BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
PHẠM THỊ PHƢỢNG
ĐỖ LAI THÚY VÀ PHÊ BÌNH THƠ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
PHẠM THỊ PHƢỢNG
ĐỖ LAI THÚY VÀ PHÊ BÌNH THƠ
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trƣơng Đăng Dung
HÀ NỘI, 2018
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu cũng nhƣ hoàn thành luận văn, tác giả
luận văn xin đƣợc chân thành cảm ơn BGH trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, khoa đào
tạo sau đại học trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, cùng các thầy, cô giáo, cán bộ giảng
viên đã giảng dạy, giúp đỡ và hƣớng dẫn tận tình cho tác giả.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ và ủng hộ của Ban giám hiệu và cán bộ giáo viên của
trƣờng THPT Đồng Đậu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đặc biệt, tác giả luận văn xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Trƣơng
Đăng Dung - ngƣời thầy đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá
trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Dù đã hết sức cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, song chắc chắn luận văn
không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận đƣợc sự chia sẻ và
những ý kiến đóng góp quý báu từ các thầy cô giáo và các bạn đọc để luận văn đƣợc hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn
Hà Nội, tháng 09 năm 2018
Tác giả luận văn
Phạm Thị Phƣợng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là: Phạm Thị Phƣợng- học viên lớp cao học khóa 20, chuyên ngành Lí luận
văn học, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan, những gì mà tôi trình bày trong luận văn là do sự tìm hiểu và
nghiên cứu của bản thân trong suốt quá trình học tập và công tác. Mọi kết quả nghiên cứu
cũng nhƣ ý tƣởng của các tác giả khác nếu có đều đƣợc trích dẫn nguồn gốc cụ thể.
Luận văn này cho đến nay chƣa đƣợc bảo vệ tại bất kỳ một hội đồng bảo vệ luận
văn thạc sĩ nào và chƣa đƣợc công bố trên bất kỳ một phƣơng tiện thông tin nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì mà tôi đã cam đoan ở trên.
Hà Nội, tháng 09 năm 2018
Tác giả luận văn
Phạm Thị Phƣợng
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................ 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 3
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................................... 4
5. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................... 5
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................................... 7
7. Cấu trúc của luận văn.........................................................................................................7
NỘI DUNG ............................................................................................................................ 8
CHƢƠNG 1. PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1986 VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA
ĐỖ LAI THÚY ...................................................................................................................... 8
1.1. Khái lƣợc về phê bình văn học sau 1986 ........................................................................ 8
1.2. Sự xuất hiện của Đỗ Lai Thúy. ..................................................................................... 22
Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................................ 26
CHƢƠNG 2. NGƢỜI THƠ TRONG MẮT THƠ ............................................................... 27
2.1. Thơ mới và cái Tôi nhìn từ “Mắt thơ” .......................................................................... 27
2.1.1. Khái quát về Thơ mới và sự xuất hiện của cái Tôi .................................................... 27
2.1.2. Thế Lữ- ngƣời bộ hành phiêu lãng ............................................................................ 37
2.1.3. Xuân Diệu- nỗi ám ảnh thời gian ............................................................................... 40
2.1.4. Huy Cận- sự khắc khoải không gian .......................................................................... 49
2.1.5. Nguyễn Bính- đƣờng về chân quê ............................................................................. 53
2.1.6. Vũ Hoàng Chƣơng- đào nguyên lạc lối ..................................................................... 55
2.1.7. Đinh Hùng- ngƣời kiến trúc chiêm bao ..................................................................... 59
2.1.8. Bích Khê- sự thức nhận ngôn từ ................................................................................ 61
2.1.9. Hàn Mặc Tử- một tƣ duy thơ độc đáo” ...................................................................... 65
2.1.10. Xuân Thu Nhã Tập- khúc hát thiên nga ................................................................... 68
2.2. Hành trình nghệ thuật của Thơ mới nhìn từ “Mắt thơ” ................................................ 72
2.2.1. Thơ mới nhìn từ hành trình không gian nghệ thuật ................................................... 73
2.2.2. Thơ mới nhìn từ hành trình thời gian nghệ thuật ....................................................... 76
2.2.3. Quan niệm về con ngƣời ............................................................................................ 78
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................... 81
CHƢƠNG 3. THƠ NHƢ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC ................................................ 82
3.1. Khái lƣợc về hệ hình tƣ duy lý thuyết và Thơ nhƣ là mỹ học của cái khác ................. 82
3.1.1. Khái lƣợc về hệ hình tƣ duy lý thuyết. ...................................................................... 82
3.1.2. Khái lƣợc về “Thơ nhƣ là mỹ học của cái khác” ...................................................... 84
3.2. Thơ Việt Nam nhìn từ hệ hình tƣ duy tiền hiện đại ...................................................... 87
3.2.1. Bản chất của thơ Việt Nam khi nhìn từ hệ hình tƣ duy tiền hiện đại ........................ 87
3.2.2. Mỹ học thơ theo lý thuyết hệ hình tƣ duy tiền hiện đại ............................................. 89
3.3. Thơ Việt Nam nhìn từ hệ hình tƣ duy hiện đại ............................................................. 90
3.3.1.Bản chất của thơ Việt Nam khi nhìn từ hệ hình tƣ duy hiện đại ................................ 90
3.3.2. Mỹ học thơ theo lý thuyết hệ hình tƣ duy hiện đại .................................................... 99
3.4. Thơ Việt Nam nhìn từ hệ hình tƣ duy hậu hiện đại .................................................... 100
3.4.1. Khái niệm hậu hiện đại ............................................................................................ 100
3.4.2. Bản chất của thơ Việt Nam khi nhìn từ hệ hình tƣ duy hậu hiện đại ....................... 102
3.4.3. Mỹ học thơ theo lý thuyết hệ hình tƣ duy hậu hiện đại ........................................... 105
Tiểu kết chƣơng 3 ..................................................................................................107
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 112
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Phê bình văn học là một trong ba bộ phận cấu thành khoa học văn học,
bao gồm: Lịch sử văn học, Lý luận văn học, Phê bình văn học. Nếu lịch sử văn học
nghiên cứu văn học trong trật tự thời gian, lý luận văn học nghiên cứu văn học trong
sự phát triển tổng thể, thì phê bình văn học nghiên cứu tác phẩm văn học cụ thể.
Tuy nhiên, đối tƣợng của phê bình văn học không chỉ lấy tác phẩm văn học làm đối
tƣợng chính mà còn xem xét tác phẩm ấy trong mối tƣơng quan với tác giả, trào lƣu,
trƣờng phái văn học. Thêm nữa, đã nói đến phê bình văn học là đề cập đến vai trò
quan trọng tất yếu của chủ thể tiếp nhận (độc giả) khi đứng trƣớc một hiện tƣợng
văn học. Mặc dù vậy, khi khoa học nghiên cứu văn học phát triển mạnh mẽ, nhiều
độc giả có phần hoang mang không thực sự định hƣớng tốt trong khâu tiếp nhận thì
lúc ấy những nhà phê bình văn học chân chính xuất hiện nhƣ ngƣời chỉ đƣờng dẫn
lối không chỉ cho công chúng tiếp nhận mà thậm chí còn cho cả các nghệ sĩ sáng tác
vốn đang tƣởng rằng mình nắm quyền uy tối thƣợng. Tiếp nhận văn học không có
một giới hạn hay một công thức cho sẵn nào, nhƣng trên sự định hƣớng chuẩn mới
tạo ra đƣợc cái lệch chuẩn. Nhà phê bình chính là ngƣời góp phần quan trọng để
hình thành nên cái chuẩn trong nghiên cứu văn học. Do đó, phê bình văn học ngày
càng phát triển và có vai trò quan trọng trong hệ thống các khoa học văn học.
1.2. Phê bình văn học với tƣ cách là một bộ môn khoa học nghiên cứu về văn
học đã chứng minh đƣợc giá trị đặc biệt, tác động lớn đến nhiều mặt của đời sống
văn học, từ khâu sáng tác đến khâu tiếp nhận văn học. Nhà phê bình cũng khẳng
định đƣợc vị trí quan trọng trong nghiên cứu, thậm chí có lúc nhà phê bình làm hộ
cả công việc của nhà văn và độc giả, chỉ ra những điều chính nhà văn cũng không
ngờ tới trong tác phẩm của mình, gỡ rối cho độc giả trong lĩnh vực tiếp nhận văn
chƣơng nghệ thuật. Phê bình văn học tác động tới tất cả các khâu của quá trình sáng
tạo nghệ thuật gồm một chuỗi mắt xích liên quan: hiện thực- nhà văn- tác phẩmngười đọc- hiện thực. Phê bình tác động tới sự thụ cảm thế giới của nhà văn, có ảnh
hƣởng trực tiếp đến cá tính sáng tạo của nhà văn, tới quá trình sáng tạo ra tác phẩm,
2
tác động trực tiếp tới tác phẩm văn học, có tác dụng định hƣớng ngƣời đọc, sau
cùng nó tác động đến hiện thực đời sống. Nói nhƣ Biêlinxki: “ không phải nghệ
thuật sinh ra phê bình, cũng không phải phê bình sinh ra nghệ thuật, mà cả hai đều
là con đẻ của tinh thần thời đại”. Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm riêng lẻ, còn phê
bình văn học đƣa những tác phẩm riêng lẻ vào một hệ thống văn học để chúng trở
thành một chỉnh thể. Càng ngày phê bình văn học càng trở thành nhịp cầu nối liền
mạch sự vận động, phát triển của văn chƣơng.
1.3. Nằm trong dòng chảy của phê bình văn học nói chung, phê bình thơ luôn
khẳng định giá trị tự thân của nó, đặc biệt sau 1986 ý thức về sự đổi mới thơ dấy lên
mạnh mẽ. Chính không khí cởi mở của văn học đã thổi một luồng sinh khí mới vào
đời sống văn chƣơng, trong đó có thơ và phê bình thơ. Thơ là một loại hình nghệ
thuật độc đáo. Khác với văn xuôi, thơ ca luôn đi sâu vào thế giới nội tâm con ngƣời,
nghiêng về cảm nhận những rung động tinh tế trong tâm hồn con ngƣời. Ngƣời làm
phê bình thơ là ngƣời bắc nhịp cầu nối nhà thơ với độc. Do vậy, mục tiêu và đối
tƣợng phê bình thơ không phải là khách thể, là cái ngoại giới đƣợc miêu tả, mà
chính là tác giả, là chủ thể trữ tình của sự biểu hiện. Phát hiện của phê bình thơ nằm
ở phong cách, giọng điệu. Một nhà thơ lớn là một nhà thơ có phong cách lớn. Một
nền thơ lớn là một nền thơ có nhiều phong cách. Việc tạo ra phong cách là mục đích
hƣớng đến của bất kỳ ngƣời nghệ sĩ nào. Chƣa có phong cách thì chƣa thể nói đến
một nền thơ. Việc phát hiện ra giọng điệu riêng, phong cách riêng – nó là cái tinh
tuý, cái đặc sắc của mỗi nhà thơ, để không lẫn với ai – đó là mục tiêu, nhiệm vụ
cũng là thành tựu của phê bình thơ. Cho nên, phê bình văn học nói chung và phê
bình thơ nói riêng đáng để chúng ta nghiên cứu một cách nghiêm túc.
1.4. Phê bình văn học nói chung, phê bình thơ nói riêng ở Việt Nam đã đạt
tới tƣ cách khoa học với nhiều tên tuổi, nổi bật trong đó có nhà phê bình Đỗ Lai
Thúy- một trong những nhà phê bình đi tiên phong ứng dụng phƣơng pháp phân
tâm học vào nghiên cứu văn hóa- văn học nghệ thuật. Cũng từ đó, phê bình văn học
thoát khỏi phƣơng pháp phê bình chủ quan cảm tính để thực sự đi vào quỹ đạo của
một bộ môn nghiên cứu khoa học. Đỗ Lai Thúy là ngƣời có đóng góp to lớn cho sự
3
phát triển của phê bình, đặc biệt là khuynh hƣớng phê bình phân tâm học Việt Nam
với nhiều trang viết tài hoa, sắc sảo, lối phê bình mới lạ giàu chất trí tuệ, tƣ duy
khoa học rõ ràng. Đỗ Lai Thúy đến với văn chƣơng khá muộn và bắt đầu nổi tiếng
trong giới nghiên cứu phê bình với Mắt thơ, và sau đó với hàng loạt các bài viết: Từ
cái nhìn văn học ( Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, 1999); Hồ Xuân Hương hoài
niệm phồn thực ( Nhà xuất bản văn hóa Thông tin, 2000); Chân trời có người bay
( Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2006); Theo vết chân những người khổng lồ (
Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2006); Bút pháp của ham muốn ( Nhà xuất bản
Tri thức, 2009); Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy ( Nhà xuất bản Hội nhà
văn, 2010); Thơ như là mỹ học của cái khác ( Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2012);
Vẫy vào vô tận ( Nhà xuất bản Phụ nữ, 2014), Bờ bên kia của viết ( Nhà xuất bản
Hội nhà văn, 2016). Từ Mắt thơ đến Thơ như là mỹ học của cái khác, Đỗ Lai
Thúy đã tạo nên bƣớc đột phá trong công tác nghiên cứu phê bình.
1.5. Đỗ Lai Thúy viết nhiều công trình nghiên cứu nhƣng trong lịch sử vấn
đề lại chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu về sự nghiệp của ông. Có chăng
chỉ là những bài báo, những bài phỏng vấn, những cuộc tọa đàm hội thảo…... Trong
khi đó, những đóng góp lớn của Đỗ Lai Thúy cần đƣợc đánh giá cao, nhất là phê
bình thơ. Chính vì vậy, với đề tài Đỗ Lai Thúy và phê bình thơ, tôi mong muốn
đóng góp một cái nhìn hoàn toàn khách quan về tình hình văn học sau năm 1986,
những nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy về Thơ mới trong Mắt thơ nhìn từ góc độ cái
tôi và từ hành trình nghệ thuật, Đỗ Lai Thúy với Thơ như là mỹ học của cái khác
nhìn từ hệ hình tƣ duy tiền hiện đại, tƣ duy hiện đại và tƣ duy hậu hiện đại.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Thấy rõ những chuyển biến lớn trong nghiên cứu phê bình văn học sau năm
1986 và vị trí, vai trò của nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy; hành trình đi từ Mắt
thơ đến Thơ như là mỹ học của cái khác.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
4
Vận dụng những kiến thức lý luận để tìm hiểu về Đỗ Lai Thúy trong hành
trình nghiên cứu phê bình thơ.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
“ Đỗ Lai Thúy và phê bình thơ”
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tác phẩm nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Lai Thúy rất phong phú,
nhƣng trong phạm vi luận văn này, ngƣời viết chỉ tập trung khảo sát hai công trình
của ông: Mắt thơ và Thơ như là mỹ học của cái khác. “Nếu Mắt thơ tìm kiếm
những không gian mới thì Thơ như là mỹ học của cái khác tìm kiếm những con mắt
mới. Cả Mắt thơ và Thơ như là mỹ học của cái khác đều tìm kiếm ở nơi tôi một cái
tôi vô ngã”(Đỗ Lai Thúy).[37,tr.1].
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp loại hình: Dựa vào đặc trƣng thể loại để định hƣớng tìm hiểu nhằm
làm nổi bật những nét đặc trƣng cũng nhƣ khác biệt của đối tƣợng nghiên cứu khảo
sát.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Đây là phƣơng pháp đƣợc tiến hành đầu tiên
nhằm cung cấp những chi tiết, dữ kiện, số liệu chính xác tạo cơ sở tin cậy để triển
khai các luận điểm trong luận văn.
- Phương pháp so sánh- đối chiếu: So sánh là một thao tác quan trọng của tƣ duy,
một phƣơng pháp hữu hiệu của nghiên cứu khoa học. Chúng tôi sử dụng thao tác
này để rút ra những đặc điểm chung cũng nhƣ những đặc sắc riêng của đối tƣợng
nghiên cứu. Trên cơ sở so sánh đối chiếu, sẽ thấy đƣợc cái mới, những đóng góp
riêng biệt của Đỗ Lai Thúy đối với phê bình thơ nói riêng và phê bình văn học nói
chung.
- Phương pháp phân tích- tổng hợp: Để khái quát lý thuyết, chúng tôi tiến hành
phân tích những quan điểm phê bình thơ của Đỗ Lai Thúy qua hai công trình Mắt
thơ và Thơ như là mỹ học của cái khác. Phân tích điểm độc đáo trong phê bình thơ
5
của ông, từ đó khái quát lại đặc điểm tƣ duy và sự vận động tƣ duy lý thuyết phê
bình thơ của Đỗ Lai Thúy từ Thơ mới cho đến thơ hậu hiện đại.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng kết hợp một số phƣơng pháp nhƣ phƣơng
pháp nghiên cứu tiểu sử học, phƣơng pháp lịch sử xã hội…trên quan điểm lịch sử
và quan điểm hệ thống.
5. Lịch sử vấn đề
Nằm trong dòng chảy lịch sử của nghiên cứu phê bình văn học nói chung,
phê bình thơ nói riêng ngày càng khẳng định đƣợc vị trí vững chắc. Lúc đầu, phê
bình văn học trong đó có phê bình thơ chỉ dừng lại ở việc ghi chép lại các ý kiến
của độc giả thuộc tầng lớp tri thức hoặc của những ngƣời sáng tác văn học. Sau đó,
phê bình văn học phát triển và đƣợc tách riêng, dần trở thành một công việc mang
tính đặc thù. Tuy nhiên, trƣớc thế kỉ XVII, phê bình văn học vẫn giữ một vị trí
khiêm tốn trong lòng công chúng yêu văn chƣơng. Công việc phê bình cũng mới chỉ
dừng lại ở việc đánh giá mang tính khái quát về các tác phẩm, giới thiệu tác phẩm
đến với độc giả.
Từ thế kỉ XVII- XVIII, văn học trở thành một lĩnh vực hoạt động xã hội khá
sôi động. Việc hình thành các thiết chế xã hội và sự phát triển của các lĩnh vực khác
nhƣ nhà xuất bản, báo chí, công chúng, dƣ luận….càng làm cho văn học đƣợc “thay
da đổi thịt”; thị hiếu và công chúng văn học đòi hỏi nghiên cứu văn học trong đó có
phê bình buộc phải đa dạng hóa, phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu văn
chƣơng nghệ thuật.
Từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX có nhiều trƣờng phái phê bình văn học
xuất hiện nhƣ phê bình tiểu sử, phê bình xã hội học, phê bình xã hội học, phê bình
phân tâm học, phê bình thi pháp học…..khiến cho không khí phê bình đƣợc thổi
thêm nhiều sinh khí mới. Phê bình văn học tồn tại và phát triển cho đến nay đã trải
qua rất nhiều những bƣớc thăng trầm để khẳng định đƣợc vị trí là một trong ba yếu
tố cơ bản của nghiên cứu văn học. Chƣa bao giờ độc giả đƣợc chứng kiến sự phong
phú, đa dạng, dày dặn kinh nghiệm của nhiều cây bút phê bình luôn nỗ lực không
ngừng trong việc đi tìm và định hình phong cách phê bình mới. Nhà phê bình Đỗ
6
Lai Thúy là một trong những cây bút tài hoa trên con đƣờng tìm đến một lối viết lạ.
Ông âm thầm đóng góp cho nghiên cứu văn học những trang viết sắc sảo, hấp dẫn,
lôi cuốn: Mắt thơ, Hồ Xuân Hương- hoài niệm phồn thực, Chân trời có người bay,
Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Bút pháp của ham muốn, Phê bình
văn học- con vật lưỡng thê ấy, Thơ như là mỹ học của cái khác, Theo vết chân
những người khổng lồ……Dù có nhiều đóng góp nhƣ vậy trong nghiên cứu các hiện
tƣợng văn học nƣớc nhà nhƣng nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy lại chƣa trở thành đối
tƣợng nghiên cứu của nhiều độc giả. Những bài viết, những công trình đã công bố
về nhà phê bình Đỗ Lai Thúy còn rất hạn chế. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trên
Tạp chí sông Hƣơng số 244, tháng 6 năm 2009 đã có bài viết “ Phê bình phân tâm
học và Đỗ Lai Thúy” đề cập đến vai trò tiếp nối và sự phát triển của Đỗ Lai Thúy
trong việc đƣa phƣơng pháp nghiên cứu phê bình phân tâm học trở thành phƣơng
pháp nghiên cứu chủ đạo trong việc tìm hiểu các hiện tƣợng văn hóa vốn gây nhiều
tranh cái nhƣ Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Hồ Xuân Hƣơng….Nguyễn Mạnh Tiến
trên báo Văn hóa Nghệ An số ra ngày 21/4/2011 có bài viết “Tính lƣỡng thê của
phê bình văn học Đỗ Lai Thúy”. Bài viết đã giải thích cặn kẽ khái niệm tính lƣỡng
thê và nhìn rõ cuộc nổi loạn của những hệ hình hay phƣơng pháp viết lịch sử phê
bình văn học. Tác giả Cao Thị Hồng vẫn trên trang phê bình văn học số ra ngày
03/05/2014 cũng có bài viết “Đỗ Lai Thúy và vấn đề ứng dụng phân tâm học trong
Bút pháp của ham muốn” đã phân tích một cách chặt chẽ, thấu đáo về biểu hiện
phân tâm học trong việc khám phá các hiện tƣợng văn học. ….Trên báo Văn hóa
Nghệ An số ra ngày 20/8/2014, tác giả Hoàng Thị Huế có bài viết “ Đỗ Lai Thúy:
Từ Chân trời có người bay đến Vẫy vào vô tận”. Bài viết sắc sảo chỉ ra sự khác biệt
của hai cuốn sách tuy cùng viết về những chân dung văn học nhƣng cách tiếp cận
hoàn toàn khác nhau. Lã Nguyên trên trang phê bình văn học số ra ngày 20/3/2016
có bài viết về chân dung phê bình văn học với nhan đề “Đỗ Lai Thúy và phê bình
phân tâm học Việt Nam”. Bài viết đã thực sự đem đến cho độc giả một cái nhìn
khách quan về phê bình phân tâm học và những công lao của Đỗ Lai Thúy trong
việc đƣa phê bình phân tâm học phát triển lên một trình độ mới. Nói chung, việc
7
nghiên cứu sự nghiệp của Đỗ Lai Thúy mới dừng lại ở những cuộc tọa đàm, những
cuộc phỏng vấn hoặc các bài báo hoặc là những bài viết về phƣơng pháp phê bình
phân tâm của ông. Trong khi đó, sự nghiệp và những đóng góp của ông cho phê
bình văn học cần phải đƣợc nghiên cứu một cách công phu, tỉ mỉ thì lại hầu nhƣ
chƣa có một công trình nào. Nhất là trong lĩnh vực phê bình thơ, Đỗ Lai Thúy đã
cho ra đời hai chuyên luận Mắt thơ và Thơ như là mỹ học của cái khác thì chƣa có
công trình nào nghiên cứu. Từ Mắt thơ đến Thơ như là mỹ học của cái khác là cả
một hành trình tìm kiếm và giải mã thế giới bí ẩn của thơ, là hành trình giải mã thơ
Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa. Do đó, trong hiện tại và tƣơng lai, Đỗ Lai
Thúy và phê bình văn học của ông nhất thiết cần phải đƣợc nghiên cứu, đánh giá
một cách công bằng, khách quan và khoa học.
6. Đóng góp của luận văn
Qua việc khảo sát Mắt thơ đến Thơ như là mỹ học của cái khác, chúng tôi
muốn có cái nhìn khoa học về sự vận động tƣ duy phê bình Đỗ Lai Thúy đối với
phê bình thơ Việt Nam.
Trên cơ sở đó, cho thấy những đóng góp của Đỗ Lai Thúy đối vơí phê
bình thơ, không chỉ dừng lại ở thơ hiện đại mà cả thơ trung đại Việt Nam.
Đặc biệt qua luận văn, thấy rõ những khác biệt trong bút pháp phê bình
cuả Đỗ Lai Thúy so với các nhà phê bình trƣớc đây và cả bây giờ.
Từ những đóng góp lớn của Đỗ Lai Thúy, chúng tôi chỉ ra sự vận động
đổi mới của tƣ duy thơ Việt Nam đƣơng đại, phê bình thơ nói riêng và phê bình văn
học nói chung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thƣ mục tài liệu tham khảo, cấu trúc
của luận văn gồm ba chƣơng:
Chương 1: Phê bình văn học Việt Nam sau 1986 và sự xuất hiện của Đỗ Lai
Thúy
Chương 2: “Ngƣời thơ trong mắt thơ”
Chương 3: “Thơ nhƣ là mỹ học của cái khác”
8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1986
VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA ĐỖ LAI THÚY
1.1. Khái lƣợc về phê bình văn học sau 1986
Lý luận, phê bình văn học trƣớc năm 1975 chủ yếu giữ vai trò định hƣớng cho
các hoạt động sáng tác và tiếp nhận văn học theo nguyên tắc, đƣờng lối văn học
Cách mạng dƣới sự chỉ đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản. Do vậy, không khí phê
bình chƣa thực sự đƣợc cởi trói khỏi những ràng buộc của văn học thời chiến. Sau
năm 1975, văn học đƣợc trả về với đời sống vốn có của riêng nó, cùng với những
đòi hỏi bức thiết của công cuộc đổi mới văn học, phê bình văn học nói riêng đặt ra
những yêu cầu và nhiệm vụ mới, nhận thức lại bản chất, chức năng văn học trong
thời đại mới không còn phù hợp với giai đoạn văn học kháng chiến. Do vậy, không
khí phê bình bắt đầu có những bƣớc chuyển mạnh mẽ. Từ năm 1975 đến năm 1985,
diễn ra nhiều cuộc hội thảo trên báo chí về những vấn đề thực tiễn đời sống sau
chiến tranh đƣợc đƣa vào tác phẩm văn học, trong đó đáng chú ý nhất là bài báo Về
một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua của tác giả
Hoàng Ngọc Hiến- ngƣời đi tiên phong đổi mới tƣ duy lý luận phê bình văn học.
Với tƣ duy lý luận nhạy bén, lập luận sắc sảo Hoàng Ngọc Hiến có sự tiên cảm
mạnh mẽ về tƣơng lai, sẵn sàng đoạn tuyệt với quá khứ, phủ nhận cả chính mình.
Ông nhìn ra đƣợc những điều còn thiếu sót cần khắc phục trong bao nhiêu năm văn
học phát triển dƣới thời kháng chiến. Không ngần ngại, e dè, không ngợi ca thái quá
những gì quá khứ đi qua, cũng không cần tô vẽ tƣơng lai, Hoàng Ngọc Hiến đã thực
sự gióng lên tiếng chuông thức tỉnh về sự cần thiết phải đổi mới cả một nền tƣ duy
văn nghệ cũ, chứ không riêng gì công tác lý luận, phê bình. Tuy nhiên, bài viết của
ông không phải đều đƣợc số đông chấp nhận. Có nhiều ngƣời phản bác cho rằng
tác giả đang phủ nhận những thành tựu to lớn mà nền văn học Cách mạng đạt đƣợc
với sứ mệnh cao quý trong bao nhiêu năm qua. Cho đến năm 1979, trong cuộc Hội
nghị nhà văn Đảng viên bàn về sáng tác văn học, Hoàng Ngọc Hiến tìm thấy tiếng
9
nói chung với nhà văn Nguyên Ngọc. Tác giả của một thời Đất nước đứng lên cho
rằng: văn học nghệ thuật của ta thời chiến đã thực hiện vẻ vang nhiệm vụ tuyên
truyền Cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Tuy nhiên, văn học của ta chưa xứng tầm với
với cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc trong mấy chục năm qua, nhiều khi đồng nhất
nhiệm vụ văn học với nhiệm vụ chính trị, văn học mới chỉ quan tâm tới số phận
chung của cộng đồng mà quên mất số phận riêng của từng người…từ đó làm xói
mòn năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ và triệt tiêu năng lực thẩm mĩ của độc
giả. Những bài phát biểu của Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc làm nảy sinh nhiều
quan niệm trái chiều trong giới nghiên cứu phê bình. Tuy nhiên, nó cũng có tác
dụng gợi những suy nghĩ đánh giá nghiêm túc trong độc giả về những gì đã qua và
phƣơng hƣớng cho những gì đang tới. Đặc biệt từ thập niên 80 trở đi, công tác lý
luận phê bình càng đƣợc phát triển hơn trƣớc. Từ tiểu thuyết Đất trắng (tập 1-1979
và 2-1984) của Nguyễn Trọng Oánh, nhiều nhà phê bình nhƣ Đặng Quốc Nhật, Lê
Quang Trang, Trần Duy Thanh…đã có cái nhìn công bằng hơn về chiến tranh, cái
giá của hòa bình. Đến các truyện ngắn của Dƣơng Thu Hƣơng (1982), Đứng trước
biển của Nguyễn Mạnh Tuấn (1982), Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng (1982),
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu (1983)….càng làm
cho đời sống phê bình thêm phần sinh động. Các nhà phê bình nhận ra sự thay đổi
trong ngòi bút của các nhà văn, chuyển hƣớng sang đề tài thế sự đời tƣ, khai thác
thêm rất nhiều những vụn vặt trái ngang của đời thƣờng, đƣa những câu chuyện
tƣởng nhƣ không có gì vào truyện để thể hiện cái nhìn sâu sắc về con ngƣời và cuộc
sống. Đáng chú ý nhất là Nguyễn Minh Châu. Ông trở thành một “hiện tƣợng” đƣợc
quan tâm nhất trong giới nghiên cứu văn học những năm 80. Đọc Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, các nhà phê bình đều nhận ra nhà văn đã đi đào sâu những mất
mát hi sinh, những khốc liệt, những thƣơng tổn đau đớn của chiến tranh, những
chấn thƣơng thể xác và tinh thần đau đớn còn đọng lại mãi dù tiếng súng, tiếng bom
đã ngừng. Ấy là những “mặt trái của tấm huy chƣơng” mà trƣớc đây, ta không dám
đề cập tới. Hay đọc Bức tranh, nhà phê bình Thiếu Mai cho rằng: “giá trị của tác
phẩm chính ở chỗ nó thức tỉnh lƣơng tri và phần ngƣời tốt đẹp trong mỗi con
10
ngƣời”. Đọc Khách ở quê ra, GS Phan Cự Đệ khẳng định: “Nguyễn Minh Châu
không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào phân tích tâm lí, tiềm thức, muốn thức tỉnh
con ngƣời từ sâu bên trong với giọng điệu riêng”. Còn GS. Phong Lê thì cho rằng:
“Nguyễn Minh Châu có giọng điệu riêng, tạo ra đƣợc thế giới nghệ thuật riêng
nhƣng cũng bày tỏ trạng thái phân vân khi đọc Khách ở quê ra xong vẫn không biết
đâu là vấn đề cốt lõi của truyện bởi vì nhân vật lão Khúng sao mà kì lạ đến thế?”.
Nguyễn Kiên thì khẳng định: “sự tâm huyết của Nguyễn Minh Châu là vô cùng
đáng quý, hướng đi phù hợp với quy luật phát triển chung”. Trong khi đó, Lê Thành
Nghị lại chỉ ra trong những trang viết của Nguyễn Minh Châu lập luận chƣa đủ
thuyết phục, kết cấu không chặt chẽ, hình tƣợng nhân vật khó hiểu, sử dụng hài
hƣớc đôi chỗ không hợp lý. Tô Hoài và Lê Lựu thì lại nhìn thấy ở Nguyễn Minh
Châu sự tài tình khi biết biến những cái bình thƣờng lặt vặt trong cuộc sống hàng
ngày để nâng nó lên một tầm triết lý…Chỉ riêng một Nguyễn Minh Châu của đầu
thập niên 80 đã làm cho không khí phê bình văn học lúc bấy giờ đƣợc thổi thêm làn
gió mới, đƣa công tác nghiên cứu phê bình văn học vào guồng quay đổi mới, hứa
hẹn nhiều thành tựu mới.
Cao trào của đổi mới đƣợc đánh dấu từ năm 1987 với những tên tuổi của các
nhà lý luận phê bình nhƣ: Ngô Thảo, Nguyễn Khải, Nguyễn Văn Hạnh, Lê Ngọc
Trà, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Minh Châu…với những tuyên ngôn mới về nghệ
thuật trong các báo văn nghệ, các tạp chí. Sau đó, một diện mạo mới của nền lý luận
phê bình đƣợc chuyển đổi từ tƣ duy tiền hiện đại (chủ yếu tiếp cận từ tác giả), sang
tƣ duy hiện đại (tiếp cận chủ yếu từ văn bản tác phẩm) đến tƣ duy hậu hiện đại ( chủ
yếu tiếp cận từ ngƣời đọc).
Các khuynh hƣớng phê bình đƣợc mở rộng phong phú: Nếu đội ngũ phê bình
đƣợc nhìn ở bề nổi, thì khuynh hƣớng phê bình đƣợc nhìn ở chiều sâu của vấn đề.
Nếu trƣớc năm 1975, các khuynh hƣớng phê bình còn giản đơn, chƣa có nhiều lối
phê bình ngự trị do yêu cầu của “ văn hóa nghệ thuật là một mặt trận”, văn học chủ
yếu lấy vai trò tuyên truyền cổ vũ Cách mạng làm nhiệm vụ then chốt, nên hạn chế
sức sáng tạo của nhà văn và hạn chế luôn các kiểu tƣ duy phê bình mới. Đến sau
11
năm 1986, trong không khí cả nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới, trong xu thế hội nhập
toàn cầu và sự bùng nổ của khoa học công nghệ, văn học trở về với đời sống thƣờng
nhật, đƣợc “cởi trói” khỏi khuôn khổ văn học thời chiến, ngƣời nghệ sỹ đƣợc viết
trong tƣ duy nhận thức lại, kéo theo đó phê bình văn học buộc phải phát triển trong
thế cạnh tranh gay gắt để khẳng định chỗ đứng trong lòng công chúng văn học. Và
cho đến nay, chƣa bao giờ ngƣời ta thấy sự tồn tại phong phú cùng một lúc nhiều
khuynh hƣớng phê bình văn học đến thế:
Phê bình thi pháp học: Thi pháp học là bộ môn nghiên cứu các hình thức
của nghệ thuật, đánh dấu bằng những công trình nhƣ Nghệ thuật thi ca của Aristot,
Văn tâm điêu long của Lƣu Hiệp. Đến đầu thế kỷ XX, thi pháp học tái sinh thành
thi pháp học hiện đại và tồn tại với hai nhánh chính: thi pháp học lịch sử và trƣờng
phái hình thức Nga. Ở Việt Nam, thi pháp học không đến sớm trong việc phê bình,
nghiên cứu văn học. Trƣớc năm 1986, mới chỉ có Cao Xuân Hạo và Phan Ngọc tiếp
cận. Sau năm 1986, nhiều nhà nghiên cứu lấy thi pháp học làm phƣơng pháp phê
bình chính trong đó phải kể đến Thi pháp thơ Tố Hữu, Thi pháp Truyện Kiều, Thi
pháp văn học trung đại ( Trần Đình Sử), Thi pháp hiện đại ( Đỗ Đức Hiểu). Nếu
Trần Đình Sử tiếp nhận thi pháp học từ trƣờng phái thi pháp học lịch sử của Nga,
thì Đỗ Đức Hiểu lại tiếp nhận phƣơng pháp này từ các nhà thi pháp học Tây Âu.
Khi có sự xuất hiện của nhiều hiện tƣợng văn học đặc biệt nhƣ Nguyễn Minh Châu,
Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, hay công cuộc cách tân thơ nổ ra
rầm rộ…thì nhiều phƣơng pháp phê bình cũ trở nên lạc hậu, đòi hỏi phải có một
phƣơng pháp phê bình mới. Đỗ Đức Hiểu là một trong những cây bút tiên phong
đem lại sự đổi mới cho phê bình văn học đƣơng thời. Những thành công của ông
trong các tiểu luận phê bình về Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, về truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…đã đem đến một cách tiếp cận mới trong
phê bình- khám phá những bình diện nghệ thuật mang tính nội dung của những hiện
tƣợng văn học đặc sắc. Sau Đỗ Đức Hiểu, thi pháp học nhanh chóng đƣợc truyền bá
rộng rãi, phê bình thi pháp học mở ra những cách tiếp cận mới trong văn chƣơng,
làm sụp đổ sự đơn giản nhàm chán của lối phê bình truyền thống. Theo đánh giá của
12
Đỗ Lai Thúy thì “ thi pháp học là phương pháp đầu tiên minh chứng cho thành quả
của sự thay đổi hệ hình trong phê bình văn học. Nó mở ra một lối thoát cho phê
bình văn học Việt Nam vốn đang có nguy cơ lâm vào ngõ cụt”.[36,tr.17]. Nhƣng
đồng thời chính Đỗ Lai Thúy cũng chỉ ra những hạn chế của phƣơng pháp này: “thi
pháp học trở nên thời thượng, và đã là thời thượng thì sẽ mang tính chất phong
trào, nông nổi, dễ thành hời hợt.””.[36,tr.17]. Dù còn nhiều hạn chế, nhƣng không
thể phủ nhận những thành công mà phê bình Thi pháp học mang đến. Nó cho ngƣời
đọc nhận diện một quan niệm mới về hình thức nghệ thuật- hình thức mang tính
quan niệm, về thế giới nghệ thuật, không gian thời gian nghệ thuật và về con ngƣời.
Phê bình phân tâm học: Trƣơng Tửu và Nguyễn Văn Hanh là những ngƣời
đầu tiên vận dụng thuyết phân tâm học của S. Freud, nhƣng sau đó một thời gian
dài, phƣơng pháp này không có đất tồn tại bởi ngƣời Việt ta coi việc đề cao bản
năng tính dục là cách hạ thấp giá trị con ngƣời. Phải đến thời kì đổi mới, với thái độ
cởi mở và tinh thần khoa học khách quan, phân tâm học mới đƣợc nhìn nhận, cụ thể
ở Việt Nam đến Đỗ Lai Thúy, phân tâm học mới đƣợc “tái nhập” và khẳng định
đƣợc giá trị của nó khi đi khám phá, lý giải về tâm lý sáng tạo của chủ thể. Bằng
việc vận dụng thuyết phân tâm học, Đỗ Lai Thúy đã có những khám phá thú vị
trong nghiên cứu một số hiện tƣợng văn học gây tranh luận hoặc phức tạp nhƣ Hồ
Xuân Hƣơng, Hoàng Cầm, Chế Lan viên. Tuy nhiên, việc vận dụng phƣơng pháp
phê bình phân tâm học vào phê bình văn học không hề dễ dàng, đôi khi dễ rơi vào
ngộ nhận, áp đặt.
Phê bình tiểu sử: Phƣơng pháp này chú trọng nghiên cứu những đặc điểm nổi
bật về thân thế, tiểu sử, những biến động trong cuộc đời của tác giả để từ đó cắt
nghĩa, lý giải sáng tác của họ. Phê bình tiểu sử luôn lấy con ngƣời để làm minh
chứng cho sáng tác (Văn là ngƣời). Ví dụ, khi nghiên cứu Hàn Mặc Tử, Trần Thanh
Mại đã khảo cứu hoàn cảnh địa lý, gia đình, cuộc sống nghèo túng, những đau đớn
bệnh tật, những đau thƣơng trong đời sống tâm hồn từ những trắc trở tình duyên
của nhà thơ để lý giải những tâm tƣ, tình cảm của ông trong từng trang viết. Từ sau
năm 1975, có nhiều công trình viết theo phƣơng pháp phê bình tiểu sử học đƣợc chú
13
ý, nổi bật là các công trình nghiên cứu phê bình về tác giả văn học Việt Nam hiện
đại nhƣ: “Nhà văn tư tưởng và phong cách”, “Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn”, “Nhà văn hiện đại- chân dung và phong cách” (Nguyễn Đăng
Mạnh). Tuy nhiên, phƣơng pháp phê bình này đôi khi quá thiên về tiểu sử, cuộc đời
tác giả mà dễ bỏ qua những yếu tố tác động khác bên ngoài vào tác phẩm.
Phê bình ngôn ngữ học: Phê bình ngôn ngữ học đƣợc phân chia thành hai
nhánh chính là phong cách học và kí hiệu học ( Ngôn ngữ thơ- Nguyễn Phan Cảnh,
Ngôn ngữ thơ Việt Nam- Hữu Đạt, Những vấn đề thi pháp của truyện- Nguyễn Thái
Hòa, Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học- Nguyễn Lai, Tìm hiểu phong
cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều- Phan Ngọc, Kí hiệu học và phê bình văn họcHoàng Trinh…). Các nhà phê bình ngôn ngữ học lấy đối tƣợng ngôn ngữ làm trung
tâm cho việc nghiên cứu và tiếp cận thế giới văn chƣơng của nhà văn. Từ những đặc
điểm kí hiệu ngôn ngữ mà định hình phong cách tác giả và đời sống của tác phẩm.
Do vậy, không giống nhƣ phê bình tiểu sử mang ít nhiều dấu ấn chủ quan thì phê
bình ngôn ngữ học mang dấu ấn khách quan. Việc tiếp cận nhà văn và tác phẩm từ
ngôn ngữ học giúp nhà phê bình và độc giả có cái nhìn biện chứng thấu đáo, toàn
diện hơn trƣớc các hiện tƣợng văn học.
Phê bình mĩ học: Văn học đƣợc nhìn từ góc độ mĩ học, xem văn học nhƣ là
một hiện tƣợng thẩm mĩ, vận dụng thƣờng xuyên các phạm trù khái niệm mĩ học
vào phê bình văn học ( Hoàng Ngọc Hiến). Nếu nhìn văn học từ góc độ mĩ học thì
mỗi nhà phê bình ở góc độ nào đó cũng phải là một nhà mĩ học. Các tác giả tiêu
biểu nhất cho khuynh hƣớng phê bình mĩ học phải kể đến nhƣ Lê Ngọc Trà, Đỗ
Văn Khang, Hoàng Ngọc Hiến…trong đó một số công trình của Hoàng Ngọc Hiến:
Những ngả đường vào văn học (NXB Giáo dục, 2006); Triết lý văn hóa và triết
luận văn chương (NXB Giáo dục, 2006) ….luôn lật xới văn học trên nhiều bình
diện văn hóa, đạo đức, triết học, mĩ học, giúp tác giả phát hiện ra nhiều vấn đề văn
học cực kỳ lý thú trong một lối phê bình sắc sảo, lôi cuốn, mới lạ.
Phê bình xã hội học: là phƣơng pháp lấy học thuyết duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac làm nền tảng tƣ tƣởng soi chiếu, cắt nghĩa, đánh
14
giá các hiện tƣợng văn học, giải thích văn học bằng các yếu tố/ điều kiện xã hội.
Tuy nhiên, phƣơng pháp này thƣờng bỏ qua hoặc xem nhẹ phƣơng diện nghệ thuật
của tác phẩm, không quan tâm đúng mức đến bình diện chủ quan và tính tích cực
của chủ thể sáng tạo. Do đó, một số nhà phê bình xã hội học thƣờng hay rơi vào quy
tắc cứng nhắc, đôi khi bảo thủ, công thức. Sa đà vào phƣơng pháp phê bình này, vô
hình trung ta đã không xem tác phẩm văn học nhƣ một hiện tƣợng nghệ thuật mà
ngƣợc lại có khi biến tác phẩm trở thành một tài liệu để tìm hiểu, nhìn nhận, đánh
giá, lý giải chính xã hội mà nhà văn đang sống, còn bản thân nhà văn không đƣợc
nhìn nhận nhƣ một chủ thể sáng tạo mà đƣợc nhìn nhƣ một con ngƣời giai cấp.
Nói chung, tất cả các phƣơng pháp phê bình đều không phải là độc tôn hay
tối ƣu. Việc phân chia các phƣơng pháp phê bình hoặc việc xếp nhà phê bình vào vị
trí phƣơng pháp này hay phƣơng pháp kia cũng chỉ mang tính chất tƣơng đối.
Nhìn tổng quan lại phê bình văn học thời kì sau 1986, chúng ta không dừng
lại ở các phƣơng pháp phê bình mà còn ở đội ngũ phê bình văn học. Đây là lực
lƣợng nòng cốt đƣa phê bình văn học đi đúng quỹ đạo của tiến trình phát triển văn.
Trên con đƣờng đi tới hiện đại hóa, phê bình văn học phải hƣớng tới tính chuyên
nghiệp. Đội ngũ phê bình chính là ngƣời làm nên tính chuyên nghiệp ấy. Nếu phân
chia theo sự phát triển lịch sử văn học thì đội ngũ phê bình đƣợc chia ra trƣớc và
sau năm 1975. Trƣớc năm 1975, đội ngũ phê bình văn học đã đƣợc hình thành khá
đông đảo và bắt đầu có tính chuyên nghiệp dần, góp phần đáng kể vào việc làm
phong phú diện mạo văn học. Có thể kể đến một số nhà phê bình nhƣ Hoài Thanh (
phê bình ấn tƣợng), Hải Triều (phê bình xã hội học Mác xít), Trƣơng Tửu (phê bình
phân tâm học), Trần Thanh Mại (phê bình tiểu sử)…Sau năm 1945, do yêu cầu của
thời đại, văn học nói chung và phê bình nói riêng phải thực hiện sứ mệnh, nhiệm vụ
lịch sử của công cuộc kháng chiến nên văn hóa văn nghệ đi đúng đƣờng hƣớng dƣới
sự lãnh đạo của Đảng để phục vụ tối đa cho công cuộc kháng chiến cứu nƣớc. Vì
vậy, trong đội ngũ làm phê bình trƣớc hết là những nhà lãnh đạo Đảng (Trƣờng
Chinh) hoặc là những vị cán bộ Đảng Cộng sản đƣợc giao nhiệm vụ chỉ đạo mặt
trận văn nghệ nhƣ Tố Hữu, Hà Xuân Trƣờng. Đƣơng nhiên, do phụng sự Cách
- Xem thêm -