Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Huy động vốn của các ngân hàng thương mại tại việt nam”...

Tài liệu Huy động vốn của các ngân hàng thương mại tại việt nam”

.PDF
29
79956
178

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, thị trường tài chính của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc mà cụ thể là hoạt động của các Ngân Hàng Thương Mại. Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO), tình hình kinh tế xã hội đã có nhiều đổi mới đáng kể, mọi ngành nghề và lĩnh vực đều vận động theo xu thế phát triển như một quy luật tất yếu. Để đáp ứng nhu cầu ấy, vấn đề vốn đang là đòi hỏi rất lớn đối với đất nước. Ngân sách nhà nước chỉ đủ để đáp ứng một phần nhỏ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện các mục tiêu xã hội khác, chính vì vậy lượng vốn chủ yếu phục vụ sản xuất kinh doanh là huy động từ các nguồn có thể. Đảng và Nhà nước ta xác định rất rõ ràng: “Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng”. Trong những năm vừa qua, các Ngân hàng thương mại đã ngày càng đa dạng hóa hình thức huy động vốn, nâng cao tính cạnh tranh để ngày càng đạt hiệu quả cao nhất. Qua thực tiễn hoạt động, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học bổ ích để nâng cao năng lực kinh doanh nhằm phục vụ công tác công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy em xin lựa chọn đề tài “Tăng cƣờng huy động vốn của các Ngân Hàng Thƣơng Mại tại Việt Nam” để tìm hiểu thêm về vấn đề này trong điều kiện kinh tế – xã hội đất nước thời kì đổi mới. Bố cục của đề án gồm 3 phần: CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHTM CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM Nguyễn Văn Đại 1 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHTM 1.1 Tổng quan về NHTM 1.1.1. Khái niệm NHTM Có thể nói lịch sử hình thành phát triển của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Đó là hai quá trình có tác động tương hỗ lẫn nhau, không thể tách rời. Nghề ngân hàng được khởi đầu với các thợ đúc tiền vàng và nghiệp vụ đổi tiền. Ban đầu những người buôn tiền đã dùng vốn tự có để cho vay, tuy vậy quá trình này không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, họ nhận ra rằng thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền lại không rút tiền trong cùng một lúc, nên đã tạo ra số tiền thừa thường xuyên ở trong két. Do tiền có tính chất vô danh, người buôn tiền có thể sử dụng số tiền mà khách gửi để sử dụng vào mục đích cho vay trong thời gian nhất định. Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của khách tạo nên lợi nhuận rất lớn vì vậy các ngân hàng tìm đủ mọi cách mở rộng thu hút tiền gửi bằng cách tiến hành trả lãi cho người gửi tiền. Cứ như vậy, qua thời gian ngân hàng đã trở thành các tổ chức chuyên cung cấp dịch vụ tài chính thông qua đó kiếm tìm lợi nhuận. Điều 1 và điều 20 Luật tín dụng Việt Nam quy định rõ: “NHTM là tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán”. Từ định nghĩa trên, có thể thấy NHTM là tổ chức tài chính với các hoạt động cơ bản là nhận tiền gửi và dùng tiền gửi để cho vay. NHTM có một số chức năng chủ yếu như sau: - Làm trung gian tín dụng Nguyễn Văn Đại 2 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, bao gồm tiền của các nguồn có thể huy động được như các hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước. Mặt khác, NHTM dùng chính số tiền huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội có nhu cầu sử dụng vốn. Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là một trung gian tài chính đóng vai trò chủ đạo để điều chuyển vốn từ người thừa vốn sang đến người thiếu vốn. Sự điều tiết này có ý nghĩa rất tích cực, thể hiện tầm quan trọng của NHTM trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức sống của dân cư, ổn định tình hình ngân sách của Chính phủ, góp phần rất lớn trong việc điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế lạm phát gia tăng. - Làm trung gian thanh toán Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội được thực hiện bên ngoài ngân hàng thì chi phí để thực hiện chúng sẽ rất lớn, bao gồm: chi phí in tiền, chi phí bảo quản, chi phí vận chuyển… Với sự ra đời của NHTM, phần lớn các khoản chi trả về hàng hóa và dịch vụ của xã hội đều được thực hiện qua ngân hàng với những hình thức thanh toán thích hợp, thủ tục đơn giản và kỹ thuật ngày càng tiên tiến. Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào ngân hàng, nên việc giao lưu hàng hóa, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm hơn. - Tạo tiền cho nền kinh tế Sự ra đời của các ngân hàng đã tạo ra một bước phát triển về chất trong kinh doanh tiền tệ. Nếu như trước đây các tổ chức kinh doanh tiền tệ nhận tiền gửi và rồi cho vay cũng chính bằng các đồng tiền đó, thì nay các ngân hàng đã có thể cho vay bằng tiền giấy của mình, thay thế tiền bạc và vàng do khách hàng gửi vào ngân hàng. Nguyễn Văn Đại 3 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Hơn nữa, khi đã hoạt động trong một hệ thống ngân hàng, NHTM có khả năng “tạo tiền” bằng cách chuyển khoản hay bút tệ để thay thế cho tiền mặt. Điều này đã đưa NHTM lên vị trí là nguồn tạo tiền. Quá trình tạo tiền của hệ thống NHTM dựa trên cơ sở tiền gửi của xã hội, số tiền gửi được nhân lên gấp bội khi ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản giữa các ngân hàng. 1.1.2. Vai trò của NHTM NHTM có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Điều đó được thể hiện thông qua một số điểm sau đây. - Trước hết, NHTM cung ứng vốn cho nền kinh tế quốc dân. Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế. Chính vì vậy, vốn được coi như nguồn sống không thể thay thế cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Khi thiếu vốn, doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc không thể kịp thời thực hiện quá trình tái sản xuất. NHTM chính là người đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế... Thông qua hình thức cấp tín dụng, ngân hàng đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh cao hơn. Cạnh tranh càng mạnh mẽ, kinh tế càng phát triển. Như vậy với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Nguyễn Văn Đại 4 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 - NHTM có vai trò tăng cường sự luân chuyển về vốn Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chụi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế. Để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ cấu kinh tế, chế độ hạch toán kinh tế mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất, tìm tòi và sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khả năng vượt quá lượng vốn mà doang nghiệp đang sở hữu. Do đó để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp đến ngân hàng để xin vay vốn phục vụ cho nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho doanh nghiệp, ngân hàng đóng vai trò là cầu nối doanh nghiệp với thị trường. - NHTM còn là công cụ thi hành chính sách tiền tệ của Nhà nước Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua con đường tín dụng. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ tăng tỉ lệ vào dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiền trong lưu thông. Các Ngân hàng thương mại sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Từ đó ngân hàng xác định được hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát. 1.1.3. Một số hoạt động cơ bản của NHTM 1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn  Nghiệp vụ tiền gửi: Nguyễn Văn Đại 5 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản. Ngoài ra, NHTM cũng có thể huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào ngân hàng. Mục đích chủ yếu của việc gửi tiền loại này là để bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi.  Nghiệp vụ đi vay: Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay ngân hàng Nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu, vay có đảm bảo... Trong đó các khoản vay từ ngân hàng Nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự cân đối trong việc quản lý vốn của bản thân NHTM, đặc biệt trong các trường hợp NHTM không tự cân đối được nguồn vốn. 1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Một số nghiệp vụ cơ bản mà NHTM có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình có thể kể đến như:  Nghiệp vụ cho vay: Đây có thể nói là nghiệp vụ quan trọng bậc nhất trong hoạt động quản lý tài sản có của NHTM. Thông thường thì nghiệp vụ này đóng góp phần lớn lợi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Thông qua nghiệp vụ này mà ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng ngắn, trung và dài hạn cho các thành phần trong nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.  Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Nguyễn Văn Đại 6 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình thức như: hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường... và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó. 1.1.3.3. Hoạt động khác Ngoài các nghiệp vụ chủ yếu được nêu trên, trong hoạt động kinh doanh, các NHTM còn tiến hành các một số dịch vụ khác trên thị trường như: kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và đá quý, thực hiện dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý trong hoạt động cung ứng chứng khoán ra thị trường cùng với hàng loạt những dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng như: dịch vụ bảo quản giấy tờ có giá, dịch vụ cho thuê két sắt, dịch vụ cầm cố... Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá đặc biệt là trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động thu - chi hộ, chuyển tiền qua ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển. Các ngân hàng đã không ngừng áp dụng những tiến bộ, thành tựu khoa học công nghệ, kết hợp với uy tín kinh doanh của ngân hàng làm cho nghiệp vụ này ngày càng được thay đổi về chất. 1.2. Huy động vốn tại NHTM 1.2.1. Khái niệm vốn Vốn của các NHTM là toàn bộ các giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động và tạo lập để đầu tư cho vay và đá ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thực chất nguồn vốn của các NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà khách hàng gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Nói cách khác khách hàng chuyển quyền sử dụng tiền tệ cho ngân hàng và Ngân hàng trả cho khách hàng một khoản lãi. Nguyễn Văn Đại 7 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối vốn làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Có nhiều loại vốn như vốn chủ sở hữu, vốn đi vay, hay vốn huy động.  Vốn chủ sở hữu: về mặt kinh tế, đó là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Vốn chủ sở hữu còn được gọi là “ vốn riêng”. Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng 1998, vốn chủ sở hữu bao gồm phần giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác của tổ chức tín dụng theo quy định của ngân hàng nhà nước (NHNN).  Vốn huy động: NHTM huy động vốn thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay vốn ngắn hạn của NHNN.  Vốn đi vay: vay từ các NHTM khác, hoặc vay từ NHTW để đảm bảo khả năng thanh khoản cho các ngân hàng. 1.2.2. Vai trò của vốn - Vốn là xuất phát điểm mọi hoạt động trong NHTM Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh doanh cũng cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với NHTM vốn là đói tượng kinh doanh chủ yếu, vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu vốn NHTM không thể thực hiện các hoạt động kinh doanh, do đó những ngân hàng có vốn lớn sẽ có thế mạnh trong kinh doanh. Vì vậy vốn là điểm xuất phát đầu tiên trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Nguyễn Văn Đại 8 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 - Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác Ngoài vai trò là cơ sở để ngân hàng tổ chức các hoạt động kinh doanh, vốn còn quyết định đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và các hoạt động khác của NHTM. Vốn tự có của ngân hàng ngoài việc sử dùng để mua sắm TSCĐ, trang thiết bị, góp vốn liên doanh...Vốn tự có của ngân hàng là căn cứ để giới hạn các hoạt động kinh doanh tiền tệ bao gồm cả hoạt động tín dụng. Việc quy định tỷ lệ cho vay, tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có của NHTW thể hiện vai trò quản lý, điều tiết thị trường của nhà nước, để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. - Vốn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của NHTM Một NHTM có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến gửi tiền và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng đó khi ngân hàng đó có uy tín trên thị trường. Uy tín của ngân hàng trước hết thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng khi họ yêu cầu. Khả năng thanh toán của ngân hàng thông thường tỷ lệ thuận với khối lượng vốn mà ngân hàng đó có. Nếu có lớn vốn năng lực thanh toán của ngân hàng được nâng cao, do đó uy tín của ngân hàng được nâng cao từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng và nâng cao được vị thế của ngân hàng trên thị trường. 1.2.3. Các hình thức huy động vốn 1.2.3.1. Vốn chủ sở hữu Vốn tự có là giá trị thực có của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác của ngân hàng theo quy định của NHNN. Vốn tự có chiếm tỷ trọng rất nhỏ nhưng có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của NHTM. Vốn tự có gồm: Nguyễn Văn Đại 9 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 - Vốn điều lệ : là số vốn do pháp luật quy định khi ngân hàng mới thành lập và đi vào hoạt động. - Quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ :được trích lập hàng năm theo tỷ lệ 5% lợi nhuận sau thuế và không được vượt quá vốn điều lệ. - Quỹ dự phòng tài chính: được trích lập hàng năm theo tỷ lệ 10% lợi nhuận sau thuế nhương không được vượt quá 25% vốn điều lệ. - Tài sản nợ khác: + Lợi nhuận chưa phân phối + Thu nhập lớn hơn chi pní + Hao mòn TSCĐ..... 1.2.3.2. Tiền gửi không kì hạn  Tiền gửi không kỳ hạn của doanh nghiệp: là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhưng khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào, chủ yếu phục vụ mục đích thanh toán và ngân hàng phải luôn đảm bảo yêu cầu này. Mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng là an toàn và hưởng các dịch vụ ngân hàng, tạo mối quan hệ với ngân hàng. Tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế trong tổng nguồn vốn của ngân hàng cao và nguồn vốn này có tính ổn định tương đối cao vì bao giờ các tổ chức kinh tế cũng duy trì ít nhất ở một số dư nhất định. Đối với nguồn vốn này ngân hàng chỉ phải trả lãi thấp nhưng chi phí phi lãi rất cao. Đó là chi phí mua và vận hành ATM, chi phí phục vụ...  Tiền gửi không kỳ hạn của hộ gia đình: khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích an toàn là chủ yếu và hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Đối với nguồn vốn này chi phí trả lãi ngân hàng bỏ ra không đáng kể nhưng chi phí trả lãi rất cao. Ở các nước phát triển thì tỷ trọng nguồn vốn này rất cao nhưng các nước đang phát triển thì tỷ trọng này lại rất thấp do người dân chưa có thói quen sử dụng Nguyễn Văn Đại 10 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 các dịch vụ của ngân hàng. Nguồn vốn từ tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân, hộ gia đình có tính ổn thấp do nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình không ổn định, khi cần khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào do đó ngân hàng phải chuẩn bị sẵn một khoản tiền để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. 1.2.3.3. Tiền gửi có kì hạn  Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp: là khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng mà có sự thoả thuận về thời hạn trong đó khách hàng không được rút trước hạn. Đây là nguồn vốn mà khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích sinh lời là chủ yếu và ngân hàng phải trả lãi cao hơn hơn tiền gửi không kỳ hạn. Đây là nguồn vốn có tính ổn định rất cao nhưng thường có thời hạn ngắn vì đây là những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nguồn vốn này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.  Tiền gửi có kỳ hạn của các hộ gia đình: khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích sinh lời là chủ yếu. Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và hộ gia đình chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn huy động và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng cho vay. Nguồn vốn này có tính ổn định cao nhất và ngân hàng phải trả lãi rất cao cho nguồn vốn này. 1.2.3.4. Vay từ các tổ chức tín dụng khác  Vay từ các NHTM khác: Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể vay TCTD khác thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Chi phí của nguồn vốn này thường cao và thời gian sử dụng thường ngắn. Các ngân hàng cho nhau vay dưới các hình thức: vay qua đêm, vay kỳ hạn, hợp đồng gia hạn.  Vay từ NH Trung ương: Nguyễn Văn Đại 11 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 NHTƯ cho NHTM vay dưới hình thức chiết khấu giáy tờ có giá. Mục đích cho vay của NHTƯ với NHTM là: thực thi chính sách tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng. Chi phí của nguồn vốn này cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTƯ: giả sử khi NHTƯ muốn tăng mức cung ứng tiền thì NHTƯ sẽ giảm mức lãi suất chiết khấu từ đó sẽ kích thích các NHTM vay NHTƯ nhiều hơn do đó tăng khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. 1.2.3.5. Phát hành các công cụ nợ Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua. Một giấy tờ có giá thường kèm theo các thuộc tính sau đây: - Mệnh giá: Là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ. - Thời hạn giấy tờ có giá: Là khoảng thời gian từ ngày tổ chức tín dụng phát hành đến hết ngày thanh toán có ghi trong giấy tờ có giá.. - Lãi suất được hưởng: Là suất áp dụng để tính lãi cho người mua giấy tờ có giá được hưởng. 1.2.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến huy động vốn 1.2.4.1. Nhân tố khách quan  Môi trường chính trị Nguyễn Văn Đại 12 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật và các cơ quan chức năng của chính phủ. Hoạt động ngân hàng được điều chỉnh rất chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật. Môi trường pháp lý đem lại cho ngân hàng hàng loạt các cơ hội và thách thức. Ví dụ như việc dỡ bỏ các hạn chế về huy động vốn tièn gửi nội tệ sẽ mở đường cho các ngân hàng nước ngoài phát triển các sản phẩm để huy động tiền gửi nội tệ và các sản phẩm về cho vay nội tệ. Ngoài ra ngân hàng còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều bộ luật : luật dân sự, luật NHTƯ, các quy định của chính phủ... Do đó hoạt động huy động vốn của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật của nhà nước, chính sách của NHTƯ như: chính sách tiền tệ, lãi suất, tài chính, tín dụng... Sự thay đổi của những chính sách này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn và chất lượng nguồn của NHTM.  Môi trường kinh tế – xã hội Môi trường kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến khả năng thu nhập, chi tiêu, thanh toán và nhu cầu về vốn và gửi tiền của dân cư và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động của ngân hàng . Sự thay đổi của các yếu tố: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thu nhập bình quân đầu người thay đổi, chính sách đầu tư, tiết kiệm của chính phủ... sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư và từ đó ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của NHTM. Ví dụ khi thu nhập bình quân đầu người tăng thì tiêu dùng và tiết kiệm tăng và người dân gửi tiền vào ngân hàng tăng và ngược lại.  Môi trường công nghệ Sự thay đổi về công nghệ có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế và xã hội. Hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động chụi sự tác động mạnh mẽ của Nguyễn Văn Đại 13 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 công nghệ, hoạt động ngân hàng là hoạt động không thể tách rời khỏi sự phát triển của công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin. Công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của ngân hàng, nó mang lại cho ngân hàng nhiều cơ hội nhưng cũng mang lại hàng loạt những thách thức mới. Công nghệ mới cho phép ngân hàng đổi mới quy trình nghiệp vụ, cách thức phân phối sản phẩm, phát triển các sản phẩm mới... nhờ có công nghệ mà hoạt động huy động vốn được cải tiến, phất triển, rút ngắn thời gian giao dịch và thực hiện nghiệp vụ chính xác. 1.2.4.2. Nhân tố chủ quan  Chính sách cạnh tranh lãi suất Chính sách lãi suất cạnh tranh bao gồm lãi suất cạnh tranh huy động và lãi suất cạnh tranh cho vay là một chính sách quan trọng của ngân hàng. Việc duy trì lãi suất cạnh tranh huy động là đặc biệt quan trọng khi lãi suất thị trường đang ở mức tương đối cao. Các NHTM không chỉ cạnh tranh giành vốn với nhau mà còn cạnh tranh với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành các công cụ khác nhau trên thị trường vốn. Đặc biệt trong thời kỳ khan hiếm tiền tệ, dù cho sự khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy những người tiết kiệm và đầu tư chuyển vốn từ công cụ mà họ đang có sang tiết kiệm và đầu tư hoặc từ một tổ chức tiết kiệm này sang tổ chức tiết kiệm khác.  Các hình thức huy động vốn Đây cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng đa dạng, phong phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau về nhu cầu và tâm lý của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng của các hình thức huy động càng cao thì càng dễ dàng Nguyễn Văn Đại 14 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của dân cư và họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gưỉ tiền phù hợp mà lại an toàn. Do vậy các NHTM thường cân nhắc rất kỹ trước khi đưa vào hình thức huy động mới.  Dịch vụ ngân hàng Một ngân hàng có dịch vụ tốt hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn các ngân hàng khác. Trong đièu kiện kinh tế thị trường các ngân hàng phải phấn đấu nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hoá các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tăng thu nhập của ngân hàng. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không có giới hạn do vậy đây chính là điểm mạnh để các ngân hàng vươn lên trong cạnh tranh.  Mạng lưới chi nhánh Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần với những trung tâm thương mại thì sẽ có thuận lợi khi thu hút vốn. Lẽ tự nhiên, khi dân chúng có tiền nhàn rỗi họ sẽ đến các chi nhánh ngân hàng gần nhà mình nhất để gửi, như thế vừa tiết kiệm thời gian đi lại vừa đảm bảo an toàn khi cho số tiền của họ. Ngày nay, các ngân hàng đều cố gắng mở thật nhiều chi nhánh để thu hút tiền gửi của người dân cũng như đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh khác.  Chính sách quảng cáo Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ như ngày nay khó có thể duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả nên chiến lược phục vụ và quảng cáo trở thành yếu tố vô cùng quan trọng để thu hút khách hàng . Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo là điều kiện để thu hút khách hàng, chiến lược quảng cáo phù hợp sẽ giúp ngân hàng có nhiều khách hàng mới. Do đó để có uy tín trên thị trường, ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, có chiến lược quảng cáo hợp lý. Nguyễn Văn Đại 15 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM 2.1. Lãi suất huy động Trong thời gian qua, chính sách kiềm chế lạm phát trọn gói của chính phủ đã tác động lên thị trường tài chính của Việt Nam. Giai đoạn 2008 - 2009, lãi suất huy động vốn và cho vay của các ngân hàng không ngừng thay đổi, thậm chí là từng ngày. Có một vấn đề đặt ra, đó là tâm lý của người gửi tiền không ổn định, sự thay đổi lãi suất đó kéo theo một hệ quả là lượng tiền mặt huy động của các ngân hàng tăng giảm thất thường. Ví dụ: Khi lãi suất huy động của ngân hàng A tăng lên thì lượng tiền cùng với số lượng người gửi tăng theo, và khi lãi suất huy động của ngân hàng B cao hơn thì một lượng lớn tiền mặt được rút khỏi ngân hàng A và được gửi sang ngân hàng B. Khách hàng đi gửi tiền thường không hiểu rõ các điều kiện ràng buộc của các ngân hàng nên khi rút tiền không đúng kỳ hạn đó phải hưởng mức lãi suất thấp không như kỳ vọng, dẫn đến tâm lý thiếu lòng tin vào các ngân hàng. Tuy tiền lãi mất đi đối với một khách hàng không đáng kể nhưng tính đến toàn hệ thống ngân hàng thì việc này dẫn đến thiệt hại không nhỏ. Trong năm 2009, ngân hàng TMCP phát triển nhà TPHCM trong một thời gian dài duy trì “đỉnh” lãi suất huy động VND ở mức 10,3%/năm, sau đó đã điều chỉnh giảm còn 9,99%/năm. Ngân hàng TMCP Sài Gòn chỉ sau một ngày công bố lãi suất 6 tháng của sản phẩm “Tiền gửi siêu lãi suất” là 10,05%/năm, đã phải điều chỉnh giảm lãi suất này xuống dưới 10%/năm. Tương tự, Ngân hàng TMCP Đông Nam SeABank điều chỉnh biểu lãi suất huy động đối với các loại tiền VND, USD và EUR. Nguyễn Văn Đại 16 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Có thể thấy rằng, hoạt động điểu chỉnh lãi suất huy động vốn tại các Ngân hàng thương mại hiện nay tập trung ở các kỳ hạn ngắn, còn các kỳ hạn dài đã bị thu hẹp. Ngoài việc tăng lãi suất, nhiều ngân hàng cũng sử dụng các công cụ huy động là kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trong đó lãi suất được đẩy lên đỉnh điểm ở các kỳ hạn ngắn. Từ thực trạng trên có thể rút ra nhận xét rằng, các Ngân hàng thường đưa ra mức lãi suất cao cùng với nhiều chương trình khuyến mại hấp dẫn. Thế nhưng kỳ hạn ứng với mức lãi suất đưa ra đó thường là một năm. Nếu chia bình quân tháng và với một lượng tiền gửi không nhiều thì chi phí cơ hội sẽ cao hơn thu nhập từ tiền lãi. Bên cạnh đó, khách hàng thường không xem trọng mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng gửi tiền - ngân hàng huy động, cho nên việc thay đổi đối tác trong giao dịch là điều tất yếu xảy ra. Đây cũng có thể xem như là một chi phí nữa mà khách hàng bỏ ra. Việc tạo dựng được mối quan hệ lâu dài của cả hai phía là một yếu tố mang đậm tính văn hoá kinh doanh, mà điều này cả hai phía đều chưa cho thấy sự xem trọng đúng mức. Qua thời gian biến động cho ta thấy rằng tính chuyên nghiệp cũng như văn hoá kinh doanh trong lĩnh vực Ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều yếu kém khi giao dịch không được đặt trên nền tảng lòng tin mà là lợi ích trước mắt. Chính vì sự mong manh đó nên lượng vốn trong dân còn rất lớn nhưng với mức lãi suất huy động cao như hiện nay vẫn không thu hút đáng kể. Và khi khối lượng lớn vốn ấy không được huy động thì chúng ta lại tăng chi phí cơ hội của mình một lần nữa. Sang năm 2010 chủ trương hỗ trợ lãi suất chỉ còn duy trì đối với các khoản vốn vay trung, dài hạn. Trong khi đó, vốn huy động về của ngân hàng hiện chủ yếu tập trung ở kỳ hạn ngắn ngày dưới 6 tháng . Điều đó sẽ gây ra khó khăn rất lớn trong công tác huy động vốn của Ngân hàng. Nguyễn Văn Đại 17 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 2.2. Quản lý thanh khoản Thực tế cho thấy hoạt động thanh khoản của các NHTM thời gian qua còn nhiều vấn đề, gây ảnh hưởng đến công tác huy động vốn. Cơ cấu nguồn vốn trong hệ thống Ngân hàng hiện nay có tới 80% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn dưới 1 năm, chỉ có 20% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn trên 1 năm trong đó kỳ hạn trên 2 năm chưa tới 10%). Hệ thống ngân hàng Việt Nam chịu tác động hạn chế của cuộc khủng hoảng tín dụng một phần là nhờ thanh khoản dồi dào. Tuy nhiên, tỷ lệ cho vay/tiền gửi LDR đang tăng lên. Theo Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng trong tháng 6/2009 là 17% so với cuối năm 2008, cao hơn so với 16% của tỷ lệ tăng trưởng tiền gửi. Các ngân hàng liên doanh nói chung có nền tảng thanh khoản tốt hơn các NHTM quốc doanh. Tiềm năng thu hút vốn trong nước của các ngân hàng rất lớn. Mặc dù vậy, triển vọng này bị cản trở do tâm lý cố hữu của người dân từ trước đến nay thiếu tin tưởng vào hệ thống Ngân hàng, cộng thêm thói quen của nền vẫn sử dụng nhiều tiền mặt, nơi phần lớn người dân vẫn không giữ tiền tiết kiệm trong ngân hàng. Ngoài ra, sự lên giá gần đây của thị trường bất động sản và chứng khoán càng khiến các ngân hàng phải cạnh tranh nhiều hơn để thu hút vốn nhà rỗi trong dân. Một tín hiệu tích cực đó là việc tiền gửi vẫn giữ vai trò quan trọng, là nguồn đầu vào chủ yếu cho các ngân hàng, chiếm 70-75% tổng vốn tín dụng. 2.3. Vốn điều lệ Các ngân hàng Việt Nam vẫn chưa có tiềm năng vốn tương xứng và nói chung vẫn có vốn thấp so với tiêu chuẩn của thế giới. Vì vậy, nhiều NHTM quốc doanh sắp được cổ phần hoá sẽ đòi hỏi sự đầu tư vốn từ phía chính phủ hoặc các nhà đầu tư chiến lược để hỗ trợ tăng trưởng vốn. Nguyễn Văn Đại 18 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Vốn điều lệ của các NHTM vẫn còn thấp, theo hướng dẫn về vốn pháp định và các tiêu chuẩn quốc tế Basel, các ngân hàng của Việt Nam cần duy trì một hệ số vốn tối thiểu CAR là 8%. Đến cuối năm 2010, các ngân hàng Việt Nam sẽ buộc phải đăng ký vốn tối thiểu là 3.000 tỷ đồng. Tuy nhiên tính đến tháng 3/2010, trong số 39 ngân hàng thương mại cổ phần, nếu xét theo quy mô vốn điều lệ thì có 21/39 ngân hàng thương mại cổ phần dưới 2.000 tỷ đồng; 30/39 dưới 3.000 tỷ đồng và chỉ 9/39 có vốn trên 3.000 tỷ đồng. Đứng đầu trong danh sách các NHTM trên 3.000 tỷ đồng là Vietcombank với 12.100 tỷ đồng (650 triệu USD nhưng có thể bị VietinBank “qua mặt” vì vốn điều lệ của ngân hàng này đang là 11.252 tỷ đồng và dự kiến hết 2010, VietinBank sẽ phát hành thêm để nâng vốn điều lệ lên mức 18.731 tỷ đến 19.833 tỷ đồng. Tiếp theo là Eximbank (8.800 tỷ đồng), ACB (7.814 tỷ đồng), Sacombank (6.700 tỷ đồng), LienVietBank (3.300 tỷ đồng)... Vì thế các ngân hàng yếu, tiềm lực tài chính có hạn sẽ chịu nhiều sức ép, việc này có thể dẫn đến tình trạng sáp nhập trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Có một sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ CAR của các ngân hàng cổ phần và các ngân hàng NHTM quốc doanh, từ 7% đến 14%, trong đó tỷ lệ của NHTM quốc doanh thấp hơn. Mặc dù tổng vốn huy động của các ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn đáp ứng đủ, song khả năng phát triển và mở rộng thị phần của họ trong một môi trường ngân hàng phát triển nhanh chóng chủ yếu phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của họ. Hoạt động huy động vốn trong năm 2010 được xác định sẽ khó khăn hơn so với năm trước, chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra tiếp tục co hẹp khi trần lãi suất chưa được bãi bỏ. Đồng thời, nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh vàng, ngoại tệ… sẽ không còn đóng góp vào lợi nhuận, khi hoạt động sàn vàng phải đóng cửa. Nguyễn Văn Đại 19 Lớp TCDN VB2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Vì thế, kế hoạch lợi nhuận năm nay dù được hầu hết ngân hàng "co kéo" để không thua kém năm qua, nhưng để đạt được con số này không hề dễ dàng. 2.4. Các hoạt động tài chính khác Năm 2009, hoạt động kinh doanh ngoại hối chỉ mang về cho Eximbank (EIB) 134 tỷ đồng, giảm đến 78,8% so với con số 634 tỷ đồng năm 2008. Vì năm qua được xem là năm khó khăn đối với lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, nên cho dù EIB được biết đến là ngân hàng có thế mạnh về kinh doanh vàng và ngoại tệ vẫn gặp khó khăn. Đồng thời, trong quý IV/2009, EIB kinh doanh chứng khoán bị lỗ 43,5 tỷ đồng và lũy kế cả năm lỗ hơn 39,8 tỷ đồng. Như vậy, lợi nhuận sau thuế quý IV của Ngân hàng chỉ đạt 162 tỷ đồng, dù lũy kế cả năm EIB lãi 1.144 tỷ đồng, tăng 60,9% so với cùng kỳ. Trong báo cáo tài chính của Vietcombank VCB năm 2009, con số lợi nhuận trước thuế năm 2009 đạt trên 5.688 tỷ đồng, tăng 342,76% so với cùng kỳ năm 2008 là rất ấn tượng bởi trước đó, chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế đưa ra đầu năm qua của VCB chỉ ở mức khiêm tốn 3.400 tỷ đồng. Đó là do trong năm qua tỷ lệ nợ xấu của VCB được xử lý ở mức thấp, dưới 3%. Điều này dẫn đến dự phòng rủi ro giảm xuống rất nhiều, đồng thời được hoàn nhập một phần dự phòng của năm trước đó. Cụ thể, theo báo cáo tài chính của VCB, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong quý cuối cùng của năm 2009 đạt trên 1.644 tỷ đồng, hoàn nhập dự phòng rủi ro tín dụng là hơn 249 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm 2008, VCB phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng lên đến 2.050 tỷ đồng. Tại Sacombank (STB), lợi nhuận trước thuế quý IV/2009 đạt 614,9 tỷ đồng, tăng 17,5%; lợi nhuận sau thuế đạt 486,5 tỷ đồng, tăng 14% so với quý trước đó. Lũy kế cả năm, tổng thu của STB đạt 9.145,8 tỷ đồng; tổng chi là 6.995,3 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 2.150,4 tỷ đồng. So với chỉ tiêu kế hoạch năm Nguyễn Văn Đại 20 Lớp TCDN VB2
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan