TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG & AN NINH HÀ NỘI 2
**********************
NGUYỄN NHƯ THỊ THẢO ANH
PHÁT HUY DÂN CHỦ CƠ SỞ VỚI
SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG VÀ AN NINH TẠI TRUNG
TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN
NINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HÀ NỘI 2
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành : Giáo dục quốc phòng và an ninh
HÀ NỘI - 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG & AN NINH HÀ NỘI 2
*******************
NGUYỄN NHƯ THỊ THẢO ANH
PHÁT HUY DÂN CHỦ CƠ SỞ VỚI SINH
VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG VÀ AN NINH TẠI TRUNG
TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN
NINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HÀ NỘI 2
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành : Giáo dục quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học
ThS . TRỊNH VĂN TÚY
Hà Nội - 2018
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Thượng tá Thạc sĩ
Trịnh Văn Túy đã tận tình dạy dỗ, hướng dẫn và động viên em trong quá trình
thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Trung tâm Giáo dục
quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã dạy dỗ em
trưởng thành trong suốt thời gian học tập tại Trung tâm, đã tạo điều kiện và
đóng góp những ý kiến quý báu giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn tạo mọi
điều kiện, động viên và giúp đỡ em trong suốt quãng thời gian học tập và quá
trình thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Như Thị Thảo Anh
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân em.
Những kết quả thu được hoàn toàn chân thực và chưa có đề tài nào
nghiên cứu.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Như Thị Thảo Anh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
1
Giáo dục quốc phòng và an ninh
GDQP&AN
2
Học sinh, sinh viên
HSSV
3
Chủ nghĩa tư bản
CNTB
4
Dân chủ tư sản
DCTS
5
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
6
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
7
Giai cấp công nhân
GCCN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 3
4.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 3
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết ............................................................ 3
5.2. Phương pháp nghiên cứu cơ bản ................................................................ 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn....................................................................... 3
6.1. Ý nghĩa khoa học ....................................................................................... 3
6.2. Ý nghĩa thực tiễn ........................................................................................ 3
Chương 1 ........................................................................................................... 5
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DÂN CHỦ .................................................. 5
VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ .................. 5
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA DÂN CHỦ ........................................ 5
1.1.1. Cơ sở lí luận của vấn đề dân chủ ............................................................ 5
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề dân chủ ........................................................ 8
1.1.3. Quá trình hình thành và phát triển dân chủ ............................................. 9
1.2. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ .... 14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 19
Chương 2 ......................................................................................................... 20
THỰC TRẠNG, BIỆN PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ CƠ SỞ ĐỐI VỚI
SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TẠI
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2............................................................................ 20
2.1. THỰC TRẠNG DÂN CHỦ CƠ SỞ CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO
DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH............................................................. 20
2.1.1. Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ - nhân quyền để chống
phá cách mạng Việt Nam và sự tác động ảnh hưởng đối với sinh viên Việt
Nam ................................................................................................................. 20
2.1.2. Thực trạng vấn đề dân chủ cơ sở đối với sinh viên chuyên ngành Giáo
dục Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và An ninh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. ............................................................... 22
2.1.3. Bảng khảo sát ý thức sinh viên chuyên ngành Giáo dục Quốc phòng và
An ninh tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và An ninh Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 về vấn đề dân chủ cơ sở ......................................................... 24
2.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ CƠ SỞ ĐỐI VỚI SINH
VIÊN CHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TẠI
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2............................................................................ 27
2.2.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp phát huy dân chủ cơ sở đối với sinh
viên chuyên ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm Giáo dục
Quốc phòng và An ninh Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2. ........................ 27
2.2.2. Yêu cầu của các biện pháp phát huy dân chủ cơ sở đối với sinh viên
chuyên ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm Giáo dục Quốc
phòng và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 .................................. 29
2.2.3. Các biện pháp phát huy dân chủ cơ sở đối với sinh viên chuyên ngành
Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và An
ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. ....................................................... 29
2.2.3.1. Phát huy vai trò của các tổ chức trong Trung tâm Giáo dục Quốc
phòng và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội...................................... 29
2.2.3.2. Phát huy dân chủ cơ sở cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục quốc
phòng và An ninh thông qua học tập trên lớp ................................................. 31
2.2.3.3. Phát huy dân chủ cơ sở cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục Quốc
phòng và An ninh thông qua các hoạt động ngoại khóa ................................ 33
2.2.3.4. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội để phát huy dân
chủ cơ sở cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 ................................................................ 38
2.2.3.5. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho sinh viên chuyên
ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng
và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 ............................................. 39
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 41
KẾT LUẬN .................................................................................................... 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 43
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ xã hội chủ nghĩa góp phần quyết định thành công trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó nhân dân
là chủ thể xã hội, động lực trực tiếp xây dựng, thực hành dân chủ, quyết định
xu hướng, tiến trình và kết quả của dân chủ hoá. Vì vậy phát huy dân chủ,
khách quan, đúng luật ở cơ sở là nội lực quan trọng giúp sinh viên phát triển
nói chung và sinh viên chuyên ngành Giáo dục quốc phòng và an ninh nói
riêng.
Sinh viên là một bộ phận đông đảo, có lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự
hào tự tôn dân tộc, có ý thức cao, có sức khỏe, năng động, nắm bắt tiếp cận
công nghệ thông tin mới nhanh và nhạy cảm với các vấn đề chính trị xã hội.
Phát huy dân chủ cơ sở là phương pháp tốt nhất để thực hiện công việc hoặc
các công việc chuyên môn nhanh nhất hiệu quả nhất vì sẽ khơi dậy, phát huy
thế mạnh, năng lực, trách nhiệm, kinh nghiệm của tất cả các sinh viên cùng
tham gia giải quyết công việc một cách thấu đáo, toàn diện, sát thực tế, mỗi
người có chứng kiến, quan điểm riêng, lí lẽ về một vấn đề cụ thể nhưng thông
qua trao đổi, thảo luận, phản biện thì vấn đề đó sẽ được phân tích, mổ xẻ, làm
sáng rõ để thống nhất tìm phương án tốt nhất. Phát huy dân chủ thực sự sẽ đề
cao năng lực, trách nhiệm của từng sinh viên, cán bộ lớp, cán bộ đoàn, cán bộ
chi hội và người chủ trì công việc. Phát huy dân chủ là cơ hội tốt để sinh viên
có cơ hội học hỏi lẫn nhau về phương pháp, kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,
nhằm không ngừng nâng cao năng lực bản thân. Để thực sự “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” từ đó sinh viên có đóng góp lớn trong nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đặc biệt hiện nay các thế lực thù địch, phản động đang lợi dụng vấn đề
dân chủ - nhân quyền gây mất ổn định chính trị, suy giảm lòng tin vào công
cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, làm yếu kém về trình độ nhận
1
thức năng lực thực hành dân chủ tiến tới thủ tiêu nền dân chủ mới ở nước ta.
Trong đó còn tồn tại một bộ phận sinh viên xa rời đạo đức, lý tưởng cách
mạng, có lối sống thực dụng, lười học tập, rèn luyện nên dễ bị tác động bởi
mặt trái của nền kinh tế thị trường. Do nhạy cảm với cái mới trên internet, các
văn hóa phẩm đồi trụy các thế lực thù địch và lực lượng phản động sử dụng
những chiêu bài tâm lý và âm mưu lôi kéo sinh viên vào các diễn đàn, các
kênh thông tin sai lệch giật gân. Chúng khoét sâu vào các các vụ việc tham
nhũng, vụ việc tiêu cực đời sống xã hội làm một số sinh viên nhận thức kém
hoang mang dần dần bị lôi kéo kích động.
Trước những thuận lợi và thách thức mới của đất nước, dân chủ hoá trở
thành nhu cầu khách quan để phát triển đất nước. Nhất là sinh viên ngành
giáo dục Quốc phòng và An ninh đòi hỏi cần có những phẩm chất, năng lực
tương ứng. Do vậy, em chọn đề tài: “Phát huy dân chủ cơ sở đối với sinh viên
chuyên ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm Giáo dục Quốc
phòng và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2”, làm khóa luận tốt
nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu dân chủ cơ sở, đề xuất những biện pháp phát huy dân chủ
cơ sở với sinh viên ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm
Giáo dục Quốc phòng và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu nội dung, cơ sở lí luận và thực tiễn của dân chủ cơ sở
- Ảnh hưởng của dân chủ cơ sở với sinh viên ngành Giáo dục Quốc
phòng và An ninh tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và An ninh Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy dân chủ cơ sở với sinh viên
ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng
và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dân chủ cơ sở với sinh viên ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh
tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm Giáo
dục Quốc phòng và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên
ngành; các tài liệu liên quan khác để nhằm phân tích, tổng hợp thành một hệ
thống xuyên suốt những thông tin có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cơ bản
Tập trung sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp
phân tích, tổng hợp, logic, phương pháp quan sát, thống kê, so sánh, điều tra,
khảo sát, phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Củng cố thêm kiến thức nội dung, tư tưởng, biện pháp phát huy dân chủ
cơ sở đối với sinh viên chuyên ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại
Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Phát huy và vận dụng các phương pháp dân chủ cơ sở đối với sinh viên
nói chung và sinh viên chuyên ngành Giáo dục Quốc phòng và An ninh tại
Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và An ninh Trường Đại học Sư phạm Hà
3
Nội 2 nói riêng. Nếu đề tài được bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo
hữu ích cho sinh viên khóa sau.
4
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DÂN CHỦ
VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA DÂN CHỦ
1.1.1. Cơ sở lí luận của vấn đề dân chủ
Khái niệm dân chủ: Dân chủ là một hiện tượng xã hội, là một sản phẩm
của xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn lịch sử nhất định. Trải qua
các thời kỳ khác nhau, bản chất, nội dung của dân chủ cũng khác nhau. Nói về
dân chủ, Tạp chí Cộng sản, Số 16, tháng 11-1995, trong mục Tìm hiểu khái
niệm đã chỉ ra: “Xét về mặt lịch sử, khái niệm dân chủ xuất hiện rất sớm, từ
thời cổ đại. Trong ngôn ngữ của người Hy-lạp cổ đại đã xuất hiện cụm
từ Démos Kratos, trong đó démos là nhân dân, kratos là quyền lực. Như vậy,
theo nghĩa khởi thuỷ của nó, dân chủ có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân
dân. Nói cách khác, dân chủ là một khái niệm để chỉ một chế độ xã hội mà ở
đó nhân dân là chủ thể của quyền lực”. Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, dân
chủ đã không ngừng được hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của quảng đại quần
chúng nhân dân lao động trên thế giới. Tuy nhiên, việc nhận thức về dân chủ
không phải đã có sự thống nhất. Sự phát triển tri thức của con người đã làm
xuất hiện nhiều cách tiếp cận mới, khác nhau đối với phạm trù dân chủ. Dưới
góc độ nhà nước, dân chủ là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước của
một giai cấp nhất định. Dưới góc độ quan hệ xã hội, dân chủ là một hình thức
quản lý xã hội, là tính chất của mối quan hệ giữa các cộng đồng người. Dưới
góc độ pháp luật, dân chủ là quyền của công dân được làm chủ xã hội, làm
chủ nhà nước và làm chủ bản thân mình. Còn dưới góc độ văn hoá, dân chủ là
một giá trị văn hoá, là thước đo trình độ phát triển của các thiết chế, chế độ xã
hội làm cho con người ngày càng được tư do hơn… Tuy có nhiều cách nhận
thức và tiếp cận khác nhau về dân chủ, song dân chủ vẫn là một phạm trù lịch
sử phản ánh một hiện tượng xã hội, một quan hệ xã hội khách quan mà nội
dung cốt lõi của nó là khát vọng, là quyền làm chủ, quyền tự do, bình đẳng
5
của nhân dân mà cụ thể là của một giai cấp nhất định trong một xã hội xác
định.
Dân chủ là một phạm trù chính trị -xã hội vừa mang tính lịch sử vừa
mang tính giai cấp và gắn liền với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong
một giai đoạn lịch sử nhất định.
Khái niệm dân chủ xuất hiện rất sớm trong xã hội chiếm hữu nô lệ. Bản
chất của dân chủ là quyền lực của nhân dân, cùng với sự phát triển của lịch
sử, nội hàm của dân chủ cũng ngày càng được mở rộng. Dân chủ được vận
dụng vào tổ chức và hoạt động của mọi tổ chức và mọi thiết chế chính trị - xã
hội và được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội.
Dân chủ là kết quả của đấu tranh giai cấp, là một giá trị xã hội, là thước
đo của tiến bộ, văn minh xã hội, dân chủ là mục tiêu khát vọng của cá nhân,
của các dân tộc và cả nhân loại. Lịch sử phát triển xã hội là lịch sử đấu tranh
giành lấy dân chủ. Nội dung cốt lõi của dân chủ là mọi quyền lực thuộc về
nhân dân, là sự kiểm soát của nhân dân đối với toàn bộ quá trình ban hành và
thực thi các quyết định chung của chính thể nhà nước. Nguyên tắc nền tảng
của dân chủ là tập trung- dân chủ, mọi công dân đều có quyền tham gia một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả những vấn đề chung của xã hội và
được hưởng quyền tự do bình đẳng cũng như có trách nhiệm và nghĩa vụ công
dân đối với xã hội, cùng với những điều kiện để thực hiện quyền dân chủ ấy.
Đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong tuyên ngôn độc lập
ngày 2/9/1945: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.”
Theo Các Mác, để thực thi dân chủ phải có thiết chế dân chủ tức là hình
thái của nhà nước. Nhà nước là sự tự quy định của nhân dân, do nhân dân bầu
ra và bãi miễn khi cần thiết. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước bao giờ cũng
là nhà nước của giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích, quyền lợi của giai cấp đó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin xem xét vấn đề dân chủ trong mối liên hệ với
chuyên chính và không tách rời với những điều kiện vật chất kinh tế - xã hội
và cơ cấu giai cấp xã hội.
6
Dân chủ, trước hết chịu sự quy định của điều kiện kinh tế, suy cho cùng
chính nhân tố kinh tế mà trực tiếp là phương thức sản xuất là yếu tố quyết
định bản chất, trình độ, nội dung của dân chủ. Giai cấp nào nắm tư liệu sản
xuất của xã hội thì giai cấp đó thống trị xã hội và tất yếu nó quy định bản
chất, nội dung của dân chủ. Đúng như Các Mác đã chỉ rõ trong tác phẩm phê
phán cương lĩnh gô ta: “quyền không bao giờ cao hơn trạng thái kinh tế.”
Trong xã hội có giai cấp, dân chủ luôn mang tính giai cấp, dân chủ là
biểu hiện của sự chuyên chính của giai cấp thống trị với tư cách là hình thức
tổ chức nhà nước, thông qua tổ chức và quản lý nhà nước để thực hiện quyền
lực đối với xã hội. Lẽ đương nhiên,chủ thể trực tiếp của quyền lực đó trước
hết thuộc về một giai cấp hoặc lực lượng xã hội nào nắm quyền điều khiển chi
phối nhà nước và thông qua cơ quan nhà nước mà điều khiển và chi phối xã
hội. Như vậy, xét trong mối tương quan với quyền lực nhà nước và chế độ
nhà nước, dân chủ được hiểu là chế độ dân chủ, là nền dân chủ. Với ý nghĩa
này và trong mối quan hệ với chế độ dân chủ thì dân chủ mới là phạm trù lịch
sử. Hay nói cách khác, khi dân chủ được xây dựng thành chế độ quyền lực và
được tổ chức thành nhà nước thì dân chủ là một phạm trù lịch sử, và khi nhà
nước mất đi thì hình thái biểu hiện quyền lực bằng nhà nước của dân chủ
cũng mất đi, chứ không mất đi nhu cầu xã hội về dân chủ mà thực chất của
nhu cầu này là nhân dân trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền lực thuộc
về nhân dân, do nhân dân tự quản lý, tự quy định những vấn đề của chính bản
thân họ. Các giá trị dân chủ như tự do, bình đẳng, công bằng, làm chủ, sáng
tạo trở thành giá trị văn hóa của xã hội.
Trong điều kiện của chế độ người bóc lột người, kế tiếp nền dân chủ
của xã hội nô lệ và phong kiến, CNTB ra đời đã hình thành nền DCTS. DCTS
đã kích thích mạnh mẽ các nhu cầu, nguyện vọng, bình đẳng, tự do cá nhân.
Nhưng xét về thực chất, DCTS không phải là nền dân chủ cho nhân dân mà là
nền dân chủ cho thiểu số giai cấp tư sản. Chính giai cấp tư sản đã sử dụng
quyền lực nhà nước mà dân nhân uỷ quyền thông qua cái gọi là “khế ước xã
hội” để thống trị lại nhân dân. Đúng như Các Mác đã nhận xét: “Chế độ bầu
cử tự do” trong CNTB biến thành “Tự do” của nhân dân lựa chọn những
người thống trị mình, chứ không phải là sự lựa chọn những người đại diện
7
cho lợi ích của bản thân nhân dân. V.I.Lênin đã viết “Trong xã hội tư bản chủ
nghĩa, chúng ta chỉ có một thứ dân chủ cắt xén, khốn khổ, giả dối. Một thứ
dân chủ chỉ dành riêng cho bọn giàu có, số ít mà thôi” Cho nên, mặc dù
DCTS là một bước tiến lịch sử so với chế độ chuyên chế phong kiến, song nó
vẫn là nền dân chủ được xây dựng trên sự tước đoạt dân chủ, tước đoạt quyền
tự do chính đáng của nhân dân nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của giai cấp tư sản.
DCTS vì thế không thể là mục đích cuối cùng mà loài người hướng tới. Nó
phải được thay thế bằng một nền dân chủ cao hơn, tốt đẹp hơn đó là nền dân
chủ XHCN.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề dân chủ
Dân chủ XHCN ra đời là kết quả của thắng lợi chính trị trong cách
mạng XHCN, xuất hiện từ khi cách mạng tháng mười Nga năm 1917 thành
công, một nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân được thiết lập và sau
này đã phát triển ở một loạt nước XHCN.
Dân chủ XHCN là một thể chế chính trị, trong đó quyền lực thuộc về
nhân dân, là một hình thức tự quy định của nhân dân để chi phối hoạt động
của các cá nhân, các tổ chức và toàn bộ xã hội, trên cơ sở bình đẳng về nghĩa
vụ và quyền lợi của các công dân, được bảo đảm bằng pháp luật của nhà
nước XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Cơ sở kinh tế của dân chủ
XHCN là chế độ sở hữu công cộng về những tư liệu sản xuất chủ yếu, đó là
nền tảng vững chắc để xác lập quan hệ bình đẳng giữa người với người và nền
tự do thực sự cho nhân dân lao động
Đối với nước ta, quá độ lên CNXH trong điều kiện nền kinh tế nhiều
thành phần, trình độ sản xuất thấp kém, mang nặng tư tưởng của nền sản xuất
nhỏ, trình độ dân trí thấp, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong
kiến. Tuy hệ thống chính trị XHCN đã được thiết lập, nhưng còn bộc lộ nhiều
yếu kém cả về tổ chức và hoạt động. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chậm
đi vào cuộc sống. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân còn thấp, quyền
làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, nhất là
ở cơ sở. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài
“dân chủ”,“ nhân quyền” trong chiến lược “diễn biến hoà bình” để chống phá,
8
xuyên tạc chế độ dân chủ XHCN ở nước ta. Thực trạng đó là những lực cản
tác động lớn đến quá trình xây dựng, phát triển, hoàn thiện nền dân chủ
XHCN ở nước ta.
Tuy nhiên, chúng ta khẳng định nền dân chủ ở nước ta là nền dân chủ
XHCN, mang bản chất của GCCN, do nhân dân lao động làm chủ, quyền làm
chủ đó được bảo đảm bằng pháp luật của nhà nước XHCN. Nhất là sau hơn
17 năm đổi mới, nền dân chủ XHCN ở nước ta có nhiều tiến bộ đáng kể. Song
vẫn chưa đạt tới một nền dân chủ chín muồi đầy đủ. Vì vậy, Đảng ta chỉ
rõ: Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN là một yêu cầu khách quan,
là mục tiêu trực tiếp trong chiến lược cách mạng nước ta. Nhằm phát huy hơn
nữa quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, khắc phục
dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội, phát huy
nội lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những vấn đề lý luận về dân chủ trên cho thấy dân chủ là một giá trị
văn hóa, là mục tiêu chính trị và động lực cách mạng to lớn thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội. Nó là kết quả hoạt động và đấu tranh cách mạng của con người
vươn tới khát vọng tự do, bình đẳng, công bằng xã hội. Dân chủ không phải là
cái gì tồn tại tự nó, nằm ngoài cộng đồng mà là sản phẩm của hoạt động thực
tiễn thông qua giải quyết các quan hệ chính trị - xã hội, cùng với các quyền
dân chủ mà con người và xã hội loài người đã đạt tới. Dân chủ chứa đựng hệ
giá trị được tích luỹ, bồi đắp, phát triển trong lịch sử, thường xuyên tác động
đến con người, bồi dưỡng tâm hồn, rèn luyện ý chí đấu tranh và hình thành
nên những nhân cách con người mới XHCN.
1.1.3. Quá trình hình thành và phát triển dân chủ
Dân chủ, tức là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động; nhân dân có địa vị, quyền làm chủ đối với nhà nước; nhân
dân là nguồn gốc của nhà nước. Khi quyền lực nhà nước không thuộc về nhân
dân thì nhà nước đó phải đối mặt trực tiếp với cuộc đấu tranh của nhân dân vì
mục tiêu dân chủ. Với ý nghĩa đó, dân chủ phản ánh trực tiếp mối quan hệ
giữa nhà nước với nhân dân, trong đó nhân dân quyết định sự thay đổi hoặc
củng cố nhà nước. Nếu nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân thì nhà nước
9
đó vững mạnh bởi nhân dân và ngược lại. Những quan hệ đó phản ánh quan
hệ bản chất của dân chủ, đó là quan hệ bình đẳng giữa các thành viên trong xã
hội trước pháp luật, quyền lực nhà nước. Quan hệ này phản ánh đầy đủ nhất
bản chất của dân chủ. Nếu không có bình đẳng thì không có dân chủ trong xã
hội. Bình đẳng còn là điều kiện trực tiếp cho tự do, bình đẳng bảo đảm cho
con người xã hội không rơi vào sự “tha hoá” lao động, không có lực lượng xã
hội cản trở sự phát triển tự do của con người. Vì vậy, tự do và bình đẳng cũng
là nội dung cốt lõi, thuộc tính bản chất nhất của dân chủ, đồng thời, nó là
nguyên tắc cho xác định mục tiêu, nội dung xây dựng một nền dân chủ đích
thực. Tuy nhiên, tự do ở đây được hiểu, tự do trên cơ sở nhận thức được cái
tất yếu theo chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm, không phải tự do tuỳ
tiện, tự do vô chính phủ, vô kỷ luật.
Khi tự do được hiểu trên cơ sở nhận thức được cái tất yếu thì pháp luật
của nhà nước, kỷ luật của một tổ chức xã hội như là cái tất yếu đối với mỗi cá
nhân và là điều kiện cho tự do của các thành viên khác trong xã hội. Như vậy,
dân chủ đã bao hàm thực hành kỷ luật , pháp luật và kỷ luật sẽ bao hàm dân
chủ, nếu kỷ luật đó là cái tất yếu được nhận thức đối với mỗi cá nhân để mọi
người tự do.
Với tính cách là nội dung cốt lõi, thuộc tính bản chất nhất của dân chủ,
tự do và bình đẳng là một định hướng giá trị của tiến bộ xã hội của mục tiêu
dân chủ, đồng thời lịch sử phát triển của dân chủ gắn với lịch sử đấu tranh của
con người vươn tới làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Đó là cuộc đấu
tranh chống lại sự lệ thuộc vào tự nhiên, vươn lên làm chủ tự nhiên và chống
lại những lực lượng xã hội lạc hậu, phản động chiếm đoạt địa vị, quyền làm
chủ chính đáng của con người. Dân chủ luôn là mục tiêu, động lực trong hoạt
động của con người.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, mặc dù không tồn tại chế độ dân
chủ theo nghĩa dân chủ là một hình thức nhà nước (Mác gọi là tiền dân chủ)
nhưng những giá trị dân chủ đã được hình thành và thực thi trên thực tế. Đó là
việc thực thi địa vị, quyền làm chủ cộng đồng thuộc về các thành viên. Trong
thời kỳ lịch sử này, trình độ chinh phục tự nhiên, năng lực làm chủ quá thấp
kém, dân chủ mới là sơ khai theo nghĩa, sự bình đẳng giữa các thành viên
10
trong xã hội, ở đó không có áp bức, không có nô dịch hoặc chiếm đoạt quyền
của nhau.
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, trình độ chinh phục tự nhiên
của con người được nâng lên, nhưng quan hệ giữa người và người lại bất bình
đẳng rất lớn trước quyền lực nhà nước. Trong các xã hội này, dân chủ được
biểu hiện dưới hình thức nhà nước tương ứng, nhưng quyền lực nhà nước
không thuộc về nhân dân. Quyền lực đó bị giai cấp thống trị chiếm đoạt, thâu
tóm và đẩy nhân dân lao động xuống địa vị bị trị. “Cùng với sự phân chia giai
cấp trong xã hội và với sự áp bức độc quyền của giai cấp thống trị thì các
quyền lực vốn thuộc về nhân dân đã bị giai cấp thống trị tước đi mất”. Vì vậy,
trong các xã hội có giai cấp đối kháng, dân chủ luôn là ngọn cờ tập hợp lực
lượng của giai cấp tiên tiến, nhằm thủ tiêu chế độ xã hội cũ, cho ra đời chế độ
xã hội mới, với nội dung, hình thức dân chủ mới. Trong xã hội có giai cấp,
dân chủ chỉ thực thi cho giai cấp thống trị. Ngay trong xã hội tư bản, dân chủ
tồn tại với tư cách chế độ dân chủ thì quyền lực đó vẫn không thuộc về
GCCN, nhân dân lao động. Mặc dù dân chủ tư sản là một bước tiến dài so với
chế độ quân chủ chuyên chế, nhưng nó không phải là nấc thang cuối cùng,
không phải tương lai vươn tới của nhân loại về dân chủ. Trong xã hội tư bản,
những quyền như: bầu cử tự do trên cơ sở đa nguyên, đa đảng; quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí; quyền tự do biểu tình, quyền chỉ trích chính phủ
hoặc tổng thống... dù sao cũng nói lên những quyền về con người mà trong
chế độ quân chủ chuyên chế không thể có, nhưng cũng phải thấy nhà nước tư
sản không tự giác cho không những quyền đó, mà là kết quả của cuộc đấu
tranh của GCCN, nhân dân lao động đã phải mất hàng trăm năm. Còn về bản
chất, thực chất, dân chủ tư sản chưa có nội dung dân chủ đích thực, với nghĩa
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân lao động. “Quyền dân chủ,
mọi sự chỉ trích... được thực hiện thoải mái, miễn là không đe doạ quyền lực
nhà nước nằm trong tay giai cấp tư sản”.
Ngọn cờ dân chủ của Đảng Cộng sản trong xã hội tư bản gắn với mục
tiêu CNXH. Sự thắng lợi của cách mạng vô sản, cho ra đời chế độ XHCN, với
nội dung dân chủ XHCN, chế độ dân chủ XHCN. Dân chủ XHCN là nền dân
11
chủ duy nhất trong các xã hội văn minh đem lại địa vị, quyền làm chủ, quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân lao động trên thực tế.
Dân chủ XHCN là bước phát triển mới về chất của lịch sử phát triển
dân chủ, nó kế thừa, phát triển toàn bộ những giá trị dân chủ trong lịch sử và
sáng tạo ra những giá trị mới, mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Dân chủ
XHCN đã thực hiện bước phủ định biện chứng nền dân chủ tư sản và thực
hiện hoàn chỉnh một chu kỳ phát triển (phủ định của phủ định) khẳng định sự
phát triển, khẳng định dân chủ đích thực.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên
thuỷ tất nhiên sẽ sống lại, vì lần đầu tiên trong lịch sử những xã hội văn minh,
quần chúng nhân dân vươn lên tham gia một cách độc lập không những vào
việc bầu cử và tuyển cử, mà cả vào việc quản lý hàng ngày nữa. Dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa mọi người sẽ lần lượt quản lý và sẽ mau quen với tình hình
không cần ai quản lý cả.
Sự ra đời của nền dân chủ XHCN là sản phẩm tất yếu của lịch sử đấu
tranh vươn tới làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân của con người, trực tiếp là
cuộc đấu tranh của GCCN, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Nó là nấc thang cao nhất của lịch sử phát triển dân chủ.
Như vậy, dân chủ là vấn đề cơ bản, xuyên suốt lịch sử và cũng là thiết
yếu, chủ yếu của đời sống xã hội, con người. Giải quyết những vấn đề về con
người, tiến bộ xã hội, phát triển các tổ chức xã hội, đặc biệt trong xây dựng
CNXH, xây dựng quân đội cách mạng... đều phải bắt đầu và thông qua giải
quyết những vấn đề về dân chủ.
Nghiên cứu về dân chủ, cần thấy dân chủ ở một số nội dung sau:
- Dân chủ vừa có tính giai cấp vừa có tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc.
- Dân chủ đích thực là mọi quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân lao
động.
- Tự do và bình đẳng là nội dung cốt lỗi và thuộc tính bản chất của dân
chủ.
12
- Dân chủ gắn với cuộc đấu tranh giải phóng con người, loài người,
đưa con người từ tất yếu đến tự do.
- Dân chủ gắn với chế độ nhà nước.
- Dân chủ và kỷ luật là hai mặt thống nhất.
- Dân chủ biểu hiện ở các quan hệ xã hội, thể hiện sự bình đẳng giữa
các thành viên trong xã hội.
Muốn nghiên cứu, giải quyết vấn đề dân chủ đều phải bắt đầu, thông
qua giải quyết các quan hệ xã hội giữa các thành viên trong một tổ chức, trong
xã hội, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Đồng thời phải trên
cơ sở sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân, thành viên xã
hội và sự công bằng, bình đẳng trước pháp luật. “Dân chủ thể hiện nhiều mối
quan hệ khác nhau, giữa cá nhân và cộng đồng giữa con người và xã hội trong
cả chính trị và kinh tế, trong cả quyền lực, trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi
công dân”.
Ở nước ta, dân chủ XHCN được thiết lập từ khi cách mạng dân chủ
nhân dân giành thắng lợi, đi lên CNXH (ở miền Bắc tính từ 1954 và cả nước
tính từ sau 1975). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những bước tiến của sự nghiệp
xây dựng CNXH là những nấc thang hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Dân chủ
XHCN luôn là nội dung quan trọng trong quan điểm, đường lối của Đảng ta,
là thuộc tính bản chất của hệ thống chính trị đất nước. Bản chất, mục tiêu của
dân chủ XHCN được Hồ Chí Minh khái quát:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền lực đều của dân”.
Ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, khi nhà nước cách mạng
còn là mục tiêu phấn đấu, trong “yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội
nghị Véc-xây (1919) Nguyễn ái Quốc đã đòi phải thay thế chế độ cai trị bằng
sắc lệnh không dân chủ bằng các đạo luật. Chính điều đó đã thể hiện một
quan điểm về dân chủ mới.
13
- Xem thêm -