SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“BƯỚC ĐẦU RÈN KỸ NĂNG SỐNG HÒA CÙNG VỚI
CHƯƠNG TRÌNH CHĂM SÓC GIÁO DỤC TRẺ MẪU
GIÁO LỚN A3 TẠI TRƯỜNG MẦM NON A THỊ TRẤN
VĂN ĐIỂN”
Theo khảo sát mà Vnexpress đã thực hiện mới đây, 91% các bà mẹ
Việt Nam đánh giá: trẻ em có độ tuổi từ 1- 6 tuổi có kỹ năng sống
còn hạn chế. Những kỹ năng sống cơ bản của trẻ dưới 6 tuổi không
chỉ bao gồm tính tự giác, dễ thích nghi, có mối quan hệ tốt với bố
mẹ, những người thân trong gia đình mà còn bao gồm khả năng
nhận biết cảm xúc, có sức đề kháng lại những tác động xấu của
môi trường và hình thành lòng yêu mến thiên nhiên. Điều đáng lưu
ý là thực trạng trẻ kém phát triển về kỹ năng sống đặc biệt phổ
biến ở các gia đình thành thị. Theo chuyên gia tâm lý Lê
Khanh (thành phố Hồ Chí Minh) thì cách chăm sóc và dạy dỗ của
các bậc phụ huynh chính là yếu tố quyết định đến sự phát triển một
số các kỹ năng sống ban đầu của trẻ.Theo ông, cách chăm sóc con
trẻ của phụ huynh VN hiện nay có nhiều mâu thuẫn trong cách
dạy, vừa nuông chiều lại vừa áp đặt. Nhất là còn mang nhiều tính
bao bọc bằng cách hạn chế sự tiếp xúc của trẻ với thế giới bên
ngoài để tránh các nguy cơ mắc bệnh, nhiễm bẩn; hay cấm đoán trẻ
không được đụng chạm và khám phá các vật dụng do lo lắng trẻ bị
tổn thương hoặc làm hư vỡ.
Thực tế, Bộ GD&ĐT đã đưa KNS vào chương trình học với
phương châm “xây dựng trường học tích cực, HS thân thiện”.
Nhưng việc và học chỉ là lồng ghép, lấp khoảng trống một cách
không bài bản. Trong hầu hết các lớp học, hiện tượng trẻ thiếu
mạnh dạn, tự tin chiếm đa số; buổi sáng trẻ tới trường vẫn còn tình
trạng nhiều trẻ nhõng nhẽo, khóc lóc; trong giờ hoạt động chung,
trẻ thường ngồi thụ động ; khi cô giáo hỏi thì rất ít trẻ mạnh dạn
phát biểu nhưng khi vui chơi thì nhiều trẻ lại hưng phấn, đùa
nghịch quá đà. Bên cạnh đó, môi trường tiếp xúc mở rộng sẽ mang
lại nhiều mối quan hệ mới như quan hệ bạn bè trong lớp học,
trường học, quan hệ với nhiều người ngoài xã hội như bạn hàng
xóm…Do đó, đòi hỏi trẻ mầm non nói chung, trẻ mẫu giáo lớn nói
riêng phải có những phương thức tiếp cận phù hợp và thích ứng
với các vấn đề xã hội mới nảy sinh đó.
Năm học 2012 – 2013 nghành giáo dục mầm non tập trung
thực hiện tốt một trong các nhiệm vụ trọng tâm là “Tăng cường
công tác giáo dục toàn diện …Chú trọng và tăng cường giáo dục
văn hóa truyền thống, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống”. Là
một giáo viên mầm non có hơn 10 năm công tác trong sự nghiệp
trồng người, tôi nhận thấy những khiếm khuyết của trẻ cũng là
những thách thức luôn đặt ra với những người giáo viên mầm non
như tôi câu hỏi: “làm thế nào để trẻ em Việt Nam có thể tự tin
đứng sánh vai với bạn bè năm châu như lòng mong mỏi của chủ
tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng mong?”
Xuất phát từ những lí do trên, năm học 2012 – 2013 tôi đã
mạnh dạn lồng ghép thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm: bước
đầu rèn kĩ năng sống hòa cùng với chương trình chăm sóc giáo dục
trẻ mẫu giáo lớn A3 tại trường mầm non A Thị Trấn Văn Điển và
đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
“Kỹ năng sống” có tác dụng lớn trong hình thành tư duy, nhân
cách mỗi người. Đó là thái độ sống, giá trị sống căn bản, như sống
trung thực, can đảm đối mặt sự thật, biết thương yêu và biết cách
vượt lên nghịch cảnh, biết kiểm soát bản thân, làm chủ thời gian
sống…
Kỹ năng sống gắn với thực tế, đi liền với cuộc sống các thế hệ.
Ai được học, có cơ hội rèn luyện kỹ năng sống, ứng biến tích cực
với mọi tình huống xảy ra, biết cách đối diện và đương đầu, vượt
qua những khó khăn, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột, bạo
lực…, người đó được rèn luyện, phát triển tính cách tự chủ, tự tin
vào bản thân, tinh thần trách nhiệm cùng khả năng diễn đạt,
00 được thành công trong đời.
Học kỹ năng sống, vì vậy, không chỉ cần cho nhiều thế hệ, mà
đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn 5 tuổi, khi các con bắt đầu bước vào
giai đoạn đỉnh cao của sự ham học hỏi và tìm tòi với câu hỏi
thường trực trên môi: “ Vì sao…” “Kỹ năng sống” vì vậy không
nên coi là vấn đề để “lên lớp”, dạy khôn. Đó là vô số kỹ năng,
cách xử thế, kinh nghiệm trực tiếp cần cập nhật.
1. Cơ sở thực tiễn:
II.1.Ưu điểm:
Trường mầm non A Thị trấn Văn Điển là ngôi trường đạt chuẩn
Quốc gia mức độ 1 từ tháng 12-2011; trường có bề dày về kiến
thức và kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ. Trong trường có đầy
đủ hệ thống phòng chức năng và các phòng sinh hoạt chung cho
trẻ, lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi A3 là lớp có 2/2 giáo viên đạt chuẩn,
trong đó có 1 giáo viên có trình độ đại học và 1/2 giáo viên còn lại
đang theo học đại học. Lớp có cơ sở vật chất khang trang, sạch đẹp
đạt chuẩn quốc gia, có tập thể các bậc phụ huynh đa số luôn quan
tâm đến con em mình. 100% học sinh của lớp đều đã qua lớp 3, 4
tuổi nên hầu hết có kĩ năng phục vụ và học tập tốt.
Bên cạnh đó, cũng như các trường mầm non khác trong cả
nước, trường mầm non A Thị Trấn Văn Điển cũng thực hiện
chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ theo qui định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Chương trình này tạo điều kiện cho giáo viên và
nhà trường xây dựng, thực hiện chương trình phù hợp với trẻ ở địa
phương mình, tạo cơ hội cho nhà trường đưa ra được chương trình
phù hợp với trẻ em nơi đây, gồm phần lớn là con em các gia đình
làm nghề buôn bán và công nhân, trí thức. Rèn luyện kĩ năng sống
đã được lồng ghép trong tổ chức các hoạt động cho trẻ song việc
thực hiện đạt hiệu quả chưa cao.
II.2. Hạn chế:
Vào đầu năm, rất nhiều trẻ tại lớp tôi có tính nhút nhát. Sáng đến
lớp trẻ chưa tự tin chào cô giáo, trong giờ học bài thì trẻ rất ngại
phát biểu ý kiến, rụt rè, ngại chia sẻ cảm xúc, nhưng đến giờ chơi
thì trẻ lại hò hét rất to, nói chuyện nhiều. Lớp có tình trạng trẻ
không xin đi vệ sinh nhưng lại hay tè dầm…Đến lớp trẻ im lặng,
có khi cả ngày không nói gì nhưng phụ huynh chia sẻ là về nhà
cháu nói rất nhiều…
III. Các biện pháp thực hiện
1.Phát triển kỹ năng giao tiếp
1.1. Nguyên nhân áp dụng:
Rèn trẻ kĩ năng giao tiếp là ý tưởng hay để giúp trẻ rèn luyện
cách cư xử tốt đẹp và lịch thiệp đối với mọi người. Qua giao tiếp
giúp trẻ trở nên dạn dĩ, tự tin, khuyến khích trẻ phát triển những
tính cách tốt như lòng nhân ái, sự yêu thương và quan tâm đến
người khác. Bình thường khi trẻ bắt đầu biết nói thì trẻ đã bắt đầu
trải nghiệm và học cách giao tiếp. Như vậy, rèn trẻ kĩ năng giao
tiếp, không chỉ với bố mẹ mà còn với bạn bè, người thân, cô giáo
và người lạ có tác dụng giúp trẻ tự tin, biết cư xử phù hợp mọi tình
huống. Tại lớp, tôi chú trọng cho trẻ giao tiếp với bạn bè, cô giáo.
1.2. Cách áp dụng:
Qua các hoạt động tại trường mầm non, trẻ đã được phát triển kĩ
năng giao tiếp với cô giáo, bạn bè. Từ đây trẻ học cách giao tiếp
với người lạ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở các hoạt động ăn, học,
chơi tại trường thì chưa đủ, giáo viên là người hướng trẻ vào các kĩ
năng giao tiếp trong tất cả các hoạt động khác, chú trọng các yếu tố
như:
– Phép lịch sự: từ những trường hợp ứng xử thông thường trong
sinh hoạt hàng ngày như trong bữa ăn, tiếp xúc với mọi người, giải
thích để trẻ hiểu tầm quan trọng của những tính cách tốt và khuyến
khích trẻ nghĩ rằng mình là người lịch thiệp. Để làm được điều đó,
tôi bắt đầu từ việc đưa ra những yêu cầu thực tế với trẻ và nhẹ
nhàng hướng dẫn để đưa trẻ vào nền nếp.
– Trò chuyện với trẻ về những mong muốn của cô khi con tới
trường. Tôi luôn cố gắng nói chuyện với trẻ một cách tự nhiên và
cởi mở về những gì tôi mong muốn ở trẻ. Bên cạnh đó tôi đặt ra
những giới hạn và hướng trẻ tin rằng việc tuân theo các giới hạn đó
là tốt cho bản thân trẻ. Tuy nhiên, tôi không làm điều đó một cách
áp đặt. Tôi cố gắng để trẻ nghĩ rằng tôi là một người bạn lớn, đáng
tin cậy của trẻ.
– Tiếp xúc với bạn bè: Tôi để ý cho trẻ tiếp xúc ngay với bạn cùng
lớp, đặc biệt ngay từ khi trẻ mới vào lớp. Những buổi đầu trẻ có
thể bỡ ngỡ và tỏ ra thiếu tự tin. Tôi chú ý đến những biểu hiện tâm
lý của trẻ khi chơi với bạn. Tôi giúp trẻ bằng cách cho phép các trẻ
cùng lớp trò chuyện nhiều hơn với bạn mới; định hướng những trẻ
cùng chơi với bạn vào những trò chơi hay hoạt động mà trẻ thích
và có năng khiếu; hoặc cho bé làm bạn với đồ chơi… của lớp.
Bên cạnh đó, tôi cũng trở thành một người bạn cùng chơi của
trẻ, nếu cần. Tôi luôn dành những khoảng thời gian có thể để trò
chuyện cùng trẻ. Đây là cơ hội để tôi hiểu những thiên hướng cá
nhân của trẻ và giúp trẻ định hướng những kỹ năng giao tiếp. Đến
khi trẻ có thể tự chơi với nhau một cách thuận hòa, tôi để trẻ chơi
đùa một cách độc lập. Tôi luôn giữ nguyên tắc không đặt quá nhiều
kỳ vọng hay yêu cầu đối với trẻ, vì trẻ sẽ cảm thấy áp lực và dễ trở
nên tự ti. Thay vào đó tôi luôn lắng nghe, quan sát và cố gắng hiểu
trẻ.
– Để trẻ tiếp xúc với những hình mẫu tốt:
Khi trẻ bắt đầu có xu hướng chú ý và bắt chước theo hành động
của bạn khác hay của cô giáo, người lớn, tôi chú ý để trẻ tiếp xúc
với những “người mẫu” mà trẻ cảm thấy yên tâm. Những tính cách
tốt học được từ những cuộc tiếp xúc như vậy sẽ giúp định hình suy
nghĩ và cách ứng xử của trẻ.
– Sống mẫu mực:
Những giáo viên trong lớp luôn dùng những thái độ và cách
thức tích cực để cư xử với nhau. Đó là nguyên tắc vàng trong giao
tiếp thông thường không chỉ trong lớp mà còn với đồng nghiệp
ngoài lớp, với phụ huynh. Bất kể mục đích giao tiếp là gì, tôi luôn
suy nghĩ chín chắn và thận trọng để tránh gây ra những hậu quả
không hay. Trẻ sẽ học được cách cư xử đúng đắn từ ngay những
người thân yêu của mình mà trước hết là người “mẹ hiền” luôn bên
trẻ.
– Hướng trẻ vào các hoạt động xã hội mà trước hết là các hoạt
động tập thể: Việc tham gia vào các hoạt động tập thể không chỉ
giúp trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin mà còn khuyến khích trẻ phát
triển những tính cách tốt như lòng nhân ái, sự yêu thương và quan
tâm đến người khác. Có rất nhiều cơ hội để tôi dạy trẻ biết ý nghĩa
của các hoạt động xã hội. Chẳng hạn bên cạnh việc tham gia các
hoạt động chung tại trường, lớp với các bạn, tôi còn dạy trẻ thêm
những việc hữu ích nho nhỏ nhưng nhiều ý nghĩa như: xếp ghế
giúp các em lớp bé chuẩn bị xem văn nghệ, giúp bạn bằng cách
cho bạn mượn quần áo khi bạn tè dầm mà không mang đồ … Từ
những hoạt động này, trẻ có thể học được những thói quen làm
điều thiện khi trưởng thành.
1.3. Kết quả
Sau thời gian áp dụng sang kiến kinh nghiệm, đa số trẻ trong
lớp đã mất dần tính tự ti, trẻ trở nên hòa đồng, không chỉ với bạn
mà cả với các cô giáo. Trẻ biết chia sẻ và thích được chia sẻ với cô
và bạn về nhu cầu cũng như mong muốn,,, của trẻ; hiện tượng trẻ
tè dầm giảm xuống không còn. Bên cạnh đó, trẻ biết quan tâm tới
mọi người nhiều hơn, tính cách trẻ cũng trở nên thân ái, vui vẻ
hơn.
2. Phát triển kỹ năng thích nghi với môi trường
2.1. Nguyên nhân áp dụng
“Thích nghi” là yếu tố tiên quyết để con người hòa nhập vào
cuộc sống bắt đầu từ khi lọt lòng mẹ. Trong thời gian sơ sinh, trẻ
sống trong sự bao bọc của gia đình; dần dần, trẻ bước vào “cuộc
sống xã hội” mà cuộc sống đầu tiên đó chính là trường lớp mầm
non, sau đó sẽ là môi trường bên ngoài như hàng xóm, đám
đông…Càng thích nghi nhanh và sớm, trẻ càng dễ hòa nhập vào
cộng đồng, đó là yếu tố quan trọng giúp trẻ phát triển sự tự tin và
gạt bỏ sự rụt rè nhút nhát.
2.2. Cách áp dụng
. Theo thực đơn ăn của nhà trường, trẻ được làm quen với đa dạng
chế độ ăn. Và bắt đầu từ lúc vào trường, trẻ được ăn hết tất cả các
món ăn có thể từ thịt, cá, trứng, tôm, cua, rau xanh, củ quả,… với
khẩu phần ăn được tính toán đủ dinh dưỡng, có tính thay đổi phù
hợp theo tuần, mùa. ( Phụ lục 1, trang 16)
– Thích nghi với môi trường: Theo chế độ chăm sóc giáo dục trẻ,
hàng ngày trẻ được hoạt động ngoài trời với thời gian phù hợp giúp
trẻ thích nghi với không khí môi trường bên ngoài, vừa giúp trẻ
hấp thu Vitamin D cho da. Ngoài ra, trẻ còn được tham gia các
hoạt động ngoại khóa như đi xem xiếc, đi thăm Lăng Bác…
Qua đây, tôi cũng giúp trẻ có ý thức trong việc bảo vệ và giữ
gìn môi trường xanh, sạch, đẹp bằng cách khi đi chơi, thấy lá cây
trên sân, tôi nhặt lá cây bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ: con biết tại sao
cô bỏ lá cây vào thùng rác không? Tôi giải thích cho trẻ hiểu: việc
làm này nhằm giữ sân trường sạch đẹp cho các con học và chơi.
Lần sau thấy rác trẻ sẽ tự động nhặt rác vì trẻ hiểu rằng: nhặt rác là
làm sạch sân trường. Cùng
với yếu tố này, tôi cũng lồng ghép
cùng với chương trình khám phá khoa học giúp trẻ hiểu sâu hơn về
cách bảo vệ nguồn nước và tiết kiệm điện.
– Thích nghi với đám đông: Trong chế độ sinh hoạt hàng tuần, tôi
chú ý thường xuyên cho trẻ gặp gỡ, giao lưu với các bạn lớp khác,
trẻ còn được tham gia các lớp học năng khiếu giúp trẻ mạnh dạn
hơn, tự tin hơn khi đứng trước đám đông.
2.3. Kết quả
Thích nghi là yếu tố không thể thiếu hòa cùng với yếu tố giao
tiếp và giúp cho việc giao tiếp đạt kết quả cao. Sau 1 năm áp dụng,
trẻ lớp tôi đã biết ăn đa dạng thực phẩm, nhất là trẻ đã thích ăn
món rau. Trẻ cũng thích nghi tốt với môi trường bên ngoài, rất
thích tham gia các hoạt động tập thể và bớt hẳn tính nhút nhát.
3.
Phương pháp phát triển kỹ năng tự chăm sóc bản thân
3.1. Nguyên nhân áp dụng,
Trẻ càng lớn càng cần phải có một số kĩ năng tự phục vụ mà
thiết yếu nhất là kĩ năng tự xúc cơm, tự mặc quần áo và biết giữ vệ
sinh cá nhân. Có kỹ năng tự chăm sóc cá nhân, trẻ sẽ có tính tự
giác cao.
3.2. Cách áp dụng
Thực tế trẻ rất vụng về trong những hoạt động tự chăm sóc bản
thân như rửa tay, lau mặt, uống nước, xúc cơm không rơi vãi…
nhưng điều đó không có nghĩa là tôi sẽ nuông chiều trẻ. Ở tuổi
mẫu giáo lớn, trẻ đã có thể thực hiện các hoạt động tự chăm sóc
bản thân một cách thuần thục song có lúc trẻ lại tỏ ra lười biếng
hoặc cố tình làm hỏng hoặc kéo dài mọi việc. Tôi luôn kiên nhẫn,
động viên và khích lệ trẻ, đồng thời giải thích cho trẻ hiểu tác dụng
của mỗi điều con biết sẽ giúp con thêm tự tin và khéo léo hơn. Với
trẻ còn chậm, tôi kiên trì hướng dẫn thường xuyên trong hoạt động
hàng ngày, khen ngợi khi trẻ làm tốt cũng như tạo điều kiện để trẻ
thực hành thường xuyên.
3.3. Kết quả
Bằng sự kiên trì, sau thời gian áp dụng sáng kiến, trẻ đã có kĩ
năng tự chăm sóc bản thân tốt hơn trước. Các hoạt động như trẻ tự
xúc ăn, tự lấy đồ, biết mặc áo phù hợp mùa…đã mang tính tự giác
cao. Điều đặc biệt là trẻ còn tự biết nhắc nhở hay giúp đỡ bạn khi
bạn làm chưa đúng. Chính thái độ phản ứng đúng của bạn cùng lớp
có tác dụng rất quan trọng giúp trẻ lần sau thực hiện có chú ý để
làm đúng hơn.
4. Phương pháp phát triển kỹ năng tạo niềm vui thông qua
4.1. Nguyên nhân áp dụng
- Xem thêm -