LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Thế Giới,
việc xuất khẩu của các quốc gia có vai trò rất quan trọng. Việc hội
nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam ngày càng quan trọng và cần
thiết bởi nước ta vẫn là nước đang phát triển, có hội nhập thì chúng
ta mới phát triển được.
Với những điều kiện hết sức thuận lợi như nước ta hiện nay,
việc phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản đang là một xu
hướng tất yếu để góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu và sự phát
triển của nền kinh tế, nhất là khi chúng ta đã là thành viên chính
thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO).
Việc gia nhập WTO tạo nhiều thuận lợi cho việc xuất khẩu các
mặt hàng của Việt Nam nói chung và hàng nông sản nói riêng
nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho chúng ta.
Để có thể tận dụng hết lợi thế, cơ hội và vượt qua những thách
thức, thì Việt Nam phải có những hướng đi đúng đắn và có biện
pháp thích hợp.
Ý thức được điều này, trong quá trình thực tập tại Viện Chính
Sách và Chiến Lược Phát Triển Nông Nghiệp Nông Thôn, và sự
giúp đở của GS.TS Đặng Đình Đào, em đã lựa chọn đề tài: Phương
hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam trong hội nhập WTO.
1
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đở của GS.TS Đặng Đình
Đào và Viện Chính Sách và Chiến Lược Phát Triển Nông Nghiệp
Nông Thôn đã giúp đở em hoàn thành đề tài này.
2
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG
SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP WTO
1. Hàng nông sản và vai trò của xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam
1.1. Khái niệm hàng nông sản
Hàng nông sản là sản phẩm của ngành nông nghiệp. Nếu hiểu
theo nghĩa hẹp thì nông nghiệp chỉ có ngành trồng trọt, chăn nuôi và
dịch vụ trong nông nghịêp. Theo nghĩa rộng thì nó còn bao gồm cả
ngành lâm nghịêp và thủy sản.
1.2. Phân loại hàng nông sản
Các mặt hàng nông sản tạm thời được chia thành hai nhóm:
Nông sản nhiệt đới, chủ yếu từ các nước đang phát triển như:
chè, cà phê, ca cao, bông, chuối, xoài…
Nông sản ôn đới, chủ yếu từ các nước phát triển như: bột mỳ,
ngô, thịt, sữa…
1.3. Đặc điểm của mặt hàng nông sản
Tính thời vụ: Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đó
là một đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp, vì một mặt
quá trình sản xuất nông nghiệp là qúa trình sản xuất kinh tế gắn liền
với quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian hoạt động và thời gian
3
sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không hoàn toàn trùng hợp nhau,
sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp. Mặt khác do sự biến
thiên về điều kiện thời tiết, khí hậu mỗi loại cây trồng lại có sự thích
ứng nhất định với điều kiện đó, dẫn đến những mùa vụ khác nhau.
Vì vậy mà hàng nông sản mang tính thời vụ cao.
Tính khu vực: Sản xuất nông nghiệp đựơc tiến hành trên địa
bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang
tính khu vực rõ rệt. Ở đâu có đất đai và lao động là ở đó tiến hành
sản xuất nông nghiệp. Nhưng mỗi vùng, mỗi quốc gia có điều kiện
đất đai, khí hậu thời tiết rất khác nhau nên hoạt động sản xuất nông
nghiệp cũng khác nhau, sản phẩm nông nghiệp cũng khác nhau. Vì
vậy sản phẩm nông nghiệp mang tính khu vực rõ rệt.
Tính phân tán: Do đặc điểm sản xuất nông nghiệp mang tính
khu vực cao, nên hàng nông sản phân tán ở vùng nông thôn và trong
tay hàng triệu nông dân đã trở thành một trở ngại trong việc thu mua
hàng nông sản của các doanh nghiệp.
Tính tươi sống: Hàng nông sản phần lớn là cơ thể sống cây
trồng và vật nuôi. Các loại cây trồng và vật nuôi phát sinh, phát
triển theo quy luật sinh học. Do là cơ thể sống nên chúng rất nhạy
cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu đều
tác động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết
quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Vì vậy hàng nông sản dễ bị hư
hỏng, kém phẩm chất.
4
Tính không ổn định: Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
phụ thuộc nhiều vào khí hậu, thời tiết nên sản phẩm hàng nông sản
không ổn định, lên xuốn thất thường, có nơi được mùa nhưng cũng
có nơi mất mùa, chất lượng hàng nông sản không đồng đều.
Các mặt hàng nông sản như: Gạo, cà phê, cao su, điều…là
những hàng hoá thiết yếu đối với đời sống và sản xuất của mỗi quốc
gia, cho nên đa số các nước trên thế giới đều trực tiếp hoạch định
các chính sách can thiệp vào sản xuất, xuất khẩu lương thực và nước
nào cũng chú trọng chính sách dự trữ quốc gia và bảo hộ nông
nghiệp. Mặt hàng nông sản là mặt hàng chủ yếu của các nước chậm
và đang phát triển, nó chủ yếu được sản xuất và tiêu thụ trong nội
địa là chính, có rất ít quốc gia có khả năng xuất khẩu ra bên ngoài.
Hàng nông sản là một trong những mặt hàng có tính chiến lược, do
vậy đại bộ phận buôn bán hàng nông sản quốc tế được thực hiện
thông qua hiệp định giữa các Nhà nước mang tính dài hạn.
Tình hình buôn bán, sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản phụ
thuộc vào tính thời vụ, mùa màng thu hoạch, phụ thuộc vào nhu cầu
và điều kiện thanh toán của từng quốc gia nhập khẩu là chính, như:
lạc, các nước nhập khẩu chủ yếu theo yêu cầu chất lượng quốc tế
nhưng vẫn có một số quốc gia nhập khẩu lạc với chất lượng theo sự
chấp nhận của thị trường như: thị trường Singapore, indonexia…
5
1.4. Sự cần thiết phải xuất khẩu hàng nông sản và vai trò của
xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
1.4.1. Sự cần thiết phải xuất khẩu hàng nông sản
1.4.1.1. Xuất khẩu là điều kiện để mở rộng quy mô xuất khẩu
Trong quá trình hội nhập kinh tế như hiện nay, đẩy mạnh hoạt
động thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng trong
nền kinh tế mở là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Nó mở ra
những cơ hội mới cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên thế
giới. Nhờ xuất khẩu mà các doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô
sản xuất, từng bước tăng trưởng và phát triển, từ đó đáp ứng đầy đủ
các nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước với những đơn hàng
có giá trị lớn, nó làm tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế.
Với sự biến động không ngừng của thị trường và nhu cầu, thị
hiếu của người tiêu dùng ngày càng tăng thì đây chính là cơ hội để
các doanh nghiệp mở rộng thị trường, đa dạng hoá các loại sản
phẩm, tăng quy mô sản xuất, tăng thị phần và sự ảnh hưởng của
doanh nghiệp trên thị trường…do đó có thể giảm thiểu được các rủi
ro có thể xảy ra trong kinh doanh. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải
tăng cường xuất khẩu để thu lợi nhuận, tăng số vòng quay của vốn,
tăng lượng thu ngoại tệ tù đó giúp doanh nghiệp có điều kiện đầu tư
cho sản xuất và xuất khẩu, nhập về các máy móc, công nghệ hiện
6
đại để nâng cao hiệu quả sản xuất, thúc đẩy mạnh hơn nữa các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4.1.2. Toàn cầu hóa và hội nhập cần phải tăng cường xuất
khẩu
Hiện nay, quá trình toàn cầu hoá và liên kết giữa các khu vực,
các quốc gia với nhau đang diễn ra mạnh mẽ, hội nhập và tự do hoá
thương mại đang trở thành trào lưu lôi cuốn nhiều nước tham gia.
Trong xu thế đó, Việt Nam cũng đang tích cực tham gia, nhưng
những đóng góp của Việt Nam trên thị trường quốc tế còn nhỏ, vì
vậy, xuất khẩu là việc làm cần thiết để nâng cao vị thế của ta trên thị
trường quốc tế. Toàn cầu hoá và hội nhập cho phép các doanh
nghiệp được hưởng các chế độ, chính sách ưu đãi của các nước
dành cho Việt Nam khi gia nhập WTO, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp thâm nhập thị trường bên ngoài dễ dàng hơn.
Mặt khác, toàn cầu hoá và hội nhập còn giúp cho các doanh
nghiệp có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, mở rộng quan hệ với các
đối tác nước ngoài, học tập phong cách quản lý, tiếp thu tiến bộ
khoa học và công nghệ quản lý kinh doanh, xoá bỏ tu duy cũ, tích
luỹ nhiều kinh nghiệm qua đó giúp doanh nghiệp hình thành được
tác phong kinh doanh hiện đại. Vì vậy, khi thực hiện xuất khẩu, các
doanh nghiệp cần phải tận dụng triệt để các điều kiện thuận lợi mà
toàn cầu hoá và hội nhập đem lại từ đó không ngừng phát triển đi
lên, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế.
7
1.4.1.3. Việt Nam có nhiều tiềm năng trong sản xuất và xuất
khẩu hàng nông sản
Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nên đối với sản
xuất và xuất khẩu hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng rất lớn,
thể hiện ở:
Về đất đai: tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta khoảng 1012 triệu ha, trong đó gần 8 triệu ha cây trồng hàng năm và 4 triệu ha
cây trồng lâu năm, diện tích đất trồng lúa chiếm phấn lớn, khoảng
5.5 triệu ha. Hiện nay Việt Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất
nông nghiệp, còn lại là đồng cỏ tự nhiên và mặt nước.
Chất lượng đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi xốp, nhiều
chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng, nhất là phù xa, đất xám,
chủng loại đất cũng rất phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm.
Những điều kiện này kết hợp với nguồn nhiệt ẩm dồi dào sẽ là điều
kiện tốt để phát triển các loại cây trồng, thâm canh tăng vụ nếu
chúng ta biết khai thác một cách có khoa học và hợp lý.
Về khí hậu: khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa do
ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt
Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ ràng từ bắc xuống nam, với mùa
đông lạnh ở miền bắc và khí hậu kiểu Nam Á, ở Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều kiện
thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây trồng nông nghiệp
nhất là cây trồng nông sản. Không những vậy, Việt Nam còn có
8
tiềm năng nhiệt ẩm và gió khá dồi dào, phân bố đồng đều trong
nước, với độ ẩm trong năm thường cao hơn 80%, lượng mưa lớn
(trung bình từ 1800-2000mm/năm)…đây là điều kiện thuận lợi cho
việc sinh trưởng và phát triển của các loại động thực vật, nhất là đối
với một số loại cây trồng như: lúa, cà phê, điều, cao su, chè…
Về nhân lực: với dân số hơn 85 triệu người, cơ cấu dân số trẻ
và chủ yếu dân số sống bằng nông nghiệp, có thể thấy Việt Nam có
một lực lượng lao động dồi dào, nhất là lao động phục vụ cho nông
nghiệp. Bên cạnh đó, lao động Việt Nam có tính cần cù, sáng tạo, có
khả năng nắm bắt khoa học công nghệ nhanh chóng, có nhiều kinh
nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Đây là những điều kiện thuận
lợi cho Việt Nam trở thành một nước có nền sản xuất nông nghiệp
tiên tiến, hiện đại…cung cấp khối lượng lớn các sản phẩm của
ngành nông nghiệp nhất là nông sản cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Về các chính sách của nhà nước: ngoài những yếu tố thuận lợi
trên, với quan điểm của Đảng và Nhà nước, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, chính vì vậy việc sản xuất, chế biến và xuất khẩu
hàng nông sản cũng rất được chú trọng. Nhà nước ưu tiên đầu tư
trong nước và nước ngoài cho sản xuất nông nghiệp nhất là đối với
cây trồng lâu năm như: cà phê, cao su…
Với những tiềm năng to lớn như vậy, triển vọng sản xuất và
xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam hiện nay và trong tương lai có
nhiều triển vọng.
9
Việc tăng cường xuất khẩu hàng nông sản sẽ giúp khai thác có
hiệu quả các tiềm lực sẵn có, tạo công ăn việc làm cho ngưởi lao
động, tăng thu nhập cho người dân góp phần xoá đói, giảm nghèo
và giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
1.4.1.4. Nhu cầu về hàng nông sản trên thế giới có su hướng
tăng
Theo đánh giá của tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên
Hiệp Quốc (FAO), từ nay đến năm 2010 nhu cầu về hàng nông sản
trên thế giới và Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng.
Trước hết, do thời tiết ngày càng xấu, sản xuất nông nghiệp gặp
nhiều khó khăn do rét đậm, rét hại kéo dài, ảnh hưởng đến cây công
nghiệp và cây lương thực…Như ở Việt Nam, thời tiết xấu đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tiến độ gieo cấy lúa đông xuân ở phía Bắc
và duy trì phát triển đàn gia súc…nhất là vào cuối năm 2007 và
những tháng đầu năm 2008. Theo báo cáo của các địa phương và Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến 18/2/2008, toàn miền
Bắc có trên 146 nghìn ha lúa bị ảnh hưởng nặng, trong đó có 10
nghìn ha phải gieo trồng lại. Tổng số các loại vật nuôi đã bị chết là
63 nghìn con, trong đó bê, nghé non chiếm 75%; bò, trâu già chiếm
25%. Ước tổng thiệt hại khoảng 400 tỷ đồng.
Thứ hai, do dân số thế giới đang tăng trưởng với tốc độ rất
nhanh. Theo ước tính năm 2006 của Cục dân số Liên Hiệp Quốc,
dân số thế giới sẽ tăng thêm 2.5 tỷ người trong 43 năm tới, từ mức
10
6.7 tỷ người hiện nay tới 9.2 tỷ người vào năm 2050 với sự gia tăng
đó chủ yếu diễn ra tại các nước đang phát triển. Dân số ở các nước
ít phát triển sẽ tăng từ 5.4 tỷ người trong năm 2007 lên 7.9 tỷ trong
năm 2050. Dân số của các nước nghèo như Afghanistan, Burundi,
Congo, Guinea - Bissau, Liberia, Niger, Đông Timor và Uganda dự
đoán sẽ tăng ít nhất 3 lần vào giữa thế kỷ này. Trong khi dân số thế
giới ngày cáng tăng thì diện tích đất đai sử dụng cho nông nghiệp
ngày càng giảm cùng với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa.
Diện tích đất nông nghiệp giảm sẽ làm cho sản lượng các mặt hàng
nông nghiệp cũng giảm theo, trong khi nhu cầu về lương thực, thực
phẩm ngày càng tăng.
Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế trong nước
và thế giới làm cho nhu cầu tiêu dùng của người dân trong và ngoài
nước tăng nên các mặt hàng nông sản sẽ được tiêu thụ với khối
lượng lớn như: gạo, đường, cà phê, điều, chè, hạt tiêu…Cụ thể như
sau:
Tổng mức tiêu dùng gạo thế giới năm 2007/08 dự báo sẽ đạt
423.93 triệu tấn, điều chỉnh giảm 300 ngàn tấn so với dự báo hồi
tháng 11/2007, song tăng 5.08 triệu tấn so với mức tiêu dùng năm
2006/07, và sẽ là năm thứ 2 liên tiếp có mức tiêu dùng cao hơn sản
lượng. Trong đó, mức tiêu dùng của một số nước dự báo sẽ đạt (đơn
vị: triệu tấn): Bănglađét 29.80; Braxin 0.90: Myanmar 10.70;
Cămpuchia 3.78; Trung Quốc 129.10; Ai Cập 3.67; Ấn Độ 88.80;
11
Inđônêxia 36.15; Iran 3.15; Nhật Bản 8.15; Hàn Quốc 4.75; Nigêria
4.70; Philippin: 12.06; Thái Lan 9.60; Việt Nam 18.72; Mỹ 3.99.
Tổng sản lượng gạo toàn cầu năm 2007/08 dự báo đạt 420.48
triệu tấn, điều chỉnh giảm 680 ngàn tấn so với dự báo hồi tháng
11/2007, song tăng 2.83 triệu tấn so với sản lượng năm 2006/07.
Trong đó, sản lượng (đơn vị: triệu tấn) của Bănglađét sẽ đạt 28.50;
Braxin 7.99; Myanmar 10.66; Cămpuchia 4.80; Trung Quốc 129.50;
Ai Cập 4.41; Ấn Độ 92.00; Inđônêxia 34.00; Nhật Bản 7.94; Hàn
Quốc 4.50; Nigêria 3.00; Pakixtan 5.40; Philippin 10.01; Thái Lan
18.40; Việt Nam 23.26; Mỹ 6.33.
Tổng dự trữ gạo thế giới cuối niên vụ 2007/08 dự báo đạt
72.17 triệu tấn, giảm so với 75.63 triệu tấn của cuối niên vụ
2006/07.
Tổng sản lượng đường thế giới năm 2007/08 theo dự báo của
Bộ Nông nghiệp Mỹ sẽ đạt 167.1 triệu tấn (qui đường thô), tăng 3.1
triệu tấn so với năm 2006/07. Trong đó, sản lượng của Braxin sẽ đạt
32.1 triệu tấn, tăng 650 ngàn tấn; Ấn Độ 31.8 triệu tấn, tăng 1.1
triệu tấn; Trung Quốc 13.9 triệu tấn, tăng 1 triệu tấn; và Thái Lan
7.2 triệu tấn, tăng 480 ngàn tấn. Sản lượng của EU - 27 dự báo sẽ
chỉ tăng 40 ngàn tấn, đạt 17.49 triệu tấn.
Tổng mức tiêu dùng đường toàn cầu dự báo sẽ đạt 155 triệu tấn,
tăng 5.6 triệu tấn so với năm 2006/07.
12
Tổng xuất khẩu đường trên thế giới năm 2007/08 dự báo đạt
50.8 triệu tấn, tăng 1 triệu tấn so với năm 2006/07. Trong đó, xuất
khẩu của Braxin sẽ đạt 20.6 triệu tấn, giảm 250 ngàn tấn so với năm
2005/06 do giá tương đối thấp so với chi phí sản xuất, phí vận
chuyển cao, cạnh tranh của Ấn Độ tại thị trường Cận Đông và nhu
cầu sản xuất nhiên liệu sinh học (ethanol) ở trong nước cao. Xuất
khẩu của Thái Lan sẽ đạt 5.3 triệu tấn, tăng 200 ngàn tấn; và xuất
khẩu của Ấn Độ sẽ đạt 3 triệu tấn, tăng 1.2 triệu tấn so với năm
2006/07. Trong khi đó, xuất khẩu đường của Ôxtrâylia sẽ giảm 200
ngàn tấn trong năm 2007/08 đạt 3.7 triệu tấn.
Tổng dự trữ đường thế giới cuối niên vụ 2007/08 dự báo đạt
46.6 triệu tấn, tăng 5.1 triệu tấn so với cuối niên vụ 2006/07
Thứ tư, tình hình thế giới có nhiều biến động về chính trị,xã
hội. Tình hình xung đột vũ trang đang gia tăng ở nhiều nước, nhiều
khu vực vẫn còn tình trạng đấu tranh quyết liệt nhất là khu vục
Trung Đông, nạn đói ở Châu Phi vẫn đang hoành hành, do đó cần
phải có một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm để dự trữ và viện
trợ cho những nước này. Đây chính là nguồn nhu cầu lớn đối với
các nước xuất khẩu nông sản.
1.4.2. Vai trò của xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
1.4.2.1. Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước
(GDP)
13
Xuất khẩu các loại hàng hóa nói chung, xuất khẩu hàng nông
sản nói riêng và sự tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho sự tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế thể hiện ở chổ nó chiếm phần
lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu hút được nhiều ngoại
tệ về cho đất nước. Xuất khẩu có vai trò rất lớn trong tăng trưởng
kinh tế của một quốc gia.
Theo kinh tế học thì: GDP = C+I+G+(X-N)
Trong đó: C là chi tiêu của các hộ gia đình
I là đầu tư của các doanh nghiệp
G là chi tiêu của chính phủ
X là xuất khẩu
N là nhập khẩu
Khi mà hiệu số (X-N) tăng cao tức X tăng mạnh thì tổng sản
phẩm trong nước (GDP) tăng cao và ngược lại.
Nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam, có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Xuất
khẩu hàng nông sản càng lớn thì càng làm cho GDP tăng cao, thể
hiện được năng lực cạnh tranh của đất nước về xuất khẩu. Kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng cao sẽ nâng cao tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế.
14
Theo báo cáo của chính phủ, giai đoạn 2002-2007 tất cả các
nhiệm vụ phát triển kinh tế đều được hoàn thành vượt mức đề ra,
điểm nổi bật trong 5 năm qua là tăng trưởng kinh tế găn kết chặt chẽ
với ổn định kinh tế. Tốc độ tăng GDP bình quân trong thời kỳ 2002
- 2007 là 7.8%, cả 3 lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và xây
dựng, dịch vụ đều đạt mức tăng trưởng cao, liên tục với tốc độ khá
ổn định. Khu vực nông nghiệp tăng trưởng cao, liên tục và đạt mức
bình quân 5.4%/năm; sanư xuất công nghiệp tăng khoảng
16.5%/năm; giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ bình quân
7.4%/năm
1.4.2.2. Đối với tăng trưởng nông nghiệp
Chúng ta đều biết, Việt Nam là một nước nông nghiệp, vấn đề
sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản giữ vị trí quan trọng đối với
tăng trưởng nông nghiệp nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã nổi lên là một nước xuất
khẩu nông sản mạnh so với khu vực và thế giới, có những mặt hàng
Việt Nam còn được coi là đại gia như cà phê, gạo, hạt điều… Tuy
nhiên, mức độ tác động của xuất khẩu nông sản đối với tăng trưởng
nông nghiệp còn bấp bênh, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có
của nó.
Sản phẩm của nông nghiệp bao gồm nông sản, thủy sản và lâm
sản, trong đó nông sản chiếm tỷ trọng lớn nhất. Vì vậy ta xem xét
15
vai trò của xuất khẩu hàng nông sản đối với tăng trưởng nông
nghiệp qua các vấn đề sau :
Một là, xuất khẩu hàng nông sản tác động đến việc mở rộng
quy mô sản xuất nông nghiệp.
Khi xuất khẩu nông sản tăng, khối lượng nông sản được sản
xuất ra ngày càng lớn, do đó sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng quy
mô sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, khi xuất khẩu nông sản tăng
còn tạo nguồn thu lớn cho người sản xuất, từ đó họ có thể tăng vốn
để tái sản xuất mở rộng, tăng năng xuất lao động, tăng chất lượng
sản phẩm, nâng cao giá trị hàng xuất khẩu.
Hai là, xuất khẩu góp phần giải quyết tốt vấn đề công ăn, việc
làm.
Một trong những đặc điểm rất quan trọng của Việt Nam và một
số nước đang phát triển khác là tốc độ tăng lực lượng lao động
nhanh, từ đó việc làm luôn là vấn đề nóng và cần quan tâm của nền
kinh tế. Để giải quyết được tình trạng này phải tăng cầu lao động
và xuất khẩu tăng cũng là một trong những biện pháp để mở rộng
quy mô ngành sản xuất nông sản, từ đó tạo thêm việc làm cho người
lao động. Mặt khác, xuất khẩu nông sản tăng kéo theo sự phát triển
của ngành công nghịêp chế biến, công nghịêp phục vụ nông nghịêp,
từ đó lao động bổ sung tăng lên.
Khi người lao động có việc làm, thu nhập ổn định sẽ tạo tâm lý
yên tâm phấn khởi và người lao động (đặc biệt là lao động nông
16
nghịêp) sẽ làm việc ngay tại quê hương mình, giảm tải tình trạng di
cư của lao động ra các khu công nghiệp, thành thị để kiếm việc làm.
Ba là, xuất khẩu hàng nông sản góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực trong nông nghiệp.
Nguồn lực trong nông nghịêp bao gồm: đất đai, cơ sở hạ tầng,
người lao động, kinh nghiệm sản xuất…Mỗi quốc gia đều có những
cách thức khác nhau trong việc sử dụng các nguồn lực của mình sao
cho có hiệu quả nhất và tận dụng hết các lợi thế của vùng. Mỗi vùng
khác nhau sẽ có lợi thế về một loại nông sản khác nhau, do đó khi
xuất khẩu nông sản tăng lên, thị trường được mở rộng sẽ tạo điều
kiện cho vùng đó sử dụng nguồn lực đạt hiệu quả cao nhất. Đây
cũng là lý do tại sao Việt Nam lại tạo những điều kiện thuận lợi để
đẩy mạnh xuất khẩu gạo của đồng bằng sông Cửu Long, cà phê của
các tĩnh miền Trung Tây Nguyên, vải Lục Ngạn, nhãn Hưng Yên,
thanh long Binh Thuận, bưởi Diễn…
Bốn là, xuất khẩu hàng nông sản góp phần thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy
mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, đua thiết bị và
các công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, thực
hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu
khoa học, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin nhằm nâng
17
cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị
trường. Vì vậy, xuất khẩu nông sản tạo điều kiện giải quyết tốt vấn
đề đầu ra cho nông sản, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo
hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, điều này rất phù hợp với hội
nhập kinh tế hiện nay. Mặt khác, xuất khẩu nông sản còn có vai trò
tích cực trong việc cung cấp thông tin cho người sản xuất, tạo ra sự
phù hợp tốt hơn giữa người sản xuất và thị trường.
Năm là, xuất khẩu hàng nông sản góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp.
Xuất khẩu nông sản tăng làm đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu,
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, từ đó góp phần thay đổi cơ cấu
mặt hàng xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa có giá trị cao, đảm bảo vấn đề vệ sinh an
toàn thực phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường
thế giới. Xuất khẩu nông sản tăng hình thành càng vùng sản xuất
chuyên môn hóa, tạo thuận lợi cho việc chăm sóc, áp dụng tiến bộ
kỹ thuật và xóa bỏ dần cách thức sản xuất manh mún, nhỏ lẽ trước
đây.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy rằng, về mặt lý thuyết xuất
khẩu nông sản và tăng trưởng nông nghiệp có mối quan hệ thuận
chiều, nhưng trên thực tế các quốc gia có phát huy được mối quan
hệ này hay không còn phụ thuộc rất lớn vào tình hình cụ thể của
18
quốc gia đó và tăng trưởng nông nghiệp không chỉ chịu tác động
của một nhân tố đó là xuất khẩu nông sản.
Thực tế, trong những năm qua ngành nông nghiệp Việt Nam đã
có những bước chuyển mình, tạo ra sự thay đổi lớn trong sản xuất,
cơ cấu, chất lượng, giá cả sản phẩm và uy tín của nông sản trên thị
trường quốc tế. Chúng ta có thể nhìn nhận sự thay đổi đó thông qua
số liệu ở bảng 1.
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
nông sản (%)
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2006 2007
Tốc độ tăng trưởng XKNS
11.5 26.6 61.5 26.5 24.5
Tốc độ tăng trưởng NN
3.62 4.36 4.04 3.4 3.25
Nguồn: Niên giám thống kê
Từ bảng 1 có thể thấy, trong giai đoạn từ năm 2003-2006 xuất
khẩu nông sản của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đều đặn từ 11.5%
năm 2003 lên 26.6% năm 2004 và 61.5% năm 2005. Sự tăng trưởng
này làm cơ sở cho tăng trưởng nông nghiệp cũng tăng đều đặn từ
3.62% năm 2003 lên 4.04% năm 2005. Riêng năm 2006 và năm
2007, kinh tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp nói riêng gặp
nhiều khó khăn do thời tiết, khí hậu, thiên tai không thuận lợi. Đó là
hạn hán, bảo số 1 (Chin chu), bão số 6 (xang sane), lốc xoáy, mưa
đá, dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng…nhất là đợt không
khí lạnh cuối năm 2007 và đầu năm 2008 đã gây ảnh hưởng rất lớn
và để lại những hậu quả rất nghiêm trọng. Điều này làm cho việc
19
sản xuất và xuất khẩu nông sản gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng
lớn đến nông nghiệp Việt Nam vì nông nghiệp là ngành chịu tác
động lớn nhất của điều kiện tự nhiên. Kết quả tốc độ tăng trưởng
nông sản chỉ đạt 26.5% năm 2006, 24.5% năm 2007 và nông nghiệp
cũng chỉ đạt 3.4% năm 2006, 3.25% năm 2007. Nhưng đạt được kết
quả này cũng đã thể hiện sự phấn đấu hết sức mình của người dân
nhằm đạt được mục tiêu năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế là
8.5%.
Như vậy, xuất khẩu hàng nông sản có mối vai trò quan trọng
với tăng trưởng nông nghiệp, sự biến động của xuất khẩu hàng nông
sản sẽ kéo theo sự biến động của tăng trưởng nông nghiệp và muốn
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nông nghiệp thì cần phải bắt đầu từ
các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản.
1.4.2.3. Góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu
Hàng nông sản xuất khẩu là một trong những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của ta, hàng năm nó góp phần rất lớn vào tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước.
Xuất khẩu nông sản của nước ta những năm qua tăng mạnh
nhất là sau khi nước ta gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu hàng
nông sản cũng như kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng cao.
20
- Xem thêm -