại thị trường.
Nội dung thông tin cần thu thập khi nghiên cứu thị trường: nghiên cứu
tình hình cung cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá và một số
yếu tố khác.
Nghiên cứu tình hình cung- cầu hàng hoá:
Nghiên cứu tình hình cung cầu hàng hoá cần nắm được các vấn đề
sau:
- Số lượng các doanh nghiệp cung ứng mặt hàng đó trên thị trường và
khả năng cung ứng của từng doanh nghiệp đó.
- Nghiên cứu chu kỳ đưa hàng ra thị trường của từng doanh nghiệp cung
ứng đó.
15
- Sảnphẩm của hãng đang ở giai đoạn nào trên thị trường (mặt hàng đang
ở pha nào của chu kỳ sống)
Về mặt tiêu thụ nhà kinh doanh phải biết mặt hàng định xuất khẩu đang ở
giai đoạn nào của chu kỳ sống của nó trên thị trường. Chu kỳ này là tiến
trình phát triển việc tiêu thụ một mặt hàng bao gồm 4 giai đoạn (gđ) sau
đây:
Giai đoạn triển khai: đây là giai đoạn đầu tiên trong chu kỳ sống của
sản phẩm. Trong giai đoạn này về cơ bản chưa có sản phẩm cạnh tranh,
sản phẩm của doanh nghiệp chưa được người tiêu dùng biết đến, doanh
nghiệp cần nỗ lực làm cho khách hàng biết đến sản phẩm của mình.
Giai đoạn tăng trưởng: đây là giai đoạn phát triển của sản phẩm,
trong giai đoạn này sản phẩm được người tiêu dùng biết đến và được thị
trường chấp nhận, cần đẩy nhanh quá trình đưa sản phẩm có tính độc đáo
của mình vào thị trường, qua đó tạo được môi trường tốt, tăng phạm vi
lựa chọn sản phẩm.
Giai đoạn bão hoà: trong giai đoạn này doanh thu tiêu thụ vẫn tăng
nhưng tăng chậm và có xu hướng giảm. Giai đoạn này có sự cạnh tranh
kịch liệt giữa các đối thủ vào thị trường và một hình ảnh mà doanh nghiệp
cần thấy rõ là sự tràn ngập hàng hoá trên thị trường.
Giai đoạn suy thoái: đây là giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ sống
của sản phẩm. Trong giai đoạn này thị trường đã bão hoà về sản phẩm,
doanh số bán ra của sản phẩm giảm đi rất nhiều. Để tránh khả năng bị loại
khỏi thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải có những biện pháp cải tiến, đổi
mới mẫu mã kỹ thuật, hoặc thay thế bằng sản phẩm mới.
Từ sự phân tích như trên ta nhận thấy, việc xuất khẩu những mặt
hàng đang ở giai đoạn triển khai và tăng trưởng gặp thuận lợi lớn nhất.
Tuy vậy, có khi mặt hàng đã ở giai đoạn suy thoái nhưng nhờ thực hiện
các biện pháp xúc tiến tiêu thụ (như quảng cáo, cải tiến hệ thống tổ chức
tiêu thụ, giảm giá...) người ta vẫn có thể đẩy mạnh được xuất khẩu.
Tóm lại, có nắm vững mặt hàng ta đang dự định kinh doanh đang ở
giai đoạn nào của chu kỳ sống thì mới có thể xác định những biện pháp
cần thiết để làm tăng doanh số bán hàng và tăng lợi nhuận.
Cấu trúc của cung, nghĩa là xác định tình hình cạnh tranh trên thị
trường. Nếu sự cạnh tranh đã gay gắt, điều đó không có nghĩa là doanh
nghiệp phải rút lui, nó có thể giữ vị trí thế thủ chờ đợi giai đoạn chuyển
sang tấn công
Nghiên cứu những sản phẩm khác cùng đáp ứng nhu cầu còn phải
xác định xem sự cạnh tranh ấy tồn tại được bằng cách nào, tỷ lệ hoa hồng
thường được chấp nhận là bao nhiêu, hậu quả của cạnh tranh như thế nào,
nó sẽ diễn biến ra sao... và khả năng phản ứng của nó trước một đối thủ
mới.
Phân tích tình hình cầu:
16
Từ những thông tin về hàng hoá đang bán cần xác định xem những
sản phẩm nào có thể thương mại hoá được. Người tiêu dùng hiện nay là
những ai, họ được phân nhóm như thế nào, nhóm xã hội, nghề nghiệp,
tuổi, dân tộc, tôn giáo, nam nữ, cách sống...
. Thống kê số lượng khách hàng có nhu cầu mua hàng hoá.
. Sức mua trung bình của một doanh nghiệp, một khách hàng.
. Nhịp độ mua hàng của họ (chu kỳ mua lặp lại).
. Sản phẩm của hãng đang ở thế hệ nào.
. Lý do mua hàng của khách hàng là gì?
. Ai có khả năng trở thành người tiêu dùng? Cần xác định sự tăng
dân số, nhất là sự tăng của bộ phận xác định và tiến hành phân tích sự tăng
mức sống. Nếu không có yêu cầu mua vào thời điểm phân tích thì phải xác
định xem có yêu cầu không và khi nào.
Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời là một
nhân tố cấu thành thị trường. Do việc mua bán giữa các khu vực khác
nhau diễn ra trong một thời gian dài, hàng vận chuyển qua nhiều nước với
các chính sách thuế quan khác nhau, giá cả thị trường lại càng trở lên
phức tạp, trong đó giá cả hàng hoá được coi là giá tổng hợp bao gồm giá
vốn hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí
khác tùy theo các bước thực hiện và sự thoả thuận giữa các bên tham gia.
Nghiên cứu giá cả bao gồm việc nghiên cứu giá cả của từng mặt hàng tại
từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động của giá cả thị trường
và các nhân tố ảnh hưởng đến nó như: nhân tố chu kỳ, nhân tố lũng loạn
của các công ty siêu quốc gia, nhân tố cạnh tranh, nhân tố cung cầu, nhân
tố lạm phát, nhân tố thời vụ và một số nhân tố khác như: chính sách của
chình phủ, tình hình an ninh chính trị của các quốc gial... Từ đó mới có
thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả quốc tế của hàng hoá.
Rõ ràng việc nghiên cứu và tính toánh một cách chính xác giá cả của các
hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là một công việc khó khăn đòi hỏi
phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, nhưng đó lại là một nhân tố quan
trọng quyết định hiệu quả thực hiện các hợp đồng kinh doanh TMQT.
Nghiên cứu các loại hình kinh doanh khác trên thị trường như điều kiện
vận tải, tốc độ, phương tiện vận tải như thế nào, chi phí vận tải ra sao,
bảo hiểm, vận chuyển...
Nghiên cứu một số yếu tố khác liên quan đến hoạt động kinh doanh
trên thị trường như: quan hệ chính trị, văn hoá: làm việc với ai phải
hiểu văn hoá của người đó, đồng thời có cái nhìn khách quan về nền
văn háo của họ, không thể so bì với văn hoá của ta mà cho rằng nền văn
hoá của họ không tốt, kinh doanh TMQT cần luôn hiểu “ không có một
nền văn hoá nào là tốt hay xấu mà chỉ có sự khác biệt”. Nghiên cứu
chính sách, thể chế của quốc gia khác đặc biệt là yếu tố về luật, thể chế
17
tài chính. Nghiên cứu yếu tố tự nhiên của từng đoạn thị trường: vị trí
địa lý, khí hậu...
1.2: Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thị trường xuất khẩu giúp đơn vị
kinh doanh lựa chọn thị trường, việc lựa chọn thị trường phải căn cứ vào
những tiêu chuẩn mà các thị trường phải đáp ứng được:
Tiêu chuẩn chung:
- Về chính trị: có những chính thể này thuận lợi hơn những chính thể
khác đối với hoạt động xuất khẩu, nghiên cứu cả những bất chắc chính
trị và sự ổn định của chính thể.
- Về địa lý: khoảng cách địa lý, khí hậu, tháp dân số...
- Về kinh tế: những chỉ tiêu về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP
bình quân đầu người, tỷ lệ tăng GDP...
- Về kỹ thuật: những khu vực phát triển và triển vọng phát triển.
Tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ:
- Biện pháp bảo hộ mậu dịch: thuế quan, các giấy phép và hạn ngạch...
- Tình hình tiền tệ: tỷ lệ lạm phát, sự diễn biến của tỷ giá hối đoái
Tiêu chuẩn về thương mại:
- Phần của sản xuất nội địa
- Sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam trên các thị trường
- Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường lựa chọn.
Những tiêu chuẩn này sau đó phải được cân nhắc, điều chỉnh tuỳ theo
mức quan trọng của chúng đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh còn
phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng những điều kiện như nhau việc
giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công, với khách hàng khác
thì bất lợi. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của đơn vị kinh doanh trong
lựa chọn thị trường là lựa chọn khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng
(hay lựa chọn thương nhân) để giao dịch không nên căn cứ vào những lời
quảng cáo, tự giới thiệu mà cần tìm hiểu khách hàng về:
- Tình hình sản xuất kinh doanh của họ, năng lực, phạm vi kinh doanh và
tư cách pháp nhân.
- Khả năng về vốn và cơ sỏ vật chất kỹ thuật.
- Năng lực con người và năng lực quản lý của họ
- Trình độ và quan điểm kinh doanh của thương nhân đó
- Uy tín của họ trong kinh doanh
Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn
những đối tác trực tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp
doanh nghiệp muốn thâm nhập vào các thị trường mới mà mình chưa có
kinh nghiệm.
18
Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều
kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng TMQT, song nó phụ
thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người làm công tác giao dịch.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong TMQT nói chung và
trong kinh doanh xuất khẩu nói riêng là hết sức cần thiết trong hoạt động
kinh doanh. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến
hành các hoạt động kinh doanh TMQT một cách có hiệu quả nhất.
2. Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu.
Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu
tiếp cận thị trườn, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương
án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu
xác định trong kinh doanh.
Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau:
- Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân: trong bước này, người
lập phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích thuận
lợi và khó khăn trong kinh doanh.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự
lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình
hình có liên quan.
- Đề ra mục tiêu. Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh
bao giờ cũng là mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng với
giá cả bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào những thị trường nào...
- Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này có thể bao gồm nhiều
biện pháp trong nước (như đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp
đồng kinh tế, tăng giá thu mua...) và cả các biện pháp ở ngoài nước
(như đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng
lưới đại lý...)
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua một số
chỉ tiêu chủ yếu: chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ, chỉ tiêu thời gian hoàn vốn,
chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi, chỉ tiêu điểm hoà vốn.
Sau khi phương án đã được đề ra, đơn vị kinh doanh phải cố gắng để thực
hiện phương án, tức là tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với khách hàng
đã chọn. Nhưng để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau người xuất
khẩu và nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao dịch, thương thảo
về các điều kiện giao dịch. Quá trình đó có thể bao gồm những bước chính
như: hỏi hàng, chào hàng, đặt hàng.
- Hỏi hàng: hỏi hàng còn gọi là hỏi giá, tuy không ràng buộc trách nhiệm
của người hỏi, nhưng nếu hỏi nhiều nơi, nhiều hãng quá có thể gây lên
hiểu lầm về nhu cầu của mình. Vả lại, hỏi nhiều sẽ kéo theo việc trả lời
và các công việc hành chính văn thư khác. Điều này cũng dễ gây nên
tốn thời gian và chi phí.
19
- Chào hàng: là lời đề nghị biểu thị muốn bán hàng do người bán đưa ra.
Trước khi chào hàng cần nắm được quan hệ cung cầu về hàng hoá đó
trên thế giới, mức giá hiện hành trên thị trường, nhu cầu của đối
phương và khả năng của ta. Trên cơ sở đó, ta xác định nên đưa ra đơn
chào hàng cố định hay đơn chào hàng tự do.
Chào hàng cố định: là lời đề nghị ký hợp đồng của người bán chỉ gửi
cho một đối tác, trong thời hạn có hiệu lực của chào hàng thì không được
gửi cho các đối tác khác. Nếu người nhận chào hàng cố định chấp nhận
mua coi như chào hàng được ký.
Chào hàng tự do:là lời đề nghị chào bán một mặt hàng nào đó được
gửi cho nhiều người và không ràng buộc về mặt pháp lý. Nếu người nhận
chào hàng tự do đồng ý mua nhưng người bán vẫn có thể không thực hiện
lời chào hàng đó.
Có khi, bên mua chưa hỏi mua, nhưng ta chủ động tìm hiểu thấy họ
có nhu cầu và ta đưa ra đơn chào hàng (chào hàng chủ động). Cũng có khi,
trên cơ sỏ hỏi hàng của bên mua, chúng ta chào hàng để đáp lại thư hỏi
hàng của đối phương (chào hàng thụ động).
Dù chào hàng theo cách nào, đơn chào hàng cũng cần rõ ràng và có
sức hấp dẫn. Sự hấp dẫn không chỉ thể hiện ở giá thấp, ở sự giảm giá, mà
có thể ở cả dịch vụ cung cấp cho người mua, phẩm chất hàng tốt, điều kiện
thanh toán có lợi cho người mua.
- Đặt hàng: đặt hàng là lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng,
xuất phát từ người mua. Do đó, người mua chỉ đặt hàng ở nhà cung cấp
nào mà đã biết rõ về chất lượng hàng, mức giá cả, khả năng giao hàng
của họ. Người bán cần nắm được điều này để đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của khách hàng tăng hiệu quả kinh doanh.
3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp
đồng ngoại thương: là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh
doanh ở các nươc khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (bên
bán) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho một bên khác gọi là bên
nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá, bên mua có
nghĩa vụ nhận tiền hàng và trả tiền hàng.
Về điều kiện hiệu lực của hợp đồng TMQT, theo điều 81 của Luật
Thương mại Việt Nam, hợp đồng mua bán quốc tế có hiệu lực khi có
đủ các điều kiện sau đây:
- Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp
lý.
- Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo quy định
của pháp luật.
- Hợp đồng mua bán quốc tế phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp
đã quy định.Theo điều 50 của Luật Thương mại Việt Nam, những điều
20
- Xem thêm -