Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA CHUYÊN ĐỀ
Sau 23 năm đổi mới, nƣớc ta đã dần chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa,
theo đó sự vận hành của nền kinh tế vừa tôn trọng các quy luật khách quan của cơ
chế kinh tế thị trƣờng vừa dựa trên cơ sở và đƣợc dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Thể chế kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa đã đƣợc hình thành về cơ bản; vị thế của nƣớc ta trên
trƣờng quốc tế đƣợc nâng cao. Chúng ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150
của tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO).
Tài nguyên và môi trƣờng có vai trò thiết yếu đối với con ngƣời, là nền tảng
tồn tại và phát triển của xã hội, là đầu vào và chứa đựng chất thải đầu ra của các
hoạt động kinh tế, đóng góp quan trọng cho ngân sách và tăng trƣởng của mọi nền
kinh tế. Trong thế giới hiện đại ngày nay, khi toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tài
nguyên trở thành nguồn lực khan hiếm, là đối tƣợng tranh chấp quyết liệt giữa các
thế lực kinh tế, môi trƣờng đã và đang bị ô nhiễm, suy thoái nhanh, trở thành vấn đề
toàn cầu, mối lo chung của toàn nhân loại, công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ
môi trƣờng đƣợc nhiều quốc gia trên thế giới đặt ở tầm quan trọng đặc biệt trong
chiến lƣợc phát triển bền vững đất nƣớc.
Nƣớc ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nỗ
lực tăng trƣởng nhanh và bền vững, phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa nhằm thu hẹp nhanh khoảng cách tụt hậu đối với thế giới. Quá trình này
đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản trong cơ chế quản lý và phƣơng thức điều
hành của toàn bộ nền kinh tế, từng bộ phận, từng khâu, trong đó có ngành tài
nguyên và môi trƣờng.
Thời gian qua, đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc, công tác quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trƣờng đã có những chuyển đổi tích cực theo hƣớng kinh tế
hoá, thị trƣờng hoá. Một số cơ chế, công cụ kinh tế đƣợc đƣa vào áp dụng trong
quản lý đất đai và bảo vệ môi trƣờng đã phát huy tác dụng, tạo nên bƣớc đột phá về
đóng góp ngân sách nhà nƣớc và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý
nhà nƣớc về tài nguyên và môi trƣờng, góp phần quan trọng tạo nên thành công của
tiến trình đổi mới đất nƣớc.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên, trƣớc yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, tiến trình mở cửa và hội nhập, xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa, công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng vẫn
còn bộc lộ nhiều bất cập. Vai trò của ngành tài nguyên và môi trƣờng hiện nay chƣa
đƣợc đánh giá đúng mức. Giá trị nguồn tài nguyên khoáng sản nói riêng và các tài
nguyên môi trƣờng nói chung chƣa đƣợc đánh giá đúng, để dẫn đến lãng phí; lợi
nhuận rơi vào một số ít cá nhân doanh nghiệp; ngân sách quốc gia thất thu; những
ngƣời tạo ra sản phẩm giá trị không đƣợc thụ hƣởng xứng đáng.
II. MỤC TIÊU CỦA CHUYÊN ĐỀ
Xuất phát từ thực tiễn và nhận thức nhƣ vậy, để thúc đẩy đổi mới cơ chế
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng đồng bộ với thể chế kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, chủ động vận dụng các quy luật khách quan, khả năng tự
điều tiết của nền kinh tế thị trƣờng, tăng cƣờng áp dụng các cơ chế, công cụ kinh tế
trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng, nâng cao năng lực tƣ duy, nghiên
cứu và phân tích kinh tế trong ngành tài nguyên môi và môi trƣờng, ngày 02 tháng
12 năm 2009 Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng đã ra Nghị quyết 27 về
chủ trƣơng đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trƣờng.
Em đã chọn đề tài: “Kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch 5 năm của Bộ Tài nguyên và môi trường” với các mục tiêu nhƣ sau:
1. Góp phần hình thành một hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế
hóa ngành tài nguyên và môi trƣờng.
2. Đánh giá và phân tích thực trạng kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi
trƣờng trong xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 ở Việt
Nam.
3. Đƣa ra giải pháp đẩy mạnh kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch 5 năm tiếp theo, 2011-2015.
III. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phƣơng pháp kế thừa
Là phƣơng pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu thực hiện
trƣớc đây, kế thừa những kết quả điều tra, đánh giá, nghiên cứu đã có cả trong và
ngoài nƣớc. Phƣơng pháp này chủ yếu sử dụng ở phần II: Phân tích và đánh giá
thực trạng kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức kế hoạch 5 năm của Bộ Tài
nguyên và Môi trƣờng. Các bảng số liệu nhƣ: Số văn bản quy phạm pháp luật đƣợc
xây dựng và ban hành; Thiệt hại môi trƣờng ở một số nƣớc, tổng thu thuế tài
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nguyên so với tổng thu ngân sách… là kế thừa kết quả nghiên cứu của cán bộ Bộ
Tài nguyên và Môi trƣờng và kết quả nghiên cứu từ các tổ chức nƣớc ngoài.
2. Phƣơng pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp
Phƣơng pháp này cũng chủ yếu đƣợc sử dụng ở phần II, dựa trên những số
liệu thực tế, từ đó đƣa ra đƣợc những đánh giá tổng quát về thành tựu, hạn chế và
những nguyên nhân của việc thực hiện kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trƣờng
trong giai đoạn 2006-2010. Dựa vào bảng biểu để đánh giá sự biến động số liệu qua
các năm.
3. Phƣơng pháp dự báo
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng chủ yếu ở phần III: Giải pháp đẩy mạnh kinh
tế hóa ngành tài nguyên và môi trƣờng. Dựa trên kết quả đánh giá thu thập đƣợc ở
phần II và căn cứ vào bối cảnh chung của việc xây dựng kế hoạch 5 năm ngành tài
nguyên và môi trƣờng theo hƣớng kinh tế hóa, từ đó làm căn cứ để dự báo các chỉ
tiêu thực hiện trong 5 năm tiếp theo.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Chuyên đề nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về kinh tế hóa ngành tài
nguyên và môi trƣờng; đánh giá khả năng áp dụng và xây dựng, đề xuất khung
chính sách tổng thể đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trƣờng trong
việc xây dựng và tổ chức kế hoạch 5 năm.
Việc điều tra nghiên cứu đƣợc thực hiện với tất cả 7 lĩnh vực quản lý nhà
nƣớc mà Bộ Tài nguyên và môi trƣờng đƣợc phân công, bao gồm đất đai; tài
nguyên nƣớc; địa chất, khoáng sản; môi trƣờng; khí tƣợng, thuỷ văn; đo đạc, bản đồ
và biển, hải đảo.
Nội dụng chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch 5 năm ngành tài nguyên và môi trƣờng.
Phần II: Thực trạng kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng.
Phần III: Giải pháp đẩy mạnh kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch 5 năm của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng.
Nghị quyết số 27-NQ/BCSĐTNMT mới đƣợc ban hành vào ngày 02 tháng
12 năm 2009 về đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trƣờng. Là một chủ
trƣơng mới, việc đầu tiên và quan trọng nhất của ngành là xây dựng cơ sở lý luận
“kinh tế hóa ngành tài nguyên môi trƣờng”. Năm 2010 cũng là năm ngành tài
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nguyên và môi trƣờng mới bắt đầu tiến hành điều tra, khảo sát thực tiễn để đạt đƣợc
mục tiêu đó. Do vậy chƣa có nhiều số liệu đƣợc điều tra và công bố, chuyên đề:
“Kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm của Bộ
Tài nguyên và Môi trường” mang tính lý luận cao.
Do chuyên đề nghiên cứu còn mới mẻ, trình độ còn hạn chế nên vấn đề
nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý để sửa chữa và
hoàn thiện thêm. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Phạm Thị Minh Thảo,
Trƣờng đại học Kinh tế quốc dân, các cán bộ ở Vụ Kế hoạch, Bộ Tài nguyên và
Môi trƣờng đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
B. PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÓA TRONG XÂY DỰNG
VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM NGÀNH
TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƢỜNG
I. KẾ HOẠCH 5 NĂM TRONG HỆ THỐNG KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI.1
1. Hệ thống kế hoạch hoá phân theo thời gian trong nền kinh tế quốc dân.
Hệ thống kế hoạch hoá là một hệ thống các loại hình thức kế hoạch phát
triển, đó là hệ thống các công cụ điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà
nƣớc. Trong hệ thống kế hoạch hoá, mỗi loại hình kế hoạch khác nhau có vai trò
khác nhau và chúng có thể đƣợc phân loại theo nhiều góc độ khác nhau.
Nếu xem xét hệ thống kế hoạch hoá theo góc độ nội dung thì hệ thống kế
hoạch hoá bao gồm các bộ phận cấu thành nhƣ: chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội;
quy hoạch phát triển; kế hoạch phát triển và các chƣơng trình dự án phát triển.
Trong đó chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hệ thống các phân tích, đánh
giá và lựa chọn về quan điểm mục tiêu tổng quát, định hƣớng phát triển các lĩnh vực
chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản, trong đó bao gồm các chính
sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu
đặt ra trong một khoảng thời gian dài.
Quy hoạch phát triển là sự thể hiện của chiến lƣợc phát triển trong thực tiễn
phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố
trí chiến lƣợc về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức
không gian để chủ động hƣớng tới mục tiêu đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững
trong tƣơng lai.
Kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc
dân, nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hƣớng của chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội
theo từng thời kỳ bằng hệ thống các mục tiêu chỉ tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hƣớng
và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.
Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội đƣợc xem nhƣ là một công
cụ triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc
1
Trích nguồn: Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển, Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
về kinh tế và xã hội. Là một phƣơng pháp kế hoạch hoá đƣợc áp dụng nhiều nƣớc
trên thế giới, ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế phƣơng
pháp kế hoạch hoá quản lý theo các chƣơng trình dự án mà trọng tâm là các chƣơng
trình quốc gia cũng đƣợc áp dụng rộng rãi từ những năm 1992.
Tóm lại khi xem xét hệ thống kế hoạch hoá dƣới góc độ nội dung ta thấy
đƣợc rằng kế hoạch hoá là một quá trình liên tiếp nhau, bổ trợ nhau và thể hiện mối
quan hệ định hƣớng và thực hiện giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống kế hoạch
hoá.
Khi chúng ta xem xét hệ thống kế hoạch hoá ở góc độ thời gian thì hệ thống
kế hoạch hoá lại đƣợc phân chia thành 3 loại kế hoạch chủ yếu là: Kế hoạch dài
hạn, kế hoạch trung hạn và kế hoạch ngắn hạn.
1.1. Kế hoạch dài hạn.
Khi nói kế hoạch dài hạn ta có thể hiểu đó là những chiến lƣợc phát triển
kinh tế xã hội có khoảng thời gian từ 10 đến 20 năm. Và ngoài chiến lƣợc phát triển
kinh tế xã hội 10 năm, 20 năm chúng ta còn có thể có các chiến lƣợc phát triển kinh tế
xã hội có thời gian dài từ 20 đến 25 năm và chúng đƣợc gọi là “tầm nhìn”. Để tạo thuận
lợi cho việc xây dựng và bố trí các chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội 10 năm, “tầm
nhìn” thƣờng có nội dung tổng quát hơn, linh động hơn hay mềm hơn và có tính chất
định tính hơn so với chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội. Điều quan trọng của việc phân
định giữa chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội và tầm nhìn là phải thống nhất về mục
tiêu định hƣớng của chúng sao cho những bƣớc đi trƣớc “thuận” và tạo tiền đề cho
bƣớc đi sau đồng thời có khả năng hiệu chỉnh khi cần thiết.
Một kế hoạch dài hạn thƣờng có nội dung để giải đáp những câu hỏi: Chúng
ta đang đứng ở đâu? Muốn đi đến đâu? Đi bằng cách nào? Và làm thế nào để biết
đƣợc chúng ta đã đi đến đó? Để trả lời mỗi một câu hỏi trên chúng ta phải tiến hành
những công việc cụ thể nhƣ:
- Nhận dạng thực trạng của nền kinh tế: Quá trình nhận dạng thực trạng phải
đƣợc đánh giá toàn diện và trong một khoảng thời gian dài tƣơng đƣơng với thời kỳ
của chiến lƣợc phát triển sẽ xây dựng. Nó là cơ sở để rút ra kết luận đúng đắn cho
câu hỏi: Chúng ta đang đứng ở đâu?
- Xây dựng các quan điểm phát triển, đó là những tƣ tƣởng chủ đạo thể hiện
tính định hƣớng của các kế hoạch dài hạn. Việc xác định các quan điểm chủ đạo có
ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra các bƣớc ngoặt của con đƣờng phát triển, nó
tạo động lực cơ bản xuyên suốt quá trình phát triển của đất nƣớc.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Xây dựng hệ thống mục tiêu, các mục tiêu chủ yếu là mục tiêu tổng quát,
chủ yếu tập trung vào các vấn đề nâng cao đời sống xã hội của các tầng lớp dân cƣ,
thay đổi bộ mặt đất nƣớc, tạo thế vững chắc cho đất nƣớc, phản ánh những biến đổi
quan trọng của nền kinh tế.
- Xây dựng hệ thống chính sách và biện pháp. Đây là thể hiện sự hƣớng dẫn
về cách thức thực hiện các mục tiêu đề ra. Nó bao gồm các chính sách và biện pháp
về cơ cấu và cơ chế vận hành hệ thống kinh tế – xã hội, các chính sách về bồi
dƣỡng, khai thác, huy động, phân bổ và sử dụng hợp lý cá nguồn lực phát triển.
1.2. Kế hoạch trung hạn
Kế hoạch trung hạn là những kế hoạch có khoảng thời gian từ 3 đến 10 năm.
Ở một số nƣớc trên thế giới nhƣ nƣớc Pháp, khi phân chia theo thời gian thì hình
thức duy nhất của kế hoạch là kế hoạch 5 năm, nƣớc Đức thƣờng xây dựng kế
hoạch trung hạn 5 năm, ở Malaysia có kế hoạch trung hạn 5 năm, kế hoạch trung
hạn 3 năm, ở Việt Nam kế hoạch trung hạn thƣờng là kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 5 năm) là sự cụ thể hoá các chiến lƣợc phát
triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất
nƣớc. Kế hoạch trung hạn xác định các mục tiêu chỉ tiêu tăng trƣởng kinh tế, nâng
cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ kế hoạch và xác định các cân đối, các chính sách
phân bổ nguồn lực, vốn cho các chƣơng trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà
nƣớc và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tƣ nhân.
1.3. Kế hoạch ngắn hạn
Trong hệ thống kế hoạch phát triển thì kế hoạch 5 năm là công cụ chính sách
định hƣớng còn kế hoạch hàng năm là công cụ thực hiện. Đặc biệt nếu thực hiện kế
hoạch 5 năm theo hình thức “cuốn chiếu” thì kế hoạch hàng năm thực chất sẽ là một
phần định hƣớng của kế hoạch 5 năm. Vì vậy, vai trò hay chức năng đầu tiên của kế
hoạch năm là cụ thể hoá kế hoạch 5 năm, phân đoạn kế hoạch 5 năm để từng bƣớc
thực hiện kế hoạch 5 năm. Quy mô và sự cấu thành của kế hoạch năm vì thế chủ
yếu đƣơc quyết định bởi ngân sách, các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm, các tiến trình trong
nghiên cứu khả thi và những dự án triển khai trong thời kỳ trƣớc. Bên cạnh đó kế
hoạch năm còn là công cụ để điều chỉnh kế hoạch 5 năm có tính đến đặc điểm của
từng năm. Ngoài ra, kế hoạch hàng năm còn đóng vai trò độc lập quan trọng, nó có
thể bao hàm các nhiệm vụ, các chỉ tiêu chƣa đƣợc dự kiến trong kế hoạch 5 năm,
bảo đảm tính linh hoạt, nhạy bén của kế hoạch hoá nói chung
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
2. Kế hoạch 5 năm trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội
2.1. Khái niệm kế hoạch 5 năm trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển
kinh tế- xã hội
Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội và
quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nƣớc. Kế hoạch 5 năm
xác định các mục tiêu chỉ tiêu tăng trƣởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong
thời kỳ kế hoạch và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn
cho các chƣơng trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà nƣớc và khuyến khích sự
phát triển của khu vực kinh tế tƣ nhân.
Trong hệ thống kế hoạch hoá kế hoạch 5 năm vừa là sự cụ thể hoá các chiến
lƣợc phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển vừa là công cụ định hƣớng
cho các kế hoạch hàng năm. Dựa vào hệ thống chỉ tiêu mục tiêu và các cân đối lớn
của kế hoạch 5 năm các kế hoạch hàng năm đƣợc xây dựng, từ đó đảm bảo sự thống
nhất về mục tiêu của kế hoạch hàng năm với kế hoạch 5 năm và mục tiêu định
hƣớng của quy hoạch phát triển và chiến lƣợc phát triển. Từ đó ta có thể thấy đƣợc
kế hoạch 5 năm là cầu nối giữa chiến lƣợc phát triển, quy hoạch phát triển với các
kế hoạch hàng năm hay là cầu nối biến các mục tiêu mang tính định tính cao thành
các công việc cụ thể bằng việc theo đuổi mục tiêu hàng năm mang tính định lƣợng
nhiều hơn.
2.2. Sự cần thiết lựa chọn kế hoạch 5 năm làm kế hoạch trọng tâm trong
hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế –xã hội.
Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định “xây dựng
kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hoá phát triển”.
Trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội ta thấy kế hoạch 5 năm
(kế hoạch trung hạn) là loại hình kế hoạch có khoảng thời gian nằm giữa kế hoạch
dài hạn (chiến lƣợc phát triển, quy hoạch phát triển) và kế hoạch ngắn hạn (kế
hoạch hàng năm). Do vậy khi xét về mặt thời gian thì điều đâu tiên ta thấy kế hoạch
5 năm đã đảm bảo mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Do khoảng thời gian 5 năm
vừa đúng bằng một nhiệm kỳ làm việc của cơ quan chính phủ, là thời hạn mà theo
đó lợi tức đầu tƣ bắt đầu có sau 1 năm hoặc một vài năm, do vậy tạo thuận lợi cho
việc tập trung quan điểm lãnh đạo, thuận lợi cho việc đổi mới và hoàn thiện việc
thực hiện các kế hoạch phát triển mới. Khi một nhiệm kỳ làm việc của chính phủ
kết thúc cũng là lúc một kế hoạch 5 năm kết thúc, do vậy trong quá trình thực hiện
kế hoạch phát triển nếu còn tồn tại những hạn chế hay không đạt đƣợc những mục
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
tiêu đã đề ra, việc quy kết trách nhiệm sẽ dễ dàng hơn. Từ đó buộc mỗi cá nhân có
trách nhiệm thực hiện mục tiêu chung một cách tốt nhất, không để xảy ra tình trạng
thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao rồi bắt ngƣời đi
sau (nhiệm kỳ sau) phải giải quyết hậu quả do chính mình gây ra.
Kế hoạch 5 năm là khoảng thời gian đủ ngắn để đảm bảo tính chính xác của
các mục tiêu đề ra. Do sự biến động không ngừng của nền kinh tế, sự phát triển
mạnh mẽ không ngừng của nền sản xuất xã hội cũng nhƣ việc hiện đại hoá các công
cụ dự báo dẫn đển rủi ro cao đối với các chỉ tiêu của các kế hoạch dài hạn.
Đối với kế hoạch 1 năm thì khoảng thời gian 1 năm không đủ để đánh giá
những phát sinh của chƣơng trình dự án. Những chƣơng trình dự án khi hoàn thành
đôi khi chƣa bộc lộ hiệu quả hay những phát sinh ngay mà phải trải qua một thời
gian đi vào sử dụng do vậy trong vòng một năm không thể nhận biết đƣợc điều đó.
Trong khi đó kế hoạch 5 năm đủ dài để đánh giá các chính sách giải pháp, chƣơng
trình dự án…và tiến hành xử lý những phát sinh.
Trong quá trình lập kế hoạch thì công việc thu thập, xử lý thông tin đòi hỏi
một thời gian khá dài do vậy kế hoạch hàng năm sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong
vấn đề đó bởi vì quá trình thu thập, xử lý thông tin sẽ làm ảnh hƣởng tới tiến độ
thực hiện các hoạt động của kế hoạch đề ra.
Tóm lại vai trò của kế hoạch 5 năm là rất quan trọng và việc đƣa kế hoạch 5
năm trở thành trọng tâm chủ yếu trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển là hoàn
toàn đúng đắn.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ KẾ HOẠCH 5 NĂM2
1. Nội dung các bộ phận cấu thành kế hoạch 5 năm
1.1. Phân tích tiềm năng thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và đánh giá
thực hiện thời kỳ trước
Việc phân tích tiềm năng, thực trạng phát triển kinh tế - xã hội phải chỉ ra
đƣợc tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh, nêu đƣợc những mặt mạnh, mặt yếu
những yếu tố làm đƣợc và chƣa làm đƣợc trong thời gian qua. Những mặt đã làm
đƣợc hay không làm đƣợc cần đánh giá kĩ nguyên nhân, các yếu tố chính sách tác
động. Để đánh giá chính xác tiềm năng thực trạng phát triển làm cơ sở cho định
hƣớng phát triển, đặt nó trong việc dự báo điều kiện hoàn cảnh môi trƣờng làm việc
trong nƣớc và quốc tế của thời kỳ kế hoạch 5 năm. Trong quá trình phân tích phải
2
Trích nguồn: Giáo trình kế hoạch hóa phát triển, Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
xác định đƣợc chúng ta đang ở đâu trong mặt bằng chung của sự phát triển, sánh với
các nƣớc khác, địa phƣơng khác trong khu vực và quốc tế.
1.2. Xác định các phương hướng phát triển trong thời kỳ kế hoạch
Nội dung này bao gồm:
Xây dựng hệ thống quan điểm phát triển, xác định quan điểm nhiệm vụ tổng
quan và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc trong
giai đoạn 5 năm. Các mục tiêu kế hoạch 5 năm thƣờng hƣớng tới, bao gồm: Mục
tiêu tăng trƣởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; mục tiêu ổn định tài chính
quốc gia tăng khả năng và tiềm lực tài chính, xử lý hài hòa tích lũy với tiêu dùng,
tăng khả năng đầu tƣ kiềm chế và khống chế lạm phát, bảo đảm giá trị đồng tiền, cải
thiện cán cân thanh toán, tăng khả năng kinh tế đối ngoại, xuất – nhập khẩu và thu
hút nguồn vốn bên ngoài; bảo đảm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, phát triển
dân trí và nâng cao phúc lợi xã hội.
Để thực hiện các mục tiêu trên, nhất là xác định các chỉ tiêu kế hoạch cần
phải dự báo nhiều phƣơng án khác nhau, việc lựa chọn phƣơng án cần trên cơ sở
mục tiêu đặt ra, gắn cụ thể với khả năng nguồn lực và theo quan điểm chủ động
khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế đa phần sở
hữu và mở cửa hội nhập.
1.3. Xây dựng các cân đối vĩ mô và giải pháp lớn
Thứ nhất, là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu tƣ, cân đối
xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua toàn xã hội; xác định
khả năng thu hút vốn cả trong và ngoài nƣớc, đồng thời xác định những quan hệ lớn
về phân bổ đầu tƣ giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh
vực văn hóa, xã hội; xác định quan hệ cung cầu một số hàng hóa chủ yếu.
2. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm
Một nội dung quan trọng không thể thiếu của kế hoạch nói chung và kế
hoạch 5 năm nói riêng đó là xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu trong kế
hoạch phát triển đƣợc hiểu là thƣớc đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt đƣợc trong thời kỳ
kế hoạch. Các thƣớc đo này thể hiện cả về số lƣợng và chất lƣợng. Nó cho phép xác
định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế, các bộ phận cấu thành cụ thể
của nó và đƣợc Nhà nƣớc sử dụng dể thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế. Có
nhiều cách phân loại hệ thống chỉ tiêu kế hoạch:
- Đứng trên góc độ phạm vi tính toán, hệ thống chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu
kế hoạch quốc gia nhƣ: Chỉ tiêu phản ánh chƣơng trình phát triển kinh tế đất nƣớc,
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
các dự báo kinh tế-xã hội, các chỉ tiêu của hệ thống tài khoản quốc gia, nguồn ngân
sách Chính phủ và tài chính Nhà nƣớc. Các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, thành phố
bao gồm các chỉ tiêu phản ánh chƣơng trình phát triển của các vùng và ngân sách
địa phƣơng. Hệ thống các chỉ tiêu phát triển của từng ngành, nội bộ ngành nhƣ công
nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông, bƣu chính viễn thông…
- Đứng trên góc độ nội dung, hệ thống chỉ tiêu đƣợc chia thành các chỉ tiêu
phát triển kinh tế và các chỉ tiêu phát triển xã hội. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế đặt
ra nhiệm vụ về tăng trƣởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những cân đối
nguồn lực chủ yếu. Ví dụ, trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 của nƣớc ta, các chỉ
tiêu kinh tế đƣợc đƣa ra: Tổng sản phẩm trong nƣớc GDP năm 2010 theo giá so
sánh gấp 2,1 lần năm 2000; tốc độ tăng trƣởng GDP đạt 7,5-8%/năm, phấn đấu đạt
trên 8%/năm; GDP bình quân đầu ngƣời theo giá hiện hành đạt tƣơng đƣơng 1.0501.100USD; kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 16%/năm; tỷ lệ huy động GDP hàng
năm vào ngân sách đạt 21-22%/năm; vốn đầu tƣ vào xã hội hàng năm đạt khoảng
40%GDP…
Các chỉ tiêu văn hóa- xã hội đƣa ra các mục tiêu giải quyết các vấn đề nhƣ:
Xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, phát triển y tế giáo dục, khoa học-công nghệ
và các mục tiêu xã hội khác. Trong kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội 20062010 một số chỉ tiêu nhƣ: Tốc độ phát triển dân số khoảng 1,14%; lao động nông
nghiệp chiếm dƣới 50% lao động xã hội; tạo việc làm cho trên 8 triệu lao động; tỉ lệ
thất nghiệp đô thị dƣới 5%; tạo việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp
ở đô thị dƣới 5%, tỷ lệ hộ nghèo còn 10-11%, hoàn thành phổ cập giáo dục trung
học cơ sở; lao động đã qua đào tạo chiếm 40% tổng lao động xã hội, tỷ lệ trẻ em suy
dinh dƣỡng dƣới 5 tuổi xuống dƣới 20%...
Để thực hiện sự gắn bó giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, hiện
nay ngƣời ta thƣờng đặt ra các chỉ tiêu lồng ghép. Các chỉ tiêu lồng ghép đảm bảo
thể hiện đƣợc cả hai yêu cầu trong một chỉ tiêu. Ví dụ chỉ tiêu thu nhập bình quân
trên đầu ngƣời, nhu cầu việc làm mới v..v..
- Đứng trên góc độ quản lý, hệ thống kế hoạch có chỉ tiêu pháp lệnh, chỉ
tiêu hƣớng dẫn và chỉ tiêu dự báo. Chỉ tiêu pháp lệnh đƣợc Quốc hội và Chính phủ
phê duyệt và trở thành bắt buộc phải hoàn thành trong thời kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu
hƣớng dẫn thƣờng mang tính định hƣớng hoạt động của các ngành, địa phƣơng, các
đơn vị kinh tế và dùng để phân tích, so sánh đánh giá mức độ phát triển của các đối
tƣợng kế hoạch hoá. Các chỉ tiêu dự báo ở tầm vĩ mô làm cơ sở luận chứng cho các
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chỉ tiêu pháp lệnh phê chuẩn và đƣợc xem nhƣ các số liệu, thông tin kinh tế cho các
đơn vị kinh tế, các ngành, địa phƣơng và các cơ quan có liên quan tham khảo.
- Theo phạm vi đơn vị đo lƣờng, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch gồm có các chỉ
tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. Chỉ tiêu hiện vật xác định mặt vật chất của sản xuất,
đƣợc đo lƣờng bằng các đơn vị đo hiện vật nhƣ: Cái, trọng lƣợng, kích thƣớc, dung
tích v..v.. Chỉ tiêu hiện vật có tác dụng xác định cụ thể quy mô của sản xuất và dịch
vụ, nó đƣa ra khả năng thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa mục tiêu sản xuất sản
phẩm với khối lƣợng nhu cầu cung cấp các hàng hoá trung gian. Chỉ tiêu giá trị đo
lƣờng các nhiệm vụ, mục tiêu và quy mô phát triển của nền kinh tế dƣới hình thái
tiền tệ, nó đƣợc sử dụng để hình thành các cân đối vĩ mô, các con số phản ánh tổng
hợp nội dung phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hƣớng phát triển của
các ngành, vùng v..v..
- Ngoài các cách phân loại chủ yếu trên, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch còn đƣợc
chia thành chỉ tiêu tƣơng đối và chỉ tiêu tuyệt đối; chỉ tiêu phản ánh chất lƣợng và
số lƣợng. Tất cả các chỉ tiêu đều góp phần tăng cƣờng tính định lƣợng trong kế
hoạch hoá phát triển. Tuy vậy, để thích ứng với các điều kiện thƣờng xuyên biến đổi
của kinh tế thị trƣờng và theo yêu cầu phát triển ngày càng cao của đời sống, xã hội,
các kế hoạch phát triển hiện nay đặt trọng tâm vào các chỉ tiêu xã hội, các chỉ tiêu
giá trị, cá chỉ tiêu mang tính chất hƣớng dẫn và dự báo.
3. Một số phƣơng pháp xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm phát triển
kinh tế - xã hội
3.1. Phương pháp truyền thống
Xây dựng và quản lý các kế hoạch 5 năm theo phƣơng pháp truyền thống đã
đƣợc áp dụng từ rất lâu trong hệ thông kinh tế xã hội chủ nghĩa, và ngày nay nền
kinh tế nƣớc ta vẫn còn áp dụng dƣới những hình thức khác nhau. Đặc trƣng của
phƣơng pháp này, nhƣ chúng ta đã biết, đó là: khoảng thời gian của thời kỳ 5 năm là
cố định (ví dụ: kế hoạch 5 năm 2006-2010; 2011-2015); thích ứng với khoảng thời
gian cố định, chỉ tiêu kế hoạch đƣợc xây dựng một lần cho cả thời kỳ 5 năm, các
mục tiêu phát triển thƣờng là con số bình quân hàng năm hoặc tính cho năm cuối
của kỳ kế hoạch. Mô hình trên hoàn toàn phù hợp trong thời kỳ kế hoạch hoá tập
trung với nền kinh tế kế hoạch khá ổn định, quá trình phát triển sau đƣợc xem nhƣ
là “quá trình trƣớc cộng thêm một bƣớc”; kinh tế trong nƣớc là một tổng thể thống
nhất bao gồm thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là chủ yếu, các mối quan hệ kinh
tế quốc tế cũng đƣợc xác định trƣớc theo kế hoạch chung của hội đồng tƣơng trợ
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
kinh tế. Tuy vậy, nếu nhìn nhận ở góc độ chức năng của kế hoạch trong nền kinh tế
thị trƣờng là điều tiết các quan hệ thị trƣờng, kế hoạch khắc phục các khuyết tật của
thị trƣờng, bổ sung và hƣớng thị trƣờng hoạt động theo mục tiêu của xã hội thì
phƣơng pháp truyền thống tỏ ra có nhiều hạn chế. Chỉ tiêu kế hoạch xây dựng một
lần cho cả thời kỳ 5 năm sẽ không cập nhật đƣợc các biến động của thị trƣờng; sự
thay đổi môi trƣờng kinh tế trong nƣớc và quốc tế làm cho các con số kế hoạch trở
lên lạc hậu, thiếu tính linh hoạt và khả năng hiệu chỉnh. Việc quản lý và điều hành
vĩ mô nền kinh tế quốc dân vì thế mà trở nên cứng nhắc, kém hiệu quả, thậm chí sai
lệch. Những căn bệnh nhƣ: chủ quan, duy ý chí hoặc quan liêu sẽ xảy ra. Hơn nữa
không phải chƣơng trình dự án hoặc chính sách nào cũng đƣợc xây dựng và triển
khai bó gọn trong một thời kỳ 5 năm nhất định. Khi các chính sách, chƣơng trình có
sự gối đầu từ kế hoạch 5 năm này sang kế hoạch 5 năm khác thì cách xây dựng kế
hoạch theo thời kỳ cố định sẽ khó phản ánh đƣợc tính liên tục trong mục tiêu hoạt
đông và cân đối ngân sách cho các chính sách, chƣơng trình đó.
3.2. Phương pháp “cuốn chiếu”
Đối với Việt Nam đây là một phƣơng pháp còn rất mới mặc dù phƣơng pháp
này đã đƣợc sử dụng phổ biến từ rất lâu ở các nƣớc phát triển. Đặc biệt ở Pháp,
Nhật Bản, Cộng hoà liên bang Đức, Ôxtrâylia, mô hình kế hoạch hoá "cuốn chiếu"
đƣợc áp dụng rộng rãi cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng và thực hiện
các kế hoạch phát triển kinh tế –xã hội của các quốc gia này. Sự khác biệt của
phƣơng pháp này so với kế hoạch hoá kiểu truyền thống thể hiện ở các điểm chủ
yếu sau:
Thứ nhất, thời kỳ kế hoạch 5 năm không cố định mà đƣợc thay đổi theo kiểu
cuốn chiếu sau mỗi năm kế hoạch. Khi một năm thực hiện kế hoạch qua đi thì một
năm kế hoạch mới lại đƣợc đƣa vào khuôn khổ trung hạn. Ví dụ nhƣ kế hoạch
2006-2010 rồi đến kế hoạch 2006-2011, v..v..
Thứ hai, các con số kế hoạch đƣợc tính theo những mục tiêu tổng thể, bao
gồm kế hoạch chính thức cho một năm hiện hành, kế hoạch dự tính cho năm tiếp
theo và dự báo cho kế hoạch ba năm còn lại. Mức độ chi tiết cụ thể và chính xác của
các con số kế hoạch các năm sau phụ thuộc vào số lƣợng, độ tin cậy và khả năng
cập nhật thông tin.
Thứ ba, cuối mỗi năm của thời kỳ kế hoạch, trên cơ sở kết quả thực hiện kế
hoạch và những dự báo, thông tin mới, quá trình xây dựng kế hoạch 5 năm thời kỳ
cuốn chiếu mới lại đƣợc thực hiện với các nội dung: xây dựng kế hoạch chính thức
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
cho năm tiếp theo (năm đầu của thời kỳ mới); điều chỉnh và chính xác hoá thêm cho
những dự báo kế hoạch của năm thứ 2,3,4 và dự báo sơ bộ kế hoạch năm cuối cùng
(năm thứ 5 của thời kỳ mới). Đi kèm theo các chỉ tiêu kế hoạch là những dự kiến về
cơ hội, thách thức của thời kỳ kế hoạch và những kiến nghị, giải pháp cụ thể phù
hợp với các diễn biến xảy ra.
Phƣơng pháp "cuốn chiếu" với các nội dung tổng quát nêu trên sẽ khắc phục
đƣợc tính nhất thời và không phù hợp mục tiêu kế hoạch với sự đổi thay thƣờng
xuyên của môi trƣờng. Theo phƣơng pháp này việc xây dựng và triển khai kế hoạch
5 năm sẽ không còn mang tính chất “thời vụ” mà nó tiếp tục đƣợc thời sự hóa để
phù hợp với hoàn cảnh và những yêu cầu mới đặt ra. Các chỉ tiêu kế hoạch sẽ đủ độ
tin cậy cho các nhà quản lý và lãnh đạo sử dụng với tƣ cách là công cụ định hƣớng
vĩ mô nền kinh tế quốc dân, làm cho kế hoạch thực hiện tốt chức năng tổ chức can
thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế thị trƣờng, đƣơng đầu với khó khăn, biến động
bất thƣờng từ thế giới bên ngoài. Ngoài ra, do các khuôn khổ 5 năm kế hoạch 5 năm
kế tiếp nhau luôn có 4 năm kế hoạch trùng nhau nên tính liên tục giữa các kế hoạch
5 năm, các chính sách, chƣơng trình đƣợc thực hiện gối đầu giữa các kế hoạch đó sẽ
đƣợc đảm bảo.
Tóm lại xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm theo mô hình "cuốn chiếu" là
thực sự thích ứng trong điều kiện kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế. Tuy vậy,
đây là một hƣớng tiếp cận rất mới. Để vận dụng thành công phƣơng pháp này ở
Việt Nam, phải có sự chuẩn bị về mọi mặt.
III. THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ TRONG QUY TRÌNH KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI3
1. Khái niệm theo dõi và đánh giá
1.1. Theo dõi
Theo dõi có nghĩa là “nhìn” phát hiện những thứ gì đang tồn tại, và tìm ra
đƣợc những gì đang thực sự diễn ra. Đây chủ yếu là một quy trình nội bộ của hoạt
động quản lý, đƣợc tiến hành nhằm theo dõi các quá trình một cách thƣờng xuyên
trong suốt thời gian thực hiện một dự án, chƣơng trình hay kế hoạch.
Theo dõi là một quá trình thu thập dữ liệu, tình hình một cách có hệ thống về
những chỉ số cụ thể liên quan đến một hoạt động phát triển đang đƣợc thực hiện, để
3
Trích nguồn: Giáo trình kế hoạch hóa phát triển, Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
những ngƣời quản lý và các đối tƣợng liên quan có đƣợc thông tin về tiến độ thực
hiện các mục tiêu đề ra và sử dụng các nguồn lực đƣợc phân bố.
Có hai hình thức theo dõi phổ biến là:
Theo dõi theo hình thức tuân thủ: để đảm bảo rằng các hành động đã dự
kiến phải đƣợc thực hiện.
Theo dõi theo tác động: để đo lƣờng tác động của một hoạt động đối với việc
đạt đƣợc các mục tiêu đã đề ra.
1.2. Đánh giá
Đánh giá có nghĩa là việc xác định, phản ánh kết quả của những gì đã đƣợc
thực thi, và xét đoán giá trị của chúng. Đánh giá có thể đƣợc thực hiện bởi những
ngƣời có trách nhiệm quản lý hay bởi những ngƣời bên ngoài có liên quan.
Đánh giá là một quá trình tổng hợp, phân tích một cách có hệ thống một dự
án, chƣơng trình hay một kế hoạch đang đƣợc thực hiện hoặc đã kết thúc, bao gồm
đánh giá từ việc lập kế hoạch, thiết kế chƣơng trình, dự án đến quá trình thực hiện
và kết quả của quá trình thực hiện.
Xét theo quy trình xây dựng và thực hiện kế hoạch, đánh giá đƣợc phân
thành 3 loại chính:
- Đánh giá giữa kỳ: là việc đánh giá định kỳ tiến độ thực hiện kế hoạch kiểm
tra tính phù hợp và khả năng tạo ra những đầu ra hoặc tác động ảnh hƣởng, mong
đợi của kế hoạch. Đánh giá giữa kỳ còn giúp kiểm tra xem các giả thiết đã nêu trong
kế hoạch có giữ nguyên giá trị hay không, nếu không thì giải thích tại sao cần
khuyến nghị các điều chỉnh để đảm bảo đạt đƣợc các mục tiêu tổng quát và các chỉ
tiêu kế hoạch đề ra.
- Đánh giá cuối kỳ: là đánh giá đƣợc tiến hành khi kết thúc kỳ kế hoạch
nhằm đánh giá các kết quả đạt đƣợc, tổng kết toàn bộ quá trình thực hiện rút ra kinh
nghiệm, xem xét khả năng điều chỉnh kế hoạch kỳ tiếp theo nhằm đảm bảo mục tiêu
trung hạn và dài hạn.
- Đánh giá tác động: là đánh giá đƣợc tiến hành tại một thời điểm thuận lợi
sau khi kết thúc kỳ kế hoạch, xem xét việc thực hiện kế hoạch có tạo ra đƣợc tác
động nhƣ mong muốn hay không, tức là đánh giá hiệu lực của kế hoạch.
2. Vai trò của theo dõi và đánh trong quy trình kế hoạch hóa phát triển
kinh tế-xã hội
Theo dõi và đánh giá có vai trò rất quan trọng trong quá trình tổ chức thực
hiện các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Theo dõi cho phép các cấp chính quyền (chính phủ hoặc chính quyền địa
phƣơng) nắm bắt kịp thời tình hình triển khai thực hiện các mục tiêu kế hoạch đề ra,
từ đó đƣa ra các quyết định quản lý phù hợp nhằm đảm bảo quá trình thực hiện diễn
ra theo đúng kế hoạch. Không có thông tin theo dõi hoặc theo dõi không hiệu quả sẽ
dẫn đến nguy cơ các hành động thực tế đi chệch hƣớng so với dự kiến, từ đó dẫn
đến nguy cơ các mục tiêu kế hoạch không đƣợc thực hiện. Những phát hiện từ quá
trình theo dõi là thông tin đầu vào không thể thiếu cho việc điều hành quản lý một
cách có hiệu quả.
Đánh giá không chỉ cho nhà quản lý địa phƣơng biết đƣợc tình hình thực tế
thực hiện các mục tiêu kế hoạch, mà cách đánh giá còn phân tích các nguyên nhân
của những (sai lệch nếu có) đƣợc phát hiện trong quá trình theo dõi. Việc hiểu rõ
các nguyên nhân đó mang lại cơ hội cho các cấp chính quyền địa phƣơng học hỏi,
rút ra bài học và kinh nghiệm đồng thời qua đó tổ chức thực hiện các giai đoạn tiếp
theo của kế hoạch một cách hiệu quả hơn.
Nhƣ vậy theo dõi và đánh giá là hai quá trình có liên quan mật thiết và không
thể thiếu đối với các cấp chính quyền, không chỉ trong quá trình điều hành thực hiện
hoạt động của một kỳ kế hoạch mà còn cả cho quá trình lập kế hoạch cho các kỳ
tiếp theo của tƣơng lai.
3. Các phƣơng pháp theo dõi và đánh giá
3.1. Theo dõi và đánh giá thực hiện
Theo dõi thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là việc thu thập một
cách có hệ thống những thông tin về quá trình triển khai thực hiện các mục tiêu
nhiệm vụ đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Đánh giá thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là việc xem xét mức độ
thực hiện các nhiệm vụ hay mục tiêu cụ thể nào đó trong kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội theo từng giai đoạn thực hiện hoặc khi kết thúc kỳ kế hoạch và từ đó rút ra
bài học cho việc lập các kế hoạch tiếp theo.
Chủ thể của theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là các cấp
lãnh đạo, điều hành kế hoạch và các bên có liên quan. Đối tƣợng của theo dõi và
đánh giá là quá trình thực hiện kế hoạch với chủ yếu là các hoạt động đầu vào, đầu
ra.
Theo dõi và đánh giá là hai hoạt động độc lập nhƣng có tác dụng hỗ trợ lẫn
nhau. Hoạt động theo dõi thu thập thông tin về tình hình thực hiện từng mục tiêu kế
hoạch. Xét về hiệu quả, nếu làm tốt công tác theo dõi thì có thể phòng chống tốt các
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
rủi ro có thể phát sinh và đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu đề ra hoặc kịp thời
điều chỉnh mục tiêu kế hoạch nào đó nếu có nguy cơ không đạt hay có diễn biến bất
thƣờng trong nền kinh tế.
2.2. Theo dõi đánh giá dựa trên kết quả
Theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả là một quá trình liên tục thu thập và
phân tích số liệu về chỉ số theo dõi để so sánh với các kết quả dự định, xem xét mức
độ thực hiện của các mục tiêu kế hoạch mà còn xem xét kết quả và tác động của
thực hiện kế hoạch dựa trên mối liên hệ logic giữa các chỉ số giám sát.
Cơ sở của theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả là lý thuyết về quản lý dựa
trên kết quả phát triển. Quản lý dựa trên kết quả phát triển là một chiến lƣợc hay
phƣơng pháp quản lý mà tổ chức sử dụng để đảm bảo rằng các hoạt động, sản phẩm
dịch vụ của mình góp phần vào việc đạt đƣợc kết quả mong muốn.
IV. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÓA NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ
MÔI TRƢỜNG
1. Khái niệm về kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trƣờng
"Kinh tế hoá", "tài chính hoá" từ một thuật ngữ kinh tế học, gần đây đã đƣợc
Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng đề cập nhƣ một chủ trƣơng, định hƣớng
phát triển của ngành tài nguyên và môi trƣờng nƣớc ta. Việc thực hiện chủ trƣơng
ấy sẽ tạo ra quá trình chuyển biến căn bản các quan hệ hành chính trong lĩnh vực tài
nguyên và môi trƣờng thành các quan hệ kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa.
Thuật ngữ “kinh tế hóa” tuy không còn mới lạ nhƣng việc kinh tế hóa ngành
tài nguyên môi trƣờng ở nƣớc ta nói chung và ngành tài nguyên môi trƣờng nói
riêng vẫn còn mới mẻ. Xung quanh việc định nghĩa kinh tế hóa ngành tài nguyên và
môi trƣờng có nhiều ý kiến. Theo Sở Tài nguyên và Môi trƣờng Cao Bằng: “Kinh tế
hoá, tài chính hoá là quá trình chuyển hoá các thành tố tài nguyên và môi trường từ
trạng thái là tài nguyên thiên nhiên trở thành tài sản quốc dân”
Theo Vụ Kế hoạch, Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng phân tích trên khía cạnh
chủ trƣơng đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trƣờng, dựa trên tham
khảo kinh nghiệm các nƣớc và gắn liền điều kiện thực tế Việt Nam, kinh tế hóa
ngành tài nguyên và môi trƣờng đƣợc hiểu nhƣ sau: “Kinh tế hóa ngành tài nguyên
và môi trường là quá trình hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ
môi trường từ cơ chế quản lý còn nặng tính hành chính, bao cấp kém hiệu quả sang
cơ chế quản lý hiệu quả hơn dựa trên những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
trường, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm
nâng tầm đóng góp và vị thế của ngành tài nguyên và môi trường trong nền kinh tế
quốc dân, hướng tới phát triển bền vững ở nước ta”
2. Bản chất kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trƣờng
2.1. Là quá trình chuyển đổi đòi hỏi bộ máy quản lý nhà phải có những thay
đổi cơ bản trong cơ chế quản lý, con ngƣời và tổ chức, phƣơng thức điều hành nền
kinh tế, đảm bảo giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế trên cơ sở vận dụng
đúng các quy luật khách quan của kinh tế thị trƣờng, các nguyên lý kinh tế đã đƣợc
đúc kết, đồng thời phát huy tối đa vai trò điều tiết của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa
trong các lĩnh vực mà nền kinh tế thị trƣờng không tự vận hành tốt, phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh của nƣớc ta.
2.2. Đó là quá trình chuyển hoá các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đƣợc tài
sản hoá thành hàng hoá cung cấp cho thị trƣờng và trở thành nguồn vốn quan trọng
của các thành phần kinh tề sở hữu chúng, nhờ đó mà vốn đầu tƣ toàn xã hội ngày
càng gia tăng.
2.3. Đó là quá trình tạo lập và nuôi dƣỡng nguồn thu ngân sách nhà nƣớc
thông qua việc đƣa các nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu nhà nƣớc vào lƣu
thông trên thị trƣờng.
3. Đặc điểm kinh tế hóa
3.1. Công cụ của kinh tế hóa ngành là thuế, phí, lệ phí
Kinh nghiệm thế giới cho thấy đóng góp chính của khu vực “tài nguyên và
môi trƣờng” cho ngân sách là thuế đất đai, các loại thuế/phí môi trƣờng, thuế khai
thác, sử dụng tài nguyên và một số hình thức thu khác. Tùy theo từng quốc gia và
từng giai đoạn khác nhau mà cách thức và phần đóng góp này là khác nhau. Đối với
các nƣớc có hình thức sở hữu tƣ nhân về đất đai, tài nguyên thì họ chỉ thu thuế, phí.
Còn các nƣớc có chế độ sở hữu nhà nƣớc về tài nguyên thiên nhiên thì ngoài thu
thuế, phí còn các khoản thu về giao quyền sử dụng, cho thuê đất đai, tài nguyên. Số
thu từ bán, cho thuê đất đai, tài nguyên rất lớn so với thuế, phí. Tuy nhiên, những
khoản thu này không bền vững nhƣ thuế, phí vì đất, tài nguyên đều có giới hạn và
không thể tái tạo đƣợc. Đây cũng chính là điểm khác nhau giữa quan hệ sở hữu ảnh
hƣởng đến định đoạt nguồn thu của các nƣớc có chế độ sở hữu đất đai, tài nguyên
khác nhau. Có thể tóm tắt về các lĩnh vực nhƣ sau:
(1) Từ đất đai: Thuế đất đai là một loại thuế có nguồn gốc lâu đời và tồn tại
tất cả mọi nơi trên thế giới. Mặc dù không phải chiếm một tỷ trọng cao trong tổng
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
GDP và tổng nguồn thu quốc gia những năm gần đây, thuế đất đai mới đƣợc sử
dụng nhƣ là một công cụ hữu hiệu để tăng nguồn thu và giúp cân đối ngân sách, đặc
biệt tại các quốc gia đang phát triển. Theo IMF (2006), trên toàn thế giới, thuế đất
chiếm trung bình khoảng 2% tổng GDP và 12% tổng thu từ tất cả các loại thuế.
Riêng tại các nƣớc đang chuyển đối, thuế đất chiếm khoảng 0.95% GDP và 7.2%
tổng thu từ thuế.
(2) Từ môi trường: Trong các nhóm thuế/ phí môi trƣờng, nhìn chung phần
đóng góp từ khu vực giao thông chiếm phần lớn trong tổng doanh thu thuế mà chủ yếu
là từ thuế xăng, dầu diezen và phƣơng tiện gắn máy (ô tô, xe máy khi mua mới phải
đóng thuế môi trƣờng). Có hai xu hƣớng trong những năm gần đây là việc áp dụng mới
các loại thuế liên quan đến chất thải rắn, đồng thời suất thuế cho chất thải rắn cũng tăng
(do việc quản lý chất thải rắn ngày càng trở nên khó khăn và tốn kém hơn).
Một số loại thuế/phí ô nhiễm môi trƣờng phổ biến bao gồm: phí gây ô nhiễm
không khí, thuế carbon, thuế lƣu huỳnh, phí gây suy thoái tầng ôzôn, phí nƣớc thải,
thuế bãi rác (lanfill taxes), thuế xăng dầu, thuế sử dụng khí gas, thuế môi trƣờng khi
tiêu dùng điện, thuế môi trƣờng khi sản xuất điện, thuế môi trƣờng do dùng bếp và
năng lƣợng sinh học, thuế đăng ký phƣơng tiện ô tô, xe máy, máy bay.
(3) Từ tài nguyên khác: Tất cả mọi quốc gia đều khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên rừng, khoáng sản, thủy sản, nƣớc mặt, nƣớc ngầm để phát triển
kinh tế, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Ở các nƣớc đang phát triển, đặc
biệt là đối với ngƣời nghèo, cuộc sống dựa vào thiên nhiên là chính thì những tài
nguyên này càng có vai trò quan trọng (rừng, thủy sản). Nhƣ vậy, vai trò quản lý tài
nguyên của khu vực chính phủ rất quan trọng nhằm giúp duy trì đƣợc sinh kế lâu
dài, giảm nghèo và sử dụng bền vững tài nguyên.
Thu thuế khai thác tài nguyên là một công cụ đang đƣợc sử dụng phổ biến để
đạt các mục tiêu trên. Việc xác định thuế tài nguyên cho từng loại cụ thể nói chung
là khá phức tạp nhƣng nguyên tắc chung là dựa trên lợi nhuận mà đơn vị khai thác
thu về, các chi phí xã hội từ việc khai thác tài nguyên và hệ thống quyền tài sản áp
dụng cho từng đối tƣợng.
Doanh thu từ thuế tài nguyên cũng là một nguồn thu đáng kể tại nhiều quốc
gia đang phát triển hiện nay. Một mặt tạo ra doanh thu cho chính phủ, mặt khác hạn
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chế các hành vi khai thác không hiệu quả, tạo ra động lực sử dụng tài nguyên bền
vững hơn. 4
3.2 Kinh tế hóa có các cơ chế liên quan đến trách nhiệm pháp lý như tiền
phạt, kí quỹ, đặt cọc, bồi thường, hoàn trả, bồi thường thiệt hại
(1) Phạt vi phạm: Tiền phạt là những khoản trả trực tiếp của nguời gây ô
nhiễm khi họ không tuân theo qui định môi trƣờng. Khoản tiền này thƣờng là doanh
thu của các quỹ công (hoặc quĩ môi trƣờng) và đƣợc sử dụng vào các dự án và đầu
tƣ môi trƣờng. Tuy nhiên vấn đề khung phạt nhƣ thế nào lại là một vấn đề nhạy
cảm. Phí phạt phải đủ cao để ngƣời gây ra tác động ô nhiễm môi trƣờng giảm thiểu
hành vi gây tác hại đến môi trƣờng. Cơ chế này thực tế đòi hỏi việc quan trắc, thanh
tra và cơ chế quản lý tốt.
(2) Ký quỹ: Đây là cơ chế tài chính trong đó một khoản đặt cọc mà ngƣời gây
ra ô nhiễm môi trƣờng hay tổn thất tài nguyên phải hoàn trả để cam đoan việc tuân
thủ các yêu cầu về tài nguyên và môi trƣờng. Khoản tiền đặt cọc này sẽ đƣợc trả lại
nếu tuân thủ hoàn tất các quy định nhƣ đã cam kết.
(3) Bồi thường thiệt hại: Hệ thống này đảm bảo rằng khoản bồi thƣờng sẽ
đƣợc trả cho thiệt hại gây ra phát sinh từ hoạt động gây ô nhiễm. Khoản tiền này có
thể trả trực tiếp cho nạn nhân (chịu ô nhiễm) hoặc cho chính phủ hoặc cho một quĩ
đặc biệt (quĩ tràn dầu…).
(4) Hệ thống đặt cọc- hoàn trả: Ý tƣởng chính của hệ thống đặt cọc- hoàn trả
là làm cho cá nhân xả thải có trách nhiệm chịu chi phí và có động cơ tái sử dụng và
thu hồi sản phẩm, phế phẩm sau khi đã sử dụng. Trong cơ chế này thì một khoản
tiền đặt cọc thêm vào đƣợc chi trả khi mua sản phẩm. Sau đó khoản tiền này sẽ
đƣợc trả lại khi sản phẩm đã qua sử dụng đƣợc đem trả lại cho nhà sản xuất.
3.3. Lượng giá và buộc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
Trong những năm gần đây lĩnh vực kinh tế môi trƣờng đã nâng cao khả năng
tính toán chi phí kinh tế của việc suy thoái tài nguyên và môi trƣờng. Áp dụng
những thành tựu này nhiều quốc gia đã tiến hành tính toán chi phí thiệt hại do môi
trƣờng gây ra. Bảng 1 tóm tắt lại kết quả của thiệt hai về kinh tế của một quốc gia.
4
Nguồn: www.monre.gov.vn
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368