1
Luận văn
Thị trường trái phiếu Chính
phủở Việt Nam-Thực trạng và
giải pháp hoàn thiện
1
2
MỞĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Thị trường TPCP là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính. Nócó
chức năng thu hút, di chuyển các nguồn vốn từ nơi có khả năng sinh lợi thấp đến
nơi có khả năng sinh lợi cao hơn và từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn;đáp ứng các
yêu cầu về vốn đểphát triển kinh tếvà là công cụ hữu hiệu của Chính phủ trong quá
trình điều hành vĩ mô nền kinh tế.
Trải qua hàng chục năm hình thành và phát triển, thị trường TPCPở Việt
Namđãkhẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong việc huy động vốn cho
NSNN và cho đầu tư phát triển;ổn định nền tài chính quốc gia; kiểm soát được lạm
phát; thúc đẩy quá trình phát triển của thị trường tài chính. Với sự có mặt của TTCK
nói chung và thị trường TPCP nói riêng,đã góp phần khắc phục được những khiếm
khuyết của thị trường tài chính, tạo cơ hội cho việc luân chuyển vốn đầu tư, đáp ứng
yêu cầu về vốn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ở Việt Nam, để thực hiện thành công mục tiêu nâng thu nhập quốc dân năm
2010 tăng gấp đôi năm 2000; duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 7%- 8%; phấn
đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại hoá vàđẩy nhanh tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Chính phủ
Việt Nam phải đầu tư một lượng vốn khá lớnđể phát triển kinh tế - xã hội.Theo tính
toán của các chuyên gia kinh tế, trong giai đoạn 2001-2010 tổng nhu cầu vốn đầu
tư của toàn xã hội khoảng 155-165 tỷ USD (trong đó vốn trong nước chiếm khoảng
65%).Trước mắt giai đoạn 2006-2010 nhu cầu vay trong nước thông qua thị trường
TPCP ước tính khoảng 100.190 tỷđồng. Huy động vốn thông qua thị trường TPCP
thời gian qua đãđạt được những kết quả khả quan, là kênh huy động vốn quan trọng
cho NSNN và cho đầu tư phát triển.Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thị trường
TPCP ở Việt Nam còn bộc lộkhông ít nhượcđiểm, chưa tương xứng với vị trí và
tiềm năng của nền kinh tế; thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp còn bộc lộ những
hạn chế nhất định. Để khai thác có hiệu quảcác nguồn vốn thông qua thị trường
TPCP,đáp ứng nhu cầu về vốn cho NSNN vàcho đầu tư phát triển,đòi hỏi thị trường
TPCP phải ngày càngđược củng cố, phát triển và hoàn thiệnhơn nữa.
2
3
Từ những lý do trên, tác giảđã chọn đề tài luận văn:“Thị trường trái phiếu
Chính phủở Việt Nam-Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trình bầy lý luận cơ bản, tổng quan về trái phiếu Chính phủ và thị trường trái
phiếu Chính phủ; làm sáng tỏ sự tồn tại tất yếu khách quan, chức năng và vai trò
của thị trường TPCP trong nền kinh tế. Tham khảo kinh nghiệm thị trường TPCP
của một số nước phát triển trên thế giới, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm trong
quá trình phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động thị trường TPCP của Việt Nam trong giai
đoạn từ năm 1990 - 2005;đánh giá những kết quảđãđạt được, những điểm hạn chế,
tồn tại và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của thị trường TPCP ở Việt Nam.
Trên cơ sởđó, nêu ra quan điểm, định hướng vàđề xuất các giải pháp, lộ trình phát
triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thị trường TPCP ở Việt Nam, bao gồm cả thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào trái phiếu Chính phủ và thị trường TPCP,
tham khảo kinh nghiệm phát triển thị trường TPCP của một số quốc gia trên thế
giới; thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam, từđóđưa ra những giải pháp phát triển
và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đãáp dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp thống kê,
tổng hợp, phân tích, lịch sử, phát triển, so sánh,đối chiếu trong quá trình nghiên
cứu. Các phương pháp này dựa trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
5. Những đóng góp của luận văn
- Trên phương diện lý luận: Hệ thống hoá, tổng quan những lý luận cơ bản
về trái phiếu Chính phủvà thị trường TPCP. Phân tích vàđánh giá có căn cứ khoa
học về thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam.
- Trên phương diện thực tiễn: Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển
vàhoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam thời gian tới.
3
4
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mởđầu, kết luận, danh mục tài liệu, danh mục các bảng vàđồ
thị, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1:Tổng quan về trái phiếu Chính phủ và thị trường trái phiếu Chính
phủ
Chương 2: Thực trạng thị trường trái phiếu Chính phủở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp phát triển và hoàn thiện thị trường trái phiếu
Chính phủở Việt Nam.
4
5
Chương 1
TỔNGQUANVỀTRÁIPHIẾUCHÍNHPHỦVÀ
THỊTRƯỜNGTRÁIPHIẾU CHÍNHPHỦ
1.1. TỔNGQUANVỀTRÁIPHIẾUCHÍNHPHỦ
1.1.1. Khái niệm
Trái phiếu là một chứng chỉ vay nợ của Chính phủ hoặc doanh nghiệp, thể
hiện nghĩa vụ của người phát hành phải trả nợ cho người nắm giữ trái phiếu một số
tiền nhất định, vào những khoảng thời gian nhất định và phải trả lại khoản tiền gốc
khi khoản tiền vay đến hạn. Trái phiếu là loại chứng khoán nợ, tổ chức phát hành
với tư cách là người đi vay, người mua trái phiếu là người cho vay, hay còn gọi là
nhàđầu tư. Đối với người thiếu vốn, trái phiếu là phương tiện vay vốn qua thị
trường; đối với người đầu tư, trái phiếu cũng là một phương tiện đầu tưđể thu lời.
Trái phiếu thể hiện sự ràng buộc pháp lý giữa người đi vay và người cho vay;
người đi vay có trách nhiệm phải trả cho chủ nợ một khoản tiền gốc và lãi nhất
định; đây là một hình thức tín dụng có nét đặc thù riêng, nó ra đời muộn hơn các
hình thức tín dụng khác và phát triển mạnh trong nền kinh tế hàng hoá, đặc biệt làở
những quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển.
Trái phiếu có nhiều loại khác nhau, có loại do Chính phủ phát hành, có loại
do chính quyền địa phương phát hành, có loại do các công ty phát hành, có loại do
ngân hàng hoặc các định chế tài chính phát hành.
Từ những đặc điểm chung nêu trên có thểđưa ra khái niệm vềTrái phiếu
Chính phủ như sau: Trái phiếu Chính phủ là một chứng khoán nợ do Chính phủ
phát hành hoặc đảm bảo, có mệnh giá, có kỳ hạn, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ
của Chính phủđối với người sởhữu trái phiếu.
1.1.2. Phân loại trái phiếu
1.1.2.1. Phân loại theo đối tượng phát hành
- Thứ nhất,trái phiếu Chính phủ: Đểđáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN,
Chính phủ các nước thường phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong
các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Chính phủ một quốc gia luôn
được xem là nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường. TPCP là một loại chứng
khoán nợ, do Chính phủ phát hành, có thời hạn, mệnh giá, lãi suất và xác nhận
5
6
nghĩa vụ trả nợ của Chính phủđối với người sở hữu trái phiếu, TPCP là tên gọi
chung của các loại trái phiếu do KBNN phát hành và trái phiếu chính quyền địa
phương, các cơ quan được Chính phủ cho phép phát hành vàđược Chính phủđảm
bảo thanh toán.
Mục đích của việc phát hành trái phiếu Chính phủ là nhằm huy động vốn để
bùđắp thiếu hụt NSNN,đầu tư xây dựng các công trình, dựán trọng điểm hoặc để
xây dựng, thực hiện các chương trình mục tiêu của Chính phủ. Nguồn thanh toán
trái TPCP chủ yếu lấy từ NSNN hoặc nguồn vốn thu hồi trực tiếp từ các công trình
được đầu tư từ nguồn vốn phát hành TPCP mang lại.Do vậy, TPCP có tính an toàn
cao, tính rủi ro thấp bởi vì nóđược đảm bảo trả nợ bằng nguồn vốn của NSNN.
Đối với các loại trái phiếu do KBNN phát hành, trái phiếu chính quyền địa
phương nguồn vốn thanh toán được đảm bảo bằng vốn NSNN; còn đối với các loại
trái phiếu do các cơ quan khác được Chính phủ cho phép phát hành nguồn vốn
thanh toán được lấy trực tiếp từ nguồn thu của các chương trình, dựán đó mang lại;
trong trường hợp nếu các cơ quan được Chính phủ cho phép phát hành không cóđủ
khả năng thanh toán các khoản nợ thì Chính phủ sẽđứng ra trả nợ.
Trái phiếu Chính phủ có nhiều loại khác nhau, nếu căn cứ vào kỳ hạn và mục
đích phát hành thì TPCP được chia thành: Tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc;
trái phiếu công trình; trái phiếu đầu tư; trái phiếu ngoại tệ; công trái xây dựng tổ
quốc.
+ Tín phiếu kho bạc: Là loại TPCP có kỳ hạn dưới 1 năm, mục đích của
việc phát hành tín phiếu kho bạc là nhằm phát triển thị trường tiền tệ và huy động
vốn để bùđắp thiếu hụt tạm thời của NSNN trong năm tài chính. Tín phiếu kho bạc
được phát hành theo phương thức đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước, dưới hình
thức chiết khấu mệnh giá; khối lượng và lãi suất tín phiếu kho bạc được hình thành
qua kết quảđấu thầu. Bộ Tài chính có thể uỷ thác cho Ngân hàng Nhà nước, Ngân
hàng Thương mại Nhà nước phát hành, thanh toán tín phiếu kho bạc. Toàn bộ
khoản vay từ việc phát hành tín phiếu kho bạc được tập trung vào ngân sách Trung
ương để sử dụng theo quy định; ngân sách Trung ương đảm bảo nguồn thanh toán
gốc, lãi tín phiếu kho bạc và chi phí tổ chức phát hành, thanh toán cho các tổ chức
6
7
nhận uỷ thác phát hành. Tín phiếu kho bạc được giao dịch trên thị trường tiền tệ
hoặc được chiết khấu tại Sở giao dịch của Ngân hàng Nhà nước.
+ Trái phiếu kho bạc: Là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 1 năm trở
lên, do Kho bạc Nhà nước phát hành để huy động vốn bùđắp thiếu hụt của NSNN
hàng năm đãđược Quốc hội phê duyệt. Trái phiếu kho bạc đượcđảm bảo bằng ngân
sách Nhà nước, vì thế loại trái phiếu này cóđộ rủi ro không đáng kể. Trái phiếu kho
bạc được bán lẻ qua hệ thống KBNN hoặc đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng
khoán, bảo lãnh phát hành vàđại lý phát hành. Lãi suất trái phiếu kho bạc do Bộ
trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường tài chính
tại thời điểm phát hành. Trường hợp đấu thầu lãi suất thì lãi suất hình thành qua kết
quảđấu thầu.
+ Trái phiếu công trình: Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do
KBNN phát hành, nhằm huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
cho các dựán thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách Trung ương đã ghi trong kế
hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Trái phiếu công trình
Trung ương được phát hành theo phương thức bán lẻ qua hệ thống KBNN, đấu thầu
hoặc bảo lãnh phát hành. Lãi suất trái phiếu công trình Trung ương do Bộ trưởng
Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường tài chính tại thời
điểm phát hành; nếu đấu thầu lãi suất thì lãi suất được hình thành theo kết quảđấu
thầu. Các khoản thu từ phát hành trái phiếu công trình trung ương được tập trung
vào ngân sách TW để chi cho các công trình đãđược Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt. NSTW đảm bảo việc thanh toán gốc, lãi và phíđối với trái phiếu công trình
Trung ương.
+ Trái phiếu đầu tư:Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do các tổ
chức tài chính Nhà nước và các tổ chức tài chính, tín dụng được Thủ tướng Chính
phủ chỉđịnh phát hành nhằm huy động vốn đểđầu tư theo chính sách của Chính
phủ. Nếu phát hành theo phương thức bán lẻ thì lãi suất trái phiếu do Bộ trưởng Bộ
Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường tài chính và nhu cầu
vốn của các tổ chức phát hành; nếu phát hành theo phương thức đấu thầu thì lãi
suất hình thành theo kết quảđấu thầu trong giới hạn trần lãi suấtđãđược Bộ Tài
chính quy định. Tiền thu từ phát hành trái phiếu đầu tư phải được theo dõi riêng
7
8
và chỉ sử dụng cho mục tiêu kinh tếđãđược Chính phủ phê duyệt. Tổ chức phát hành
có trách nhiệm thanh toán gốc, lãi các trái phiếu đầu tưđã phát hành đến hạn thanh
toán và các chi phí liên quan đến việc tổ chức phát hành, thanh toán; NSNN
sẽđảm nhận thanh toán một phần hay toàn bộ lãi trái phiếu hoặc cấp bù chênh lệch
lãi suất cho tổ chức phát hành theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
+ Trái phiếu ngoại tệ: Là TPCP có kỳ hạn từ một năm trở lên do Bộ Tài
chính (KBNN) phát hành, huy động vốn đểđầu tư cho các mục tiêu theo chỉđịnh của
Thủ tướng Chính phủ. Đồng tiền phát hành là ngoại tệ tự do chuyển đổi vàđược Bộ
trưởng Bộ Tài chính quyết định cho từng đợt phát hành. Trái phiếu ngoại tệđược
bán lẻ qua hệ thống KBNN hoặc đấu thầu qua NHNN. NSNN đảm bảo thanh toán
gốc, lãi trái phiếu ngoại tệ khi đến hạn.
+ Công trái xây dựng tổ quốc: Công trái xây dựng tổ quốc do Chính phủ
phát hành nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân đểđầu tư xây dựng những
công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất,
đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước. Việc mua công trái thực hiện
theo nguyên tắc tựnguyện. Nhà nước đảm bảo giá trị công trái và bảo hộ quyền sở
hữu, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người sở hữu công trái.
- Thứ hai, trái phiếuđược Chính phủ bảo lãnh: Là loại chứng khoán nợ do
doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn cho các công trình theo chỉđịnh của
Chính phủ, được Chính phủ cam kết trước các nhàđầu tư về việc thanh toán đúng
hạn của tổ chức phát hành. Trường hợp tổ chức phát hành không thực hiện được
nghĩa vụ thanh toán (gốc, lãi) khi đến hạn thì Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm trả nợ
thay tổ chức phát hành.
- Thứ ba,trái phiếu chính quyền địa phương: Là một loại chứng khoán nợ, do
chính quyền địa phương phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa
vụ trả nợ của chính quyền địa phương đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu
chính quyền địa phươngphát hành nhằm mục đích để huy động vốn đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của từng địa phương.
1.1.2.2. Phân loại theo lợi tức trái phiếu
- Thứ nhất, trái phiếu có lãi suất cốđịnh: Là loại trái phiếu mà lợi tức được
xác định theo một tỷ lệ phần trăm (%) cốđịnh theo mệnh giá.
8
9
- Thứ hai, trái phiếu có lãi suất thayđổi (thả nổi): Lợi tức của trái phiếu được
trả trong các kỳ có sự khác nhau được tính theo một lãi suất có sự biến đổi theo một
lãi suất tham chiếu.
- Thứ ba, trái phiếu có lãi suất bằng không (zero - coupon Bonds): Là loại
trái phiếu mà người mua không nhận được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn
mệnh giá (mua chiết khấu) vàđược hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đóđáo hạn.
1.1.2.3. Phân loại theo hình thức trái phiếu
- Thứ nhất,trái phiếu vô danh: Là loại trái phiếu không ghi tên của người
mua trên chứng chỉtrái phiếu hoặc trong sổ sách của người phát hành. Người nắm
giữ trái phiếu là người được hưởng quyền lợi của chủ sở hữu trái phiếu theo quy
định.
- Thứ hai, trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên người đầu tư trên
chứng chỉ trái phiếu hoặc trong sổ của nhà phát hành.
Ngoài cách phân loại chủ yếu nêu trên, người ta còn có nhiều cách phân loại
khác nhau như: Dựa vào mức độ rủi ro tín dụng; dựa vào tính chất của trái phiếu;
dựa vào phạm vi phát hành (trái phiếu trong nước và trái phiếu quốc tế)....
1.1.3. Đặc điểm của trái phiếu
Trái phiếu là loại hình chứng khoán nợ, bất kỳ một loại trái phiếu nào cũng
mang những đặc điểm sau:
1.1.3.1. Tính sinh lời
Trái phiếu là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ hoặc của công ty, khi đầu tư
vào trái phiếu tức là nhàđầu tư sẽ thu lại được một khoản lợi tức mong đợi trong
tương lai; thông thường đối với các loại trái phiếu có các khoản lợi tức sau:
- Lãisuất danh nghĩa: Là lãi suất trái phiếu thường được ghi trên chứng chỉ
trái phiếu hoặc người phát hành công bố, lãi suất danh nghĩa có tính ổn định cao vì
tỷ lệ lãi suất trái phiếu và mệnh giá là cốđịnh trong một kỳ hạn. Lãi suất trái phiếu
mới chỉ phản ảnh được chủ thể phát hành phải trả lãi trái phiếu đó là bao nhiêu; điều
đáng quan tâm ởđây là lãi suất hoàn vốn, lãi suất hoàn vốn hay nói một cách chính
xác hơn là lãi suất hoàn vốn nội bộ (Internal rate of return – IRR) là một lãi suất mà
với mức lãi suất đó sẽ làm cho giá trị hiện tại của các khoản tiền thu được trong
tương lai do đầu tưđưa lại bằng với giá trị hiện tại của khoản vốn đầu tư; lãi suất
9
10
hoàn vốn là một thước đo mức sinh lời của trái phiếu cũng nhưđối với bất kỳ khoản
đầu tư nào.Giá trị hiện tại và lãi suất hoàn vốn của một trái phiếu coupon có quan hệ
nghịch đảo, giá càng cao thì lãi suất hoàn vốn càng thấp và ngược lại. Khi giá trái
phiếu coupon đượcđặt bằng mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn bằng lãi suất của cuống
phiếu. Lãi suất hoàn vốn lớn hơn lãi suất coupon khi giá trái phiếu thấp hơn mệnh
giá.
Giá trị hiện tại của trái phiếu coupon được tính theo công thức sau:
Pb
C
C
C
C
F
.....
1 i 1 i 2 1 i 3
1 i n 1 i n
(1.1)
Trong đó:
C : Là tiền coupon hàng năm (tiền lãi trái phiếu hàng năm)
F: Là mệnh giá trái phiếu (giá trị hoàn vốn của trái phiếu)
N : Là số năm tới ngày đáo hạn
Pb: Là giá của trái phiếu coupon
I : Là tỷ lệ chiết khấu được xác định theo lãi suất thị trường hoặc
lãi suất trù tính của người đầu tư
Với trái phiếu chiết khấu, giá trị hiện tại được tính như sau
Pd
F
1 i n
(1.2)
Trong đó:
F: Là mệnh giá trái phiếu
n : Là số năm tới ngày đáo hạn
Pd:Là giá của trái phiếu chiết khấu
I : Là tỷ lệ chiết khấu được xác định theo lãi suất thị trường hoặc lãi suất
trù tính của người đầu tư
- Lãi suất hoàn vốn hiện hành: Được hình thành khi mua bán trái phiếu trên
thị trường và nó là sốđo gần đúng với lãi suất hoàn vốn; khi giá mua (hoặc bán)
trái phiếu bằng mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn hiện hành chính bằng lãi suất hoàn
vốn, nghĩa là giá trái phiếu càng gần với mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn hiện hành
càng gần với lãi suất hoàn vốn. Như vậy, lãi suất hiện hành biến động cùng chiều
với lãi suất hoàn vốn.
10
11
Đối với trái phiếu có cuống thanh toán lãi, lãi suất hoàn vốn hiện hành được
xác định như sau:
Ic
C
(1.3)
Pb
Trong đó:
Ic: Là lãi suất hoàn vốn hiện hành
Pb : Là giá trái phiếu coupon (giá trái phiếu hiện hành)
C : Là tiền lãi coupon hàng năm (tiền lãi trái phiếu hàng năm)
Đối với trái phiếu chiết khấu, lãi suất hoàn vốn được tính như sau
I
F Pd
360
F
Sè ngµy tíi khi d¸o h¹n
(1.4)
Trong đó:
I :
F:
Pd:
Là lãi suất hoàn vốn
Là mệnh giá của trái phiếu chiết khấu
Là giá mua trái phiếu chiết khấu
- Lợi tức đáo hạn hay còn gọi là lợi tức đầu tư trái phiếu là mức sinh lời của
trái phiếu dựa trên lãi suất; thời gian đáo hạn và giá mua trái phiếu trên thị trường.
Lợi tức của một trái phiếu không nhất thiết phải bằng lãi suất trái phiếu đó. Lợi tức
hoàn vốn của trái phiếu được xác định như sau:
Re
C Pt 1 Pt
Pt
(1.5)
Trong đó:
Re
Pt :
Pt+1
C
: Là lợi tức trái phiếu từ t đến t+1
Là giá trái phiếu ở thời điểm t
: Là giá trái phiếu ở thời điểm t+1
: Là tiền lãi coupon
Nếu lãi suất thị trường tăng sẽ làm sụt giảm giá trái phiếu, dẫn đến tình trạng
thua lỗ về vốn đối với những trái phiếu mà thời gian đến ngày đáo hạn dài hơn thời
11
12
gian lưu giữ trái phiếu. Lãi suất thị trường tăng quá cao có thể dẫn đến tình trạng lỗ
vốn quá lớn, khi mức lỗ về vốn cao hơn mức lãi suất hiện hành ban đầu thì lãi suất
kỳ hạn của trái phiếu trở thành lãi suất âm. Lãi suất thị trường giảm sẽ làm cho giá
trái phiếu tăng lên và sẽ có mức lời về vốn đối với những trái phiếu mà thời gian
đến ngày đáo hạn dài hơn thời gian lưu giữ trái phiếu.
1.1.3.2. Tính rủi ro
Trái phiếu nào cũng có tính rủi ro, mức độ cao hay thấp thì hoàn toàn phụ
thuộc vào tính chất, đặc thù của từng loại trái phiếu. Thường thìnhàđầu tư vào trái
phiếu đều trông chờ vào tiền lãi mà không tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý
của tổ chức phát hành trái phiếu; tuy nhiên, trước lúc đầu tư vào trái phiếu họ cũng
phải so sánh, cân nhắc giữa tiền lời thu được từ lãi trái phiếu với lợi nhuận thu
được từ việc đầu tư vào các lĩnh vực khác. Khi nền kinh tế có những biến động tiêu
cực như tỷ lệ lạm phát, lãi suất thị trường cao, kinh tế khủng khoảng... thì những
yếu tố này cũng có những ảnh hưởng không nhỏđến rủi ro trong việc đầu tư vào
trái phiếu. Khi trái phiếu được lưu hành giá của trái phiếu được hình thành trên thị
trường do cung và cầu quyết định. Rủi ro đối với đầu tư vào trái phiếu thể hiện trên
hai khía cạnh đó là: Khi lãi suất thị trường tăng làm cho giá trái phiếu giảm điều này
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi tức đầu tư vào trái phiếu. Trong trường hợp trái phiếu
cótính thanh khoản thấpthì việc chuyển đổi trái phiếu ra tiền mặt sẽ gặp nhiều khó
khăn.
Các loại TP khác nhau có mức độ rủi ro khác nhau; cụ thể, TPCP có mức độ
rủi ro thấp nhất vì nguồn vốn thanh toán TPCP khi đến hạn được NSNN đảm
bảo; trái phiếu chính quyền địa phương thìđược đảm bảo bằng ngân sách của địa
phương; trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh trong trường hợp nhà phát hành không
có khả năng trả nợ thì Chính phủ sẽ hỗ trợ; trong khi đó trái phiếu công ty thì có
mức độ rủi ro cao hơn vì nguồn vốn đảm bảo thanh toán các khoản nợ phụ thuộc
nhiều vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể phát hành.
1.1.3.3. Tính thanh khoản
Đó chính là khả năng chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt, mỗi một loại trái
phiếu có khả năng thanh khoản khác nhau; TPCP thông thường có tính thanh khoản
cao hơn so với các loại trái phiếu khác. Tín phiếu kho bạc là loại TPCP có tính
12
13
thanh khoản cao nhất bởi vì kỳ hạn của nó ngắn (dưới 1 năm), nó là một trong
những công cụ quan trọng của thị trường tiền tệ; tín phiếu kho bạc cũng là một yếu
tố cấu thành khối lượng tiền trong quá trình lưu thông, nóđược mua bán trên thị
trường vốn; trái phiếu kho bạc thường có kỳ hạn từ1 năm trở lên, do vậy tín thanh
khoản của TPKB thấp hơn tín phiếu kho bạc; TPKB đáp ứng đủđiều kiện thìđược
giao dịch trên thị trường thứ cấp, trong quá trình này NHTW cũng tham gia với vai
trò là chiết khấu ngắn hạn các công cụ nợ dài hạn, vì thế mà TPKB cũng là một
công cụ nợ có tính thanh khoản khá cao.
Trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu do cơ quan Chính phủ phát
hành có tính thanh khoản thấp hơn tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc. Thông
qua việc nắm bắt được đặc điểm chung của trái phiếu và các đặc điểm riêng của
từng loại trái phiếu, giúp cho các nhàđầu tư trong việc ra quyết định khi tham gia
đầu tư vào thị trường đầy hấp dẫn và rủi ro này.
1.1.4. Các yếu tố cơ bản của trái phiếu
1.1.4.1. Mệnh giá trái phiếu
Mệnh giá trái phiếu hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá
trịđược ghi trên trái phiếu; giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là
căn cứđể xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng
thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.
1.1.4.2. Kỳ hạn trái phiếu
Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả
tiền vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán lần cuối
được gọi là ngày đáo hạn của trái phiếu. Có nhiều cách phân loại kỳ hạn trái phiếu
khác nhau, trên thực tế người ta thường phân ra các loại kỳ hạn sau: Trái phiếu ngắn
hạn (có kỳ hạn dưới một năm); trái phiếu trung hạn (có kỳ hạn từ 1 đến 5 năm); trái
phiếu dài hạn (có kỳ hạn từ 5 năm trở lên).
1.1.4.3. Lãi suất trái phiếu
Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành
công bốđược gọi là lãi suất danh nghĩa; lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần
trăm (%) với mệnh giá của trái phiếu và cũng là một căn cứđể xác định lợi tức của
trái phiếu. Lãi suất trái phiếu là một trong những yếu tố cơ bản nhất của trái phiếu,
13
14
đó là tiêu điểm quan tâm của nhàđầu tư; do vậy, nó cóảnh hưởng nhiều đến giá của
trái phiếu. Lãi suất trái phiếu phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như thời hạn của trái
phiếu; chỉ số lạm phát và những biến động khác của thị trường.
1.1.4.4. Giá phát hành
Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường, giá
phát hành được xác định theo tỷ lệ (%) của mệnh giá. Tuỳ theo tình hình của thị
trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách hợp lý. Có thể
phân ra 3 trường hợp sau:
+ Giá phát hành bằng mệnh giá
+ Giá phát hành thấp hơn mệnh giá
+ Giá phát hành cao hơn mệnh giá
1.2. TỔNGQUANVỀTHỊTRƯỜNGTRÁIPHIẾU CHÍNHPHỦ
1.2.1. Khái niệm
Thị trường trái phiếu Chính phủ là một bộ phận của thị trường tài chính, đây
chính là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các tài sản tài chính. Trái
phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ phát hành, TPCP là một
trong những công cụ nợ của Chính phủ chính vìvậy mà thị trường TPCP được coi
làthị trường nợ. Trên thực tế, với sựđa dạng của TPCP về kỳ hạn, lãi suất; do vậy,
TPCP không những tham gia vào thị trường tiền tệ mà còn tham gia vào thị trường
vốn. Tín phiếu kho bạc sau khi phát hành được phép mua, bán trên thị truờng tiền tệ
hoặc chiết khấu, tái chiết khấu cầm cố tại ngân hàng theo quy định của Nhà nước,
tín phiếu kho bạc là một công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương thực hiện
nghiệp vụ thị trường mở. Thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc Ngân hàng
Trung ương thực hiện điều hoàlượng tiền cung ứng và thực thi các chính sách tiền
tệ của mình. Vì vậy, ngay cả trong trường hợp NSNN không bị thâm hụt, thì Bộ Tài
chính vẫn có thể phát hành tín phiếu kho bạc với mục đích góp phần thực hiện các
chính sách tiền tệ của Nhà nước.
TPCP có kỳ hạn (trung hạn và dài hạn) nếu đáp ứng đủ các điều kiện kỹ
thuật theo quy định của TTGDCK thìđược niêm yết trên thị trường chứng
14
15
khoán.Với sự có mặt của TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu
chính quyền địa phương đã góp phần làm đa dạng hàng hoá trên thị trường tài
chính. Bên cạnh đó là việc mở rộng và tự do hoáthị trường vốn trong nước là cơ hội
tốt để cho các nhàđầu tư thực hiện các giao dịch trái phiếu trên thị trường.Thông
qua các hoạt động giao dịch này góp phần khai thông các luồng vốn trong nền kinh
tế, nâng cao vị trí của thị trường TPCP trong thị trường tài chính.
1.2.2. Các thành viên tham gia thị trường trái phiếu Chính phủ
1.2.2.1. Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành trái phiếu làmột tổ chứcđứng ra huy động vốn bằng cách
phát hành trái phiếu cho các nhàđầu tư thông qua việc mua trái phiếu. Đối với
TPCP, Chính phủ và các chính quyền địa phương là chủ thể phát hành trái phiếu
với khối lượng lớn nhất ra thị trường. Điều này làdễ hiểu, vì không phải lúc nào
Chính phủ cũng cóđủ nguồn NSNN dự trữđể bùđắp thiếu hụt NSNN và những
khoản chi lớn cho đầu tư phát triển. Hầu hết, Chính phủ các quốc gia trên thế giới
đều sử dụng hình thức huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thông qua việc
phát hành TPCP huy động vốn từ trong nước vàhuy động vốn trên thị trường quốc
tế thông qua việc phát hành trái phiếu quốc tế. Chính phủ tham gia vào thị trường
trái phiếu với tư cách là chủ thể phát hành, là người cung cấp hàng hóa cho thị
trường tài chính.Thông qua thị trường này, Chính phủ sẽ thu hút được các luồng
vốn nhàn rỗi trong dân cư; thu hút các nhàđầu tư tham gia vào thị trường này và
cuối cùng Chính phủ sẽ tập trung được một lượng tiền cần thiết đểđầu tư cho các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2.2. Các tổ chức trung gian
Khác với các thị trường phổ thông; thị trường TPCP muốn hoạt động được
ngoài việc tham gia của chủ thể phát hành và nhàđầu tư ra thì luôn tồn tại chủ thể
thứ ba đó là các tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian là người đứng ra kết nối các
hoạt động mua, bán, trao đổi giữa chủ thể phát hành và nhàđầu tư; giữa các nhàđầu
tư với nhau. Các tổ chức trung gian trên thị trường TPCP bao gồm:
- Thứ nhất, tổ chức bảo lãnh, đại lý phát hành
Tổ chức bảo lãnh hoặc đại lýđối với trường hợp phát hành trái phiếu theo
phương thức bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành là các công ty Chứng khoán;
15
16
Quỹđầu tư; Công ty tài chính; các tổ chức Ngân hàng. Để thực hiện được việc bảo
lãnh phát hành tức là tổ chức này giúp cho tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục
trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán; phân phối trái phiếu cho
các nhàđầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn chưa phân
phối hết. Trong khi đó, Tổ chức đại lý phát hành được chính tổ chức phát hành trái
phiếu ủy thác cho thực hiện việc bán trái phiếu cho các nhàđầu tư.
Bảo lãnh phát hành gồm hai khâu cơ bản: Tư vấn tài chính và phân phối
chứng khoán. Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng một khoản phí nhất định
căn cứ trên số tiền thu được từđợt phát hành. Phí bảo lãnh phát hành được quy định
theo một tỷ lệ nhất định (Ở Việt Nam hiện nay phí bảo lãnh phát hành trái phiếu tối
đa là 0,15%/số tiền trái phiếu nhận bảo lãnh). Việc bảo lãnh phát hành thường được
thực hiện theo một trong các phương thức sau:
Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ
chức bảo lãnh cam kết ngoài việc thực hiện các thủ tục trước khi phát hành trái
phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối lại trái phiếu cho các nhàđầu tư và
nhận mua lại trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối
hết.
Bảo lãnh theo phương thức cố gắng cao nhất: Là phương thức bảo lãnh mà
theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo
lãnh phát hành không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà chỉ cam kết sẽ cố
gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng phần không phân phối hết
sẽđược trả lại cho tổ chức phát hành.
Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: Là phương thức bảo lãnh
mà theo đó tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành nếu không bán
hết số chứng khoán thì hủy bỏ toàn bộđợt phát hành.
Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: Là phương thức bảo lãnh trung
gian giữa phương thức bảo lãnh cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất
cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo
lãnh phải bán tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát hành. Nếu lượng
chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì toàn bộđợt phát hành sẽ
bị hủy bỏ.
16
17
Hoạt động bảo lãnh phát hành về cơ bản gồm có các hoạt động sau:
+ Nghiên cứu và tư vấn cho các tổ chức phát hành chứng khoán cách thức
phát hành, cơ cấu phát hành vàđịnh giá chứng khoán.
+ Chuẩn bị và hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết cho đợt phát hành.
+ Thoả thuận, hợp tác với các nhà bảo lãnh phát hành khác và các công ty
chứng khoán, thực hiện công tác tiếp thị, phân phối chào bán chứng khoán.
+Quản lý, phân phối và thanh toán chứng khoán.
+ Thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và các dịch vụ sau khi phát
hành.
- Thứ hai,tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Là tổ chức chuyên vềđánh giá mức độ “Tín nhiệm” của các tổ chức phát
hành và xếp hạng chúng theo năng lực thanh toán tiền lãi và vốn vay theo kỳ hạn
đã cam kết của nhà phát hành trái phiếu. Tại nhiều nước đã hình thành những tổ
chức chuyên môn phân tích vàđánh giá hệ số tín nhiệm đối với nhà phát hành. Hai
công ty lâu đời và nổi tiếng trong lĩnh vực này là hai công ty của Mỹ: Công ty
Moody và công ty Standard và Poors ( S & P), các công ty này đưa ra ký hiệu trong
việc xếp hạng trái phiếu theo mức độ rủi ro và cách xếp hạng này được sử dụng
phổ biến ở các nước. Mức độ “ tín nhiệm” của các công ty thường được xếp theo
các chữ cái A, B, a, b…… dưới đây là cách xếp hạng của hai công ty nói trên: AAA
thể hiện chất lượng cao nhất đó là việc chắc chắn hoàn trảđược tiền lãi và tiền gốc
cho các nhàđầu tư chứng khoán; với mức AA thì năng lực thanh toán tiền gốc và lãi
có phần kém hơn so với AAA; tiếp theo là các hạng A, BBB, BB,B, CCC, CC,C…
và thấp nhất là D (thể hiện có nguy cơ vỡ nợ). Ngoài ra người ta còn sử dụng thêm
các dấu ( +) và (-) để thể hiện mức độđánh giá chính xác hơn.
Hệ số tín nhiệm sẽ cung cấp những thông tin cần thiết cho nhàđầu tư về tình
trạng của người phát hành để lựa chọn khi đầu tư vào trái phiếu một cách thích hợp.
Hệ số tín nhiệm góp phần làm giảm bớt chi phí sử dụng vốn cho người phát hành,
khi một nhà phát hành cóđịnh mức tín nhiệm cao thì việc phát hành trái phiếu sẽ
thuận lợi, dễ dàng, giảm được chi phí huy động vốn và họ có thể phát hành trái
phiếu ở mức lãi suất thấp hơn lãi suất các loại hình tín dụng khác nhưng vẫn thu hút
được các nhàđầu tư. Định mức tín nhiệm nâng cao trách nhiệm của người phát hành
17
18
đối với nhàđầu tư vì việc đánh giáđịnh mức tín nhiệm liên quan đến chữ “Tín” của
người phát hành, điều đó thúc đẩy người phát hành thực hiện tốt hơn cam kết đối
với nhàđầu tư trong việc đảm bảo thanh toán tiền lãi và tiền vốn vay.
- Thứ ba,đại lý phân phối chứng khoán
Để phân phối chứng khoán đến các nhàđầu tưđược thuận tiện, tổ chức phát
hành thường thuê một hoặc một nhóm công ty đứng ra làm đại lý phân phối chứng
khoán. Công ty này thường có mạng lưới, chi nhánh rộng, tạo điều kiện để người có
nhu cầu đầu tư dễ dàng cóđược các thông tin cần thiết trước khi đưa ra các quyết
định đầu tư của mình. Kết thúc đợt phát hành, tổ chức phát hành sẽ thanh toán chi
phí cho tổ chức đứng ra nhận làm đại lý phân phối trái phiếu dựa trên khối lượng và
giá trịđợt phát hành.
- Thứ tư, tổ chức môi giới chứng khoán
Là tổ chức có chức năng tư vấn, giúp đỡ các nhàđầu tư trong việc ra quyết
định đầu tư và thực hiện các quyết định đầu tưđó. Tổ chức môi giới chứng khoán
cũng có thểđưa ra các lời khuyên về hoạt động nghiệp vụđối với các công ty chứng
khoán và các tổ chức tài chính.
- Thứ năm,hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng
khoán và một số thành viên khác hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, mục đích
là bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng
khoán nói chung. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là một tổ chức
tựđiều hành.
1.2.2.3. Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch có tổ chức để giao dịch các
chứng khoán được niêm yết. Sở giao dịch thực hiện vận hành thị trường thông qua
bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên thị
trường sở giao dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều
chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán ở Sở, phù hợp với các quy định luật
pháp về chứng khoán và giao dịch chứng khoán.
1.2.2.4. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ
18
19
Là tổ chức nhận lưu giữ, bảo quản các chứng khoán của khách hàng và tiến
hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
1.2.2.5. Chủ thểđầu tư
Chủ thểđầu tư chính là những người tham gia mua các loại chứng khoán nợ
do Chính phủ phát hành. Nếu phân loại theo quy mô, tổ chức của các chủ thểđầu tư
thì phân chia thành các nhàđầu tư cá nhân và các nhàđầu tư có tổ chức. Thông
thường, các nhàđầu tư cá nhân là các hộ gia đình, những người dân có khoản tiền
nhàn rỗi, thay vì gửi tiết kiệm vào ngân hàng họ quyết định đầu tư dưới hình thức
mua TPCP. Còn các nhàđầu tư có tổ chức là các công ty kinh doanh chứng khoán,
tổ chức tài chính,..... họ là những tổ chức có quy mô, chuyên hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực mua, bán chứng khoán và sử dụng các nguồn vốn kinh doanh của
mình đểđầu tư vào TPCP, vìđây là lĩnh vực đầu tư khá an toàn, lãi suất TPCP
thường ổn định, ít có những biến động lớn và người phát hành đảm bảo được khả
năng thanh toán cao vàhệ số tín nhiệm của chủ thể phát hành rất cao.
1.2.3. Thị trường sơ cấp
Thị trường TPCP là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra các
hoạt động mua bán tài sản tài chính. Thị trường TPCP là một bộ phận không thể
tách rời thị trường chứng khoán; thông qua thị trường TPCP, Chính phủvàcác doanh
nghiệp sẽ thu hút và khơi thông được các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cưđể tập
trung đầu tư cho các mục tiêu dài hạn đãđược hoạch định. Theo cơ chế hoạt động,
thị trường TPCP cũng bao gồm có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.Thị
trường sơ cấp là thị trường để thực hiện việc phát hành mới các loại TPCP, khác
với thị trường thứ cấp là nơi mua, bán các loại TPđã phát hành trước đó. Như vậy,
thị trường sơ cấp là nơi cung cấp vốn, thông qua hoạt động của thị trường này
những luồng tiền nhàn rỗi trong dân chúng và các tổ chức kinh tế - xã hội có
thểđược chuyển thành vốn đầu tư dài hạn cho người phát hành chứng khoán; thị
trường này cóđặc điểm là hoạt động không liên tục và chỉ hoạt động khi cóđợt phát
hành TPCP mới. TPCP thường được phát hành theo các phương thức sau:
1.2.3.1. Phương thức bảo lãnh phát hành trái phiếu
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện
các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái
19
20
phiếu cho các nhàđầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn
lại chưa phân phối hết. Hoạt động bảo lãnh phát hành TP thường do các công ty
chứng khoán, các quỹđầu tư, công ty tài chính, các ngân hàng và các định chế tài
chính khác được Bộ tài chính cho phép đứng ra đảm nhiệm. Căn cứ vào kết
quảđăng ký mua trái phiếu của các nhàđầu tư các thành viên tham gia bảo lãnh
phát hành gửi bản đăng ký bảo lãnh phát hành trái phiếuđến tổ chức phát hành để
làm căn cứ xem xét, lựa chọn cấu trúc bảo lãnh và các tổ chức bảo lãnh phát hành.
Cấu trúc bảo lãnh phát hành được quyết định cho từng đợt phát hành theo
một trong hai hình thức sau: Một hoặc một số tổ chức đồng bảo lãnh phát hành hoặc
tổ hợp bảo lãnh phát hành có một hoặc một số tổ chức đồng bảo lãnh phát hành
chính đứng ra chủ trìđợt phát hành trái phiếu.Các tổ hợp bảo lãnh mua trái phiếu với
một mức giá xác định và bán trái phiếu với mức giá cao hơn để thu lợi nhuận, trong
trường hợp này sẽ không có phí dịch vụ bảo lãnh. Các quốc gia có thị trường chứng
khoán phát triển thường phổ biến các hình thức bảo lãnh sau: Bảo lãnh với cam kết
chắc chắn; bảo lãnh theo phương thức cố gắng cao nhất; bảo lãnh theo phương thức
bán tất cả hoặc không; bảo lãnh theo phương thức tối thiểu-tối đa.
Phương thức bảo lãnh phát hành cóưu thế là huy động được khối lượng vốn
lớn trong khoảng thời gian ngắn; song tính cạnh tranh không cao và các nhà bảo
lãnh dễ nhận biết được chủtrương khi Chính phủ sử dụng công cụ TPCP đểđiều
chỉnh cung, cầu vốn đầu tư; do đó, để thị trường thứ cấp hoạt động tốt các nhà bảo
lãnh cần có cam kết hỗ trợ sau khi phát hành thông qua việc mua và bán các loại
TPCP.
1.2.3.2. Phương thức đấu thầu trái phiếu
Đấu thầu TPCP là việc bán TPCP cho các tổ chức, cá nhân tham gia đấu
thầu, đáp ứng đủ các yêu cầu của Chính phủ và có mức lãi suất đặt thầu thấp nhất.
Đấu thầu TPCP thường do Bộ Tài chính trực tiếp tổ chứcđấu thầu hoặc uỷ quyền
cho NHNN tổ chức đấu thầu. TPCP đấu thầu được giao dịch trên thị trường chứng
khoán, có hai hình thức đấu thầu: Đấu thầu cạnh tranh lãi suất và kết hợp giữa đấu
thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất, nghĩa là người đặt
thầu không đưa ra mức lãi suất mà lãi suất trái phiếu hình thành thông qua đấu thầu
20
- Xem thêm -