Lời mở đầu
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới, Khi toàn cầu hóa về nền
kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền kinh tế
quốc tế càng trở nên cấp bách.Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên kết với các
quốc gia khác để cùng phát triển.Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung
của thế giới
Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc phải có sự cạnh tranh,Việt Nam của chúng ta cũng vậy. Là
một nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thế
giới đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội, cũng như nhiều thách thức. Sức
cạnh tranh là một yếu tố cần thiết, cấp bách và không thể thiếu đối với bất kỳ quốc
gia, hay bất kỳ dân tộc nào.
Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xóa
bỏ rào cản,chấp nhận tự do buôn bán,vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong
nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù
hợp với sự phát triển của thế giới. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam (về chất lượng và giá cả) .Nhưng làm sao và làm
thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta hiện nay đang là vấn đề
hết sức nan giải và có thể nói là đầy khó khăn, đang được nhiều người quan tâm.
Với trình độ và khả năng hiểu biết của mình còn hạn chế, em xin trình bày đề
tài: “Những cơ hội hiếm có và thách thức khó tránh khỏi của hàng hoá Việt Nam
khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Giải pháp để vượt qua những
thách thức" .
Phần I: Những vấn đề lý luận về cạnh tranh
1. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá bao gồm các yếu
tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Trên thị trường các nhà sản
xuất, người tiêu dùng, những người hoạt động buôn bán kinh doanh, quan hệ với
nhau thông qua hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá. Như vậy thực chất thị trường
là chỉ các hoạt động kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi, lưu thông hàng hoá
và mối quan hệ về kinh tế giữa người với người.
Hình thức đầu tiên của nền kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá. Kinh tế h là một
kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi và buôn
bán trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là hình thứuc phát triển cao của nền kinh
tế hàng hoá, mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều được
qui định bởi thị trường.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn muốn có được những
điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất như: thuê được lao động rẻ mà có kĩ
thuật, mua được nguyên nhiên vật liệu rẻ, có thị trường các yếu tố đầu ra tốt. Điều
đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dể chiếm lấy, nắm giữ lấy những
điều kiện thuận lợi. Sự cạnh tranh này chỉ kết thúc khi nó được đánh dấu bởi một
bên chiến thắng và một bên thất bại. Tuy vậy cạnh tranh không bao giờ mất đi trong
nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự sống còn của các doanh nghiệp. Muốn tồn
tại được buộc các doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
mình bằng cách: nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giảm chi phí sản
xuất để cạnh tranh về giá cả, cải tiến khoa học kĩ thuật… Điều này sẽ thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, đồng thời cũng làm cho xã hội phát triển nhờ kinh tế phát triển,
khoa học - kĩ thuật phát triển do đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động của doanh
nghiệp, cải tiến khoa học - kĩ thuật.
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ nơi sản xuất
kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả hơn. Tạo ra lợi ích xã hội cao hơn, mọi
người sẽ sử dụng những sản phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem lại sự đa dạng của sản
phẩm và dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng, cho người tiêu
dùng.
Như vậy cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
giúp cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi lớn hơn cho xã
hội. Cạnh tranh có thể được xem như là quá trình tích luỹ về lượng để từ đó thực
hiện các bước nhảu thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc
thang của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển di lên, tốt đẹp hơn. Vậy sự tồn tại của
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh là
sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau
để giành giật lấy những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, nhằm tối
đa hoá lợi nhuận của mình. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vừa là môi
trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Do đó mà cạnh tranh đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua một số chức năng sau:
Thứ 1: Cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh: cạnh tranh trong nội bộ
ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau.
Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành là sự cạnh tranh nhằm
giành giật lấy những điều kiện có lợi cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được
lợi nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về sản phẩm. Do đó
kết quả của sự cạnh tranh này là hình thành nên giá trị thị trường của từng loại mặt
hàng. Đó là giá trị của hàng hoá được tính dựa vào điều kiện sản xuất trung bình của
toàn xã hội. Nếu như doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất dưới mức trung bình
sẽ bị thiệt hại hay bị lỗ vốn. Còn những doanh nghiệp có điều kiện sản xuất trên
mức trung bình của xã hội sẽ thu được lợi nhuận thông qua sự chênh lệch về điều
kiện sản xuất.
Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Là
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác nhau. Mục đích
của cạnh tranh này là tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Các doanh nghiệp tự do di chuyển
TB của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh tranh này dẫn đến hình thành nên
tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.
Việc hình thành nên giá thị trường của hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận bình quân là
điều quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Với giá trị thị trường của hàng hoá cho
biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi hoặc không có hiệu quả. Từ đó sẽ có những
thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Với tỉ suất lợi nhuận bình
quân cho biết lợi nhuận của các nhà tư bản sẽ là như nhau cho dù đầu tư vào những
ngành khác nhau với lượng TB như nhau.
Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả nhất.
Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại hay một số loại hàng hoá cạnh tranh nhau
về giá bán, hình thức sản phẩm, chất lượng sản phẩm trong quá trình cạnh tranh đó
doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng suất lao động cao hơn thì doanh
nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử dụng các nguồn nguyên vật liệu của
xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cho xã hội cao hơn. Nếu cứ để cho các doanh
nghiệp kém hiệu quả sử dụng các loại nguồn lực thì sẽ lãng phí nguồn lực xã hội
trong khi hiệu quả xã hội đem lại không cao, chi phí cho sản xuất tăng cao, giá trị
hàng hoá tăng lên không cần thiết.
Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trường, kích thích thúc đẩy
việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn đầu tư vào sản
xuất trên thị trường, khi cung một hàng nào đó lớn hơn cầu hàng hoá thì làm cho giá
cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp sẽ
giảm xuống. Nếu như giá cả giảm xuống dưới mức hoặc bằng chi phí sản xuất thì
doanh nghiệp đó làm ăn không có hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có những doanh
nghiệp nào có chi phí sản xuất giá cả thanh toán của hàng hoá thì doanh nghiệp đó
mới thu được. Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại được thì phải giảm chi
phí sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động bằng cách tích cực ứng dụng
đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất.
Ngược lại khi cung một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu hàng hoá của thị trường
điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả của hàng hoá
tăng cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên, điều này kích thích các
doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng dụng khoa học - công
nghệ tiên tiến hoặc mở rộng qui mô sản xuất để có được lượng hàng hoá tung ra thị
trường. Điều này làm tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng
lực sản xuất của toàn xã hội. Điều này quan trọng là động lực này hoàn toàn tự
nhiên không theo và không cần bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan
quản lý nhà nước.
Thứ tư: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường không chỉ có cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những người lao
động với nhau, để có được một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp. Điều đó khiến
cho mọi người trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề của mình.
Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con người ta hoàn thiện hơn, cạnh tranh đóng
góp một phần trong việc hình thành nên con người mới trong xã hội mới thông
minh, năng động và sáng tạo.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến có kẻ thắng và người
thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ làm ăn hiệu quả. Kẻ yếu thì bị phá
sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực. Bởi
vì có như vậy thì các nguồn lực của xã hội mới được chuyển sang cho những nơi
làm ăn hiệu quả. Việc nâng cao các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự lãng
phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có hiệu quả sản xuất của xã hội cao buộc
chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của những doanh nghiệp yếu kém. Sự phá sản
này không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà đó là sự huỷ diệt sáng tạo.
3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh trong kinh doanh
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá luôn muốn tự mình quyết định đến việc sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá - dịch vụ của mình. Nhưng cạnh tranh trên thị trường đã
không cho phép họ làm như vậy. Do đó các doanh nghiệp luôn muốn xoá bỏ cạnh
tranh đã ra đời để đáp ứng yêu cầu của họ. Độc quyền trong kinh doanh là việc một
hay nhiều tập đoàn kinh tế với những điều kiện kinh tế chính trị, xã hội nhất định
khống chế thị trường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Độc quyền
thường dẫn đến xu hướng cửa quyền, bạo lực và trong một số trường hợp nó cản trở
sự phát triển của khoa học kĩ thuật, làm chậm thâm chí lãng phí các nguồn lực xã
hội. Bởi lẽ với thế độc quyền các doanh nghiệp sản xuất không cần quan tâm đến
việc cải tiến máy móc kĩ thuật, không cần tìm cách nâng cao năng suất lao động mà
vẫn thu được lợi nhuận cao nhờ vào độc quyền mua và độc quyền bán. Độc quyền
là sự thống trị tuyệt đối trong lưu thông và sản xuất nên dễ nảy sinh giá cả độc
quyền, giá cả lũng đoạn cao,... Do vậy, sự phục vụ của người tiêu dùng nói riêng và
cho xã hội nói chung là kém hiệu quả hơn so với cạnh tranh tự do. Trong nhiều
trường hợp độc quyền áp đặt sự tiêu dùng làm cho xã hội. Chính do cung cách ấy
mà độc quyền thường làm cho xã hội luôn luôn ở tình trạng khan hiếm hàng hoá,
sản xuất không đáp ứng được nhu cầu ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
Độc quyền hình thành biểu hiện sự thất bại của thị trường. Để có sự cạnh tranh hoàn
hảo, nhiều quốc gia đã coi chống độc quyền và tạo nên cạnh tranh hoàn hảo là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước. Để tạo nên cạnh tranh lành mạnh và
chống độc quyền trong kinh doanh thì cần phải có những điều kiện nhất định.
a) Điều kiện về các yếu tố pháp lý - thể chế đối với hoạt động kinh doanh
Để có sự cạnh tranh trong nền kinh tế thì cần phải hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngày nay trong quá trình hội nhập ngày càng cao thì các thể chế pháp lý không chỉ
do nhà nước ban hành mà nó còn được ban hành bởi các tổ chức quốc tế hoặc do
một khu vực kinh tế gồm nhiều quốc gia ban hành. Yếu tố pháp lý thể chế nhân tố
quan trọng trong hình thành nên môi trường kinh doanh - là đất sống của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Mõi yếu tố pháp lí - thể chế đều tác động vào một lĩnh vực
nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nó được dùng để điều chỉnh các
hành vi hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các chủ thể kinh tế muốn tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nào đều phải dựa vào các thể chế
- pháp lí đã được ban hành đối với lĩnh vực nào đó để tham gia hoạt động kinh tế.
Như vậy sẽ hình thành nên một môi trường kinh doanh ổn định khoa học.
b) Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân
Các tổ chức quốc tế, các hiệp hội cũng như nhà nước khi ra các qui định pháp lí thể chế đều phải dựa vào điều kiện và tình hình thực tế, điều này đảm bảo tính sát
thực của các qui định. Nhà nước dựa vào các qui định để điều hành quản lý nền
kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của quản lý, chỉ đạo giám
sát thực hiện các qui định pháp lí là hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho việc các qui
định pháp lí - thể chế được thực hiện. Do vai trò hết sức quan trọng đó mà việc quản
lý kinh tế của nhà nước đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước phải có đủ trình độ chuyên
môn, năng lực trong quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường với môi trường
cạnh tranh gay gắt. Việc các công ty hoặc các tổ chức độc quyền hình thành là điều
dễ dàng. Do vậy để chống độc quyền và tạo nên sự cạnh tranh thì với bộ máy quản
lý kinh tế non kém thì nhà nước sẽ không thể quản lí được nền kinh tế, các bản qui
định không thể đưa vào áp dụng trong thực tế, hoặc nếu có đưa vào áp dụng được
thì khó lòng mà giám sát, chỉ đạo việc thực hiện. Điều này sẽ gây ra việc làm thất
thoát, l•ng phí tài sản quốc gia, tình hình kinh doanh bất ổn định, tạo điều kiện cho
các tổ chức độc quyền hình thành. Thực tế ở Việt Nam cho thấy: trong xây dựng cơ
bản việc đầu tư dàn trải không có trọng điểm gây lãng phí vốn đầu tư. Trong các dự
án, công trình xây dựng việc thất thoát vốn là rất lớn do việc câu kết thông đồng, ăn
dơ với nhau giữa các chủ đầu tư và xây dựng. Tất cả các điều trên phần lớn là do bộ
máy quản lý còn non kém. Chưa đưa ra được những qui định pháp lí - thể chế để
điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Việc các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thuốc
đầu cơ, thông đồng với nhau tạo ra sự khan hiếm giả tạo để đẩy giá thuốc lên cao.
Điều này cũng tương tự đối với thị trường bất động sản.
Ngày nay quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới nên việc
nâng cao năng lực quản lý kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng để tạo nên cạnh
tranh .
c) Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các chủ thể kinh
doanh
Các chủ thể kinh tế là đối tượng tác động của các văn bản pháp lí - thể chế. Nhà
nước ban hành và giám sát, chỉ đạo các chủ thể kinh tế thi hanh các qui định của
văn bản pháp lí - thể chế. Để các qui định được thực hiện tốt thì ngoài vai trò quản lí
tốt của Nhà nước còn có hành vi thực hiện của các chủ kinh doanh và nhân dân. ý
thức thực hiện các qui định văn bản của các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh tế
là điều kiện đủ để tạo nên cạnh tranh trong kinh doanh. Năng lực của các cơ quan
quản lí là có hạn cho nên trong quá trình quản lý không thể khong mắc những sai
lầm, thiếu sót. Khi đó sẽ là điều kiện tốt cho những tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh, độc quyền lợi dụng sai sót của cơ quan quản lý để hoạt động. Trong những
tình huống như vậy để tạo nên cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền rất cần có
tinh thần, ý thức của các chủ thể kinh doanh cũng như của nhân dân. Tinh thần trách
nhiệm, ý thức tốt của các chủ thể kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
của các cơ quan quản lý.
Phần II
Cơ hội và thách thức của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Giải pháp để vượt qua những thách thức
I. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi gia nhập WTO
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã khẳng định quá trình
đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đưa nền kinh tế tăng tốc. Việc vào WTO
sẽ mang lại những cơ hội, cũng như thách thức mới cho nước ta.
1. Cơ hội khi gia nhập WTO
1.1. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu
Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ
tự do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng
nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong
việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế.
Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số
ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được
WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương
mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng
đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam
sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với
các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO
cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ
hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông
sản như Việt Nam.
1.2. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và
minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia
nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rõ ràng về quyết tâm cải cách của nước ta,
tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ
hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh
bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu
hút vốn đầu tư của nước ngoài.
1.3. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến
môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép
cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ
phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho
toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng
sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó
có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên
thị trường quốc tế.
1.4. Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở lên thông
thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta
vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá
hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá
giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía
nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế
giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các
nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang
phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này.
2. Thách thức của việc gia nhập WTO
Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền
kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là:
2.1. Sức ép cạnh tranh
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch
vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn.
Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh
nghiệp đã quen với "bầu vú bao cấp" của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ
không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó
là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua
trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách
thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến.
Riêng đối với khu vực nông nghiệp, việc gia nhập WTO có thể sẽ mang lại khó
khăn nhiều hơn bởi chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp khó có thể diễn ra
trong một sớm, một chiều. Chính phủ luôn lưu tâm đến yếu tố này trong đàm phán
gia nhập WTO và hy vọng kết quả đàm phán cuối cùng sẽ là một kết quả chấp nhận
được đối với lĩnh vực nông nghiệp.
2.2. Thách thức của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu
và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản xuất không hiệu
quả có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu quả hơn. Quá
trình này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Đây là
thách thức hết sức to lớn. Chúng ta chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có
chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích
ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường
các giải pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn.
2.3. Thách thức của việc hoàn thiện thể chế và cải cách nền hành chính quốc gia.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến kinh tế thương mại, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết,
phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để đảm bảo một môi trường
cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Sau đó, phải liên tục hoàn thiện
môi trường kinh doanh để thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh,
yếu tố quyết định sự thành bại của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí lại nguồn
lực. Cuối cùng, những cam kết mở cửa thị trường của ta là cam kết theo lộ trình nên
tiến trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian
dài.
Một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hoá. Đây là thách thức
to lớn đối với mọi nền hành chính quốc gia. Khi gia nhập WTO, nền hành chính
quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn và hiệu quả
hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và
doanh nhân, coi trọng doanh nghiệp và doanh nhân hơn nữa, khắc phục "sức ỳ" của
tư duy và khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được
một nền hành chính như vậy, sẽ không thể tận dụng được các cơ hội do việc gia
nhập WTO đem lại.
2.4. Thách thức về nguồn nhân lực
Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền
hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội
ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một
thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh
nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu
không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn
dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ
chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật
lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán
gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu.
Từ những cơ hội cũng như thách thức đó, hiện nay Việt Nam đang đẩy nhanh công
tác chuẩn bị gia nhập WTO. Về chuẩn bị điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ thành
viên, thời gian qua Quốc hội và các cơ quan Chính phủ đã khẩn trương đẩy nhanh
chương trình xây dựng pháp luật. Quá trình rà soát văn bản pháp luật đã tiến hành ở
Trung ương. Bộ Tư pháp đang tiếp tục hướng dẫn các tỉnh rà soát lại các văn bản
quy phạm pháp luật của địa phương, có đối chiếu với quy định của WTO và cam
kết của nước ta. Các địa phương cũng đang khẩn trương, nghiêm túc tiến hành rà
soát, điều chỉnh các quy định, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại - đầu tư để đảm
bảo tính thống nhất với các văn bản của Nhà nước và cam kết quốc tế. Đồng thời,
chúng ta cũng đang đẩy mạnh triển khai các chương trình hành động thực hiện các
hiệp định của WTO như Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (IL); Hiệp định
về các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs); Hiệp định về kiểm
dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS)…
Để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, chúng ta đã tập trung đầu tư phát
triển các ngành có lợi thế cạnh tranh để hướng vào xuất khẩu như nâng cao chất
lượng và giá trị chế biến của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản; đầu tư công nghệ và
quản lý để nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống
như dệt may, da giày…; khuyến khích các ngành hàng có hàm lượng công nghệ và
chất xám cao, có tiềm năng phát triển như điện tử, tin học… Đồng thời, tăng cường
công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập
thị trường quốc tế. Ngoài ra, nên tiếp tục củng cố hệ thống cơ quan đại diện thương
mại ở nước ngoài và gắn kết hoạt động của các cơ quan này với các doanh nghiệp,
hoàn thiện hành lang pháp lý và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng để giúp các
doanh nghiệp làm quen và ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử.
Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng
cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị
trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm
dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế
quốc tế…
Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm
gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ
động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua
những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực
bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất
Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020.
II. Giải pháp để vượt qua thách thức
Doanh nghiệp là nhân vật trung tâm của kinh tế thị trường khi chuyển đổi từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung sang, lại càng là nhân vật trung tâm trong mở cửa hội nhập.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, trong rất nhiều công việc phải làm, các doanh nghiệp
cần tập trung làm bốn việc chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, doanh nghiệp chủ động tìm hiểu luật chơi của WTO, nghiên cứu kỹ
những thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến.
Luật chơi cơ bản của WTO là cắt giảm thuế quan, xóa bỏ các hàng rào phi thuế
quan (như hạn ngạch, cấp phép xuất - nhập khẩu), xóa bỏ trợ cấp, mở cửa thị
trường, tạo "sân chơi" bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, bảo
đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, tài sản trí tuệ và bản quyền. Luật chơi đó tạo thuận
lợi cho các nước thành viên mở rộng thị trường, thâm nhập thị trường các nước và
tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý của nước ngoài; tham gia vào quá
trình thiết lập các luật chơi mới, xử lý tranh chấp thương mại; thúc đẩy các doanh
nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh; đem lại lợi ích cho người tiêu
dùng.
Những thỏa thuận về việc gia nhập WTO trong cuộc đàm phán song phương với
Mỹ và đàm phán đa phương tới đây sẽ được phổ biến rộng rãi, cần được các doanh
nghiệp nghiên cứu kỹ để hiểu rõ những thuận lợi và khó khăn hậu WTO. Ngoài
những điểm cơ bản như trên còn có những thỏa thuận cụ thể về ngành, lĩnh vực, sản
phẩm; về tỷ lệ nắm giữ cổ phần; về lộ trình với những thời hạn cụ thể...
Thứ hai, rà soát, sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của
sản phẩm và doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp
được quyết định bởi việc giảm thiểu chi phí sản xuất, kinh doanh. Muốn giảm chi
phí sản xuất kinh doanh, phải đổi mới kỹ thuật, thiết bị - công nghệ, tiết giảm chi
phí nguyên nhiên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí quản lý,
chi phí ngoài sản xuất, chi phí lưu thông...
Thứ ba, coi trọng việc nắm bắt, cập nhật thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan
đến tiêu thụ, nhất là sự biến động của thị trường thế giới, coi thông tin là lực lượng
sản xuất trực tiếp. Khắc phục tình trạng chỉ chú tâm đẩy mạnh sản xuất đôi khi
những sản phẩm mà thị trường không cần hoặc cần nhưng với số lượng, chất lượng,
chủng loại, mẫu mã, giá cả, thị hiếu phù hợp hơn.
Thứ tư, đào tạo và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, yếu tố nội lực có tầm quan
trọng hàng đầu để hội nhập. Việt Nam có lợi thế về số lượng lao động dồi dào, giá
cả rẻ, nhưng lợi thế rẻ đang giảm dần, trong khi tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn
rất thấp (mới được một phần tư, còn ba phần tư chưa qua đào tạo); cơ cấu đào tạo
chưa hợp lý; chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập. Doanh nghiệp cần phối hợp với
các cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phù hợp.
Kết luận
Để tồn tại và phát triển bền vững trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày
nay, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá
của mình bằng các biện pháp chủ yếu là cải tiến đổi mới, công nghệ bên cạnh việc
kết hợp hài hoà, chọn lọc các biện pháp bổ sung thích hợp. Hy vọng rằng trong
tương lai không xa, các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các
sản phẩm của doanh nghiệp nói riêng sẽ chiếm lĩnh được thị trường trong nước và
có vị thế ở thị trường nước ngoài./.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế chính trị
2. Trang Web: vinanet.com.vn
thanhnien.com.vn
gov.com.vn
- Xem thêm -