Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Bài tập lớn môn tư tưởng Hồ Chí Minh
…………………………………………..
Bài làm:
Chủ tịch Hồ Chí Minh-vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng việt nam, nhà
văn hóa, nhà tư tưởng lỗi lạc của thời đại.Trong quá trình hoạt động của
mình người đã đúc kết được rất nhiều kinh nghiệm quý báu.Đó chính là nền
tảng cho việc hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng hiểu theo nghĩa chung nhất là sản phẩm của sự nhận thức của con
người đã được định hình.Khi nhận thức của con người đang trong quá trình
định hình mà chưa rõ nét thì sự phản ánh đó không được gọi là tư tưởng.Và
phản ánh chỉ sinh ra tư tường khi sự phản ánh đó đạt đến một trình độ nhất
định.
Vậy thì nhà tư tưởng là những ai? Đó chính là những người biết giải
quyết trước người khác những vấn đề của cuộc sống,những vấn đề chính trị
sách lược, các vấn đề về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào
một cách tự giác.Ta có thể đưa ra một vài ví dụ điển hình như:Menđêlêep
(người Nga cận đại) là nhà tư tưởng hóa học.Ông đã phát minh ra định luật
tuần hoàn của các nguyên tố hóa học. Đacuyn (người Anh cận đại) là nhà tư
tưởng tiến hóa luận.Ông đã xây dựng nên học thuyết mang tên ông.Các Mác
(người Đức cận đại) là nhà tư tưởng kinh tế học.Ông đã xây dựng nên học
thuyết giá trị thặng dư và duy vật lịch sử.Trần Hưng Đạo (người Việt Nam
trung đại) là nhà tư tưởng quân sự.Ông đã viết và thực hành tác phẩm “binh
thư yếu lược”.Có thể nói rằng không một nhà khoa học nào không đề cập
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đến vấn đề tư tường.Mức độ đề cập đến tư tưởng cùa các nhà khoa học sâu
rộng đến đâu là do đối tượng nghiên cứu của khoa học đó quy định.Tương
tự, Hồ Chí Minh-nhà tư tưởng xã hội học Việt Nam hiện đại.Người đã xây
dựng nên một hệ thống quan điểm và đưa nó vào thực tiễn nhằm giải phóng
xã hội và con người Việt Nam bị áp bức.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của tư duy Hồ Chí Minh, được
hình thành trong quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn của người.Đó là
một hệ thống lý luận về con đường cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện
quyền tự quyết của dân tộc việt Nam, nhằm giải phóng giai cấp và từng
bước hướng tới giải phóng con người toàn diện.
Về nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng
Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin.Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc,giải
phóng giai cấp, giải phóng con ngươì, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh
của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ cùa nhân dân,
xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, về quốc phòng toàn dân,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,về phát triển kinh tế và văn hóa,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, về đạo
đức cách mạng, cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, về chăm lo bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn cách mạng Việt
Nam chứng minh là đúng đắn và đã trở thành nền tảng tư tưởng,kim chỉ nam
cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt nam.”Tư tưởng Hồ Chí
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi,là tài
sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm nhiều lĩnh vực, là
đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau,bao gồm nhiều tư
tưởng có mối quan hệ nhất quán với nhau.Và một trong số đó là tư tưởng
thân dân của Người.Hãy cùng tìm hiểu để có được cái nhìn sâu sắc toàn diên
hơn về tư tưởng này và tầm quan trọng của nó trong đời sống cũng như
trong sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân ta.
Tư tưởng thân dân ở đây có thể được hiểu một cách khái quát là sự
gần gũi, gắn bó với nhân dân, coi trọng nhân dân, đặt nhân dân vào một vị trí
hết sức quan trọng.
Vấn đề này đã xuất hiện và thấm nhuần trong tư tưởng của rất nhiều
nhà nho, nhà triết học, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam và thế giới.
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu tư tưởng này của các nhà nho xưa.Nho giáo
xuất hiện khá sớm ở nước ta, là sự tiếp thu, kế thừa tinh hoa của Nho giáo
Trung Quốc.Mà đại diện ưu tú nhất là Khổng Tử và người học trò của ôngMạnh Tử.Nho giáo mà Khổng Tử sáng lập nên đã trở thành nền tảng tư
tưởng là chỗ dựa tinh thần cho giai cấp thống trị, cho vua quan và quý tộc
thời bấy giờ.Và tư tưởng thân dân đã xuất hiện trong những lí luận của
ông.Trong Nho giáo đó chính là tư tưởng “lấy dân làm gốc”.Điều này được
thể hiện rõ nét trong quan điểm của Khổng Tử và các thế hệ học trò của ông
về sau qua câu nói: “Quân vi khinh, xã tắc thứ chi, dân vi bản”.Câu nói
này có nghĩa là: Vua không quan trọng, Xã tắc cũng chỉ là thứ yếu, quan
trọng và cơ bản là dân.Nếu không có dân thì đất nước không thể tồn tại
được.Không chỉ xuất hiện trong quan điểm của Khổng Tử, Mạnh tử mà tư
tưởng này còn xuất hiện trong lí luận của nhiều nho gia khác.Tuân Tử cũng
đã có một câu nói rất nổi tiếng:”Quân giả chu dã, thứ dân giả thủy dã, thủy
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
tắc tải chu, thủy tắc phúc chu”, tức là:Vua là thuyền, dân là nước, nước chở
thuyền, nước cũng lật thuyền.Từ đó nho gia thấy được một điểm hết sức
quan trọng là:dân là gốc nước, gốc vững, nước yên (Dân duy bang bản,bản
cố,bang ninh).Hoặc là:Đường lối được dân chúng thì được nước, mất dân
chúng thì mất nước (đạo đắc chúng tắc đắc quốc, thất chúng tắc thất quốc).
Không chỉ thế, các nhà nho còn rất quan tâm đến đời sống nhân dân.Nho gia
yêu cầu các bậc trị quốc phải đảm bảo cho người dân có đời sống tối thiểu
để họ có thể: “Sử ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ cập, dĩ sức thê tử”, tức
là: ngẩng lên đủ để phụng dưỡng cha mẹ, cúi xuống đủ để nuôi sống vợ
con.Muốn vậy, người dân cần phải có thu nhập ổn định, có tư liệu để sàn
xuất, có việc để làm, để tạo ra thu nhập, đủ để sống.Nếu trên nét mặt của
người dân có sắc đói là trách nhiệm cua kẻ cầm quyền.Đây là quan điểm hết
sức tiến bộ của Mạnh Tử.
Các nhà nho còn đưa ra quan điểm phải gần dân, đối xử đúng mức với
người dân.Kinh thư viết: “dân khả cận, bất khả hạ”.Điều này có thể được
hiểu là:đối với dân nên gần gũi, quan tâm, không nên coi họ là những kẻ
thấp hèn ma coi thường, khinh bỉ.Khổng Tử cũng đã từng nhắc nhở những
người cầm quyền rằng:Sai khiến nhân dân phải cẩn thận như diều hành một
cuộc tế lễ lớn (Sử dân như thừa đại lễ).Theo các nhà nho xưa, các bậc cầm
quyền nắm trong tay quyền lực,có thề điều khiển nhân dân.Nhưng họ phải
làm sao để người dân tự nguyện phục vụ, sẵn sàng đi theo họ, hi sinh vì
họ.Và điều đó chỉ có thể thực hiện được khi họ biết quan tâm, gần gũi,l ắng
nghe nhân dân, bảo vệ và đảm bảo cuộc sống cho họ.
Bên cạnh những quan điểm tiến bộ đó, những nhà nho xưa cũng nêu
ra rất nhiều lí luận khác về nhân dân.Thể hiện thái độ của họ đối với người
dân, nhất là người dân lao động chân tay và cách sống gần dân.Nho gia hết
sức miệt thị những người dân lao động nghèo khổ.Về mặt trí tuệ, họ xếp con
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
người thành hai loại:thượng trí và hạ ngu.Thượng trí được nói đến ở đây là
bọn cầm quyền, bọn”quân tử”, bọn nắm giữ trong tay quyền lực, có quyền
sai khiến người khác.Còn hạ ngu là những người dân lao động nghèo.Họ cho
rằng hai loại người này do số phạn an bài nên không bao giờ thay đổ i(Duy
thượng trí hạ bất ngu di).Trong xã hội họ phân biệt nghề sang, nghề hèn.Họ
đề cao lao động trí óc bằng quan điểm:”vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc
thư cao”, với quan điểm này họ cho rằng vạn cái nghề đều thấp hèn, duy chỉ
có đọc sách là cao cả.
Nho gia thường khuyên những người cầm quyền “nới nhẹ sức dân”,
”thương dân”.Điều này có thể mang ý nghĩa rất tích cực, đúng đắn, nhưng
mặt khác nó lại thể hiện vẻ bề trên, thuộc cử chỉ của người trên, của những
người”chăn dân”, của những ông”quan phụ mẫu” quyền cao chức
trọng.Về điều này, sách Kinh Thi có viết:”lạc chi quân tử, dân chi phụ
mẫu”.Tức là:Vui thay bậc quân tử là cha mẹ dân.Hay sách Đại Học viết:dân
thích điều gì, người thích điều ấy, dân ghét điều gì, người ghét điều ấy, thế
mới là cha mẹ dân(Dân chi sở hiếu, hiếu chi, dân chi sở ố, ố chi, thử chi vị
dân chi phụ mẫu).Không chỉ thế, sách Trung Dung cũng nói rằng:”Tử thứ
dân tắc bách tính khuyến”(Thương dân như con thì khuyến khích được
trăm họ).
Ẩn sau quan điểm “lấy dân làm gốc” là một mục đích lớn hơn.Và
mục đích của các bậc Nho gia là để làm dịu đi mâu thuẫn đang tồn tại và
ngày càng gay gắt trong xã hội đương thời- mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị
và tầng lớp bị trị.Và đặc biệt là ở thời đại nhà Chu,mâu thuẫn này đã đạt đến
đỉnh điểm.Giai cấp thống trị mong muốn, nếu người dân được“bề
trên”,”quan phụ mẫu” quan tâm thì sẽ yên bề ở vị trí nô lệ vốn có của
mình, không đụng chạm, xâm phạm hay đe dọa đến quyền lợi, địa vị và của
cải của chúng.
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Không dừng lại ở đó, việc hiện thực hóa quan điểm “lấy dân làm
gốc” chưa được thực hiện một cách rõ ràng, nhất quán trong xã hội bấy
giờ.Quan điểm của Nho gia chỉ có ý nghĩa trên diễn đàn, học thuật, trên lý
thuyết, sách vở.Những quan điểm này không được giới cầm quyền đương
thời thi hành, bởi nó đụng chạm đến quyền lợi của chúng.Về mặt vật chất,
Những người dân phải sống trong cảnh nghèo nàn, đói khổ, sống trong cảnh
cơ cực, bần hàn, bị bóc lột hết sức thậm tệ.Họ đâu có được cái gọi là ”hằng
sản” (thu nhập ổn định) đủ để trang trải cuộc sống, nuôi sống vợ con như
Mạnh Tử mong muốn.Còn về mặt tinh thần, tuyệt đại bộ phận người dân
sống trong cảnh ngu dốt, tối tăm.Hưởng thụ văn hóa, giáo dục là đặc quyền,
đặc lợi của giai cấp thống trị, những bậc bề trên, những vị “quan phụ
mẫu”.Điều này đi ngược lại với mong muốn của Khổng Tử “hữu giáo vô
loại” hay là có một nền giáo dục không phân biệt đẳng cấp.
Tư tưởng thân dân không chỉ dừng lại ở đó mà còn sáng ngời trong
quan điểm của Nguyễn Trãi- nhà thơ, nhà văn hóa, nhà quân sự đại tài của
dân tộc Việt Nam.Ở ông bừng lên tư tưởng nhân nghĩa mà không phải ai
cũng có được. Tư tưởng nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi,
trước hết được gắn chặt trong tư tưởng vì dân, an dân: “Việc nhân nghĩa cốt
ở yên dân” hay là thể hiện trong câu: “dùng quân nhân nghĩa cứu dân
khổ, đánh kẻ có tội”. Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa với ông chính là tư
tưởng yêu nước, thương dân, gần gũi che chở cho nhân dân, đánh giặc để
cứu nước cứu dân: “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân
nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”. Với Nguyễn Trãi an dân là chấm dứt, là
loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đói với nhân dân.An dân còn là
sự đảm bảo để dân có được một cuộc sống yên bình.Nguyễn Trãi đã coi “ an
dân” là mục đích của nhân nghĩa và đối tượng, phương tiện của nó là trừ
bạo “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” vì thế người nhân nghĩa là những
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
người biết chăm lo cho nhân dân, trừ bạo tức là, phải lo diệt quân cướp nước
bảo vệ nhân dân. Người nhân nghĩa phải dấu tranh sao cho “Hợp trời, thuận
người” nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, hay là:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Ở Nguyễn Trãi tư tưởng thân dân, an dân-một tư tưởng quý báu, có
sức sống bền lâu thường trực trong tâm thức người lãnh đạo, để biến nó
thành sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi dân tộc.Câu nói của ông với Trần Nguyên
Hãn:”Chở thuyền, làm lật thuyền cũng là dân” vừa trí tuệ mà cũng rất giản
dị, dân chính là gốc đưa xã tắc non sông đến vững bên.Tư tưởng an dân của
ông là cả một quá trình dài lâu thường trực là tư tưởng xuyên suốt trong cả
một dòng tộc, và được nuôi dưỡng trong một tâm hồn cao quý một lí tưởng
cao đẹp. Cả một cuộc đời với những thăng trầm những tư tưởng ấy vẫn sáng
ngời nó vượt qua những chặng đường đằng đẵng của không gian và thời gian
để trở thành một đức tính qúy báu trong mỗi thời đại và mỗi quốc gia nói
chung. Cho dù nỗi oan khiên có chấm dứt sự sống của ông thì những tư
tưởng của ông vẫn còn đọng lại trong sự đóng góp của ông cho thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, trong những áng thơ văn truyền lại cho
đời sau kể cả khi ông lui về ở ẩn thì nguồn tình cảm ấy vẫn luôn thường trực
và thôi thúc ông khôn nguôi. Thời gian đằng đẵng đi qua, những số phận và
những thăng trầm mà bất kể ai phàm là kiếp con người đều gặp phải nhưng
cùng đồng hành với thời gian là những gía trị đích thực tồn tại vượt lên thời
gian số phận và những đắng cay mà người ta gặp phải trong bất kể hoàn
cảnh nào, Nguyễn Trãi là một trong số đó.Trong kháng chiến Nguyễn Trãi
chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc cứu được nước, khi
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
kháng chiến đã thắng lợi ông cũng nghĩ rằng phải lo cho dân thì mới xây
dựng được đất nước.Trong thời biểu tạ ơn được cử giữ chức giám nghị đại
phu tri tam quân sự,ông đã viết “Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn,
để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo".Tư tưởng an dân,
lo cho dân, vì dân, lấy dân làm gốc luôn là tư tưởng thường trực sáng ngời
trong ông.Và tư tưởng này cảa ông đã thể hiện sâu sắc trong mọi suy nghĩ
hành động.Với ông người làm vua phải trọng nhân nghĩa, phải biết nghe,
biết xét phải hết lòng thương yêu nhân dân.Không được sưu cao, thuế nặng
với nhân dân.
Trước Nguyễn Trãi, tư tưởng này đã được đề cập nhiều.Nhiều nhà tư
tưởng Trung Quốc như Khổng Tử, Mạnh Tử cũng đã nêu rõ vai trò và sức
mạnh to lớn của nhân dân.Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo
lý vào thời Lý-Trần.Trong thời kỉ ấy, tư tưởng về thân dân, an dân, huệ
dân,..đã xuất hiện và góp phần làm cho thời đại Lý-Trần càng thêm hưng
thịnh.ĐếnNguyễn Trãi, quan điểm về thân dân, an dân đã được ông tiếp thu,
kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kì hoạt động của mình..Ông đã
đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ”nhân nghĩa, an dân” phải cố
kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước.Ông chủ trương cứu
nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân
mà kháng chiến.Đó là một chiến lược bất khả biến, có tính trường tồn, một
quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Không chỉ dừng lại ở đó, có một điểm đáng quý hơn trong tư tưởng về
dân của ông là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân.Nhân dân luôn được ông nhắc
đến và đề cao ngay cả sau khi kháng chiến thành công, đất nước đã giành
được độc lập và bước vào xây dựng một cuộc sống mới.Ông nhận thức được
rằng nhân dân là lực lượng chủ yếu làm ra làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc,
làm ra cung điện, đền đài.Người dân đổ mồ hôi, công sức và cả tính mạng để
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
tạo nên của cải “Thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ
của quân dân”.Chính từ những suy nghĩ sâu sắc như thế, nên khi đã làm
quan trong triều, trở thành một người đức cao vọng trọng, được hưởng lộc
vua ban nhưng ông cũng chưa một giây phút nào quên đi những người
dân,những con người lam lũ, dãi nắng dầm mưa, những người lao động cực
nhọc.Ông đã thể hiện sự biết ơn của mình: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”.
Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống gần gũi, gắn bó
với nhân dân, hoà mình vào nhân dân. Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những
đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân
dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử.
Sau chiến tranh Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng một xã hội thái
bình vua tôi một lòng,không còn cảnh lầm than nô lệ.Ông chủ trương cầu
người hiền tài phụng sự quốc gia, đất nước, nhân dân.
Tư tưởng của Nguyễn trãi không chỉ sáng ngời trong thời đại bấy giờ,
mà nó còn góp phần to lớn vào kho tàng tư tưởng dân tộc.Ông xứng đáng là
một nhà tư tưởng lớn, một nhà văn hóa, quân sự đại tài.Tên tuổi và những
cống hiến của ông mãi sống cùng thời gian và lịch sử dân tộc.
Tư tưởng thân dân đã vượt thời gian, không gian, hiển hiện trong quan
niệm của rất nhiều nhà tư tưởng cận đại.Một trong số đó là Phan Bội Châunhà hoạt động cách mạng dưới thời Pháp thuộc, người đã thành lập phong
trào Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du.Phan Bội Châu sinh
ra, lớn lên và hoạt động trong thời đại văn hóa phương tây đã du nhập sâu
rộng vào nước ta.Với ông thân dân được thể hiện ở tư tưởng dân quyền, đấu
tranh cho dân quyền. Dưới ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng phương
Tây, đặc biệt từ khi qua Nhật Bản và được chứng kiến một nước có truyền
thống Nho học do biết tiếp nhận và vận dụng những tư tưởng tiến bộ của
Phương Tây vào công cuộc duy tân mà trở nên hùng cường; được nghiên
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
cứu và trao đổi về nguyên nhân cách mạng xã hội, về chính thể của các
nước, về tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, dân quyền, dân trí và các biện
pháp duy tân của Môngtexkiơ, Vônte, Rút xô..., ở Phan Bội Châu đã hình
thành nên một quan niệm mới - quan niệm về dân quyền. Quan niệm này
chứa đựng một nội dung mới mẻ và không kém phần phong phú, thể hiện
mục đích thiêng liêng cứu nước, giải phóng dân tộc để đem lại tự do, hạnh
phúc cho dân, đem lại quyền lực cho dân, để cho người dân trở thành chủ thể
của các quyền lực trong xã hội.
Vấn đề dân quyền thời bấy giờ còn rất mới mẻ đối với các sĩ phu yêu
nước Việt Nam trong những năm đầu của thế kỉ XX.Bởi lẽ, tại thời điểm ấy
dân quyền là cái chưa hề xuất hiên ở nước ta, mà phải tiếp thu từ những trào
lưu tư tưởng bắt nguồn từ các nước Âu Mỹ.Đứng trước hiện thực các nền
văn hóa tây phương đang du nhập tràn lan vào nước ta, trước sự bất lực của
hệ tư tưởng phong kiến, mà nòng cốt là tư tưởng Nho giáo trong việc bảo vệ
đất nước nửa cuối thế kỷ XIX , yêu cầu giải phóng dân tộc hồi đầu thế kỷ
XX, và với lòng yêu nước nồng nàn, tài năng, lòng thương dân sâu sắc.Ông
đã tìm kiếm và tiếp nhận những tinh hoa trong các trào lưu tư tưởng phương
Tây, đặc biệt là tư tưởng dân quyền - một thứ vũ khí tư tưởng mới lạ trong
thời đại “châu Á thức tỉnh” sau “giấc ngủ” quân chủ.
Dưới chế độ phong kiến thực dân, nhân dân ta chỉ có trách nhiệm và
nghĩa vụ phục tùng vô điều kiện những yêu cầu của kẻ bề trên.Phải nhất nhất
làm theo mọi yêu cầu của những kẻ cầm quyền.Họ bị tước bỏ tất cả mọi
quyền lợi.Họ không có bất cứ quyền hành gì, họ chưa bao giờ là chủ thề cùa
quyền lực.Bằng sự hiểu biết, sự từng trải, học rộng hiểu nhiều của mình, ông
cho rằng không có dân quyền là một trong những nguyên nhân khiến cho
nhân dân ta sống trong tủi nhục, cay đắng, khốn khổ và tăm tối.Ông đã chỉ ra
rằng: “Cái nọc độc chuyên chế của bọn người hại dân ấp ủ đã hàng ngàn
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
năm nay từ bên Trung Quốc lây sang nước ta, đến nỗi một tên độc phu
(vua) và vài vạn kẻ dung nhân (quan) làm cá thịt trăm họ dân ta. Thế mà
dân ta ngu ngốc khờ dại, không biết giành dân quyền, giữ quốc mệnh, chỉ
ngày đêm lo hết lòng hết sức đem máu mỡ của mình cung đơn cho bọn
độc phu, dung nhân uống nuốt? Than ôi! Thật đáng thương thay”.
Sự cổ hủ, lạc hậu, bất cập của hệ tư tưởng phong kiến, sự thoái hóa
trong quan niệm cách nhìn nhận của vua quan nhà Nguyễn, sự bắt chước
một cách máy móc, không hợp lý chế độ chuyên chế của nhà Thanh là
những chướng ngại lớn trên con đường đấu tranh giành độc lập cho dân
tộc,mang chủ quyền về tay nhân dân.Sự cai trị của chế độ cũ cần phải được
thay thế băng một chế độ chính trị mới, tiến bộ hơn, và ở đó người dân được
quan tâm đến đời sống, người dân có quyền.Dân tộc Việt Nam đã phải trải
qua hàng thế kỷ dưới chế độ phong kiến và thực dân nửa phong kiến, đã
sống một cuộc sống không có tự do là bởi cái nọc độc chuyên chế đã đầu
độc và giết chết dân quyền. Khi dân không có quyền thì cũng có nghĩa là, họ
chỉ là một thứ công cụ để phục tùng quyền lực và ý chí của kẻ khác. Trong
khi đó, theo yêu cầu của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và canh tân
đất nước thì quyền lực phải thuộc về nhân dân, tức là người dân phải có
quyền. Dân quyền vừa là mục đích hướng tới, vừa là điều kiện để huy động
sức mạnh của toàn dân, để giải phóng và phát huy mọi năng lực sáng tạo của
con người.
Đấu tranh giải phóng con người, đấu tranh cho quyền con người luôn
là điều trăn trở, thôi thúc trong ông.Phan Bội Châu đã dành rất nhiều tâm
huyết, công sức cho sự nghiệp to lớn ấy.Theo những lý luận của ông,có thể
hiểu rằng: dân quyền là quyền của người dân; người dân có quyền đó là lẽ
tất yếu, đã là con người dù nam hay nữ đều có quyền làm người và đó cũng
chính là giá trị của con người.
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Một điều có thể dễ thấy ở Phan Bội Châu là sự tôn trọng và đề cao
quyền con người.Đồng thời,cho thấy sự tích cực trong tư tưởng, quan điểm
của ông.Ông đã vượt qua hệ tư tưởng phong kiến để tiếp nhận những giá trị
tiến bộ trong các trào lưu tư tưởng phương Tây nhằm phát huy và tập hợp
sức mạnh của mọi người dân hướng vào sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc và canh tân đất nước.Đó là sự tiến bộ trong tư tưởng của ông.
Trong cảnh tối tăm nô lệ, trong xã hội bất công, thối nát.Tư tưởng của
Phan Bội Châu đã thổi một luồng gió mới, tạo nên một làn sóng tiến bộ
trong xã hội đương thời.Ông đã bày tỏ một cách cương quyết quan điểm của
mình.Theo ông dân quyền là cái cốt lõi, là cái cơ sở, là cái then chốt nhất để
xây dựng một đất nước tiến bộ.Quyền lực của nhà nước phải là quyền lực
của dân. Thể chế cộng hòa chỉ có được khi người dân là người chủ tối
thượng của nhà nước. Chính phủ trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình
phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhân dân để cho dân quyền được tôn
trọng mà không bị thoái hóa, biến chất trở thành quyền lực độc đoán của một
số cá nhân. Quyền lực nhà nước phải tập trung thì nhà nước và chính phủ,
tức là cả cơ quan lập pháp và hành pháp mới thực hiện được nghĩa vụ của
mình đối với dân; còn dân phải có nghĩa vụ kiểm tra nhà nước, giám đốc
chính phủ. Chỉ có thực hiện những nghĩa vụ đó thì quốc quyền và dân quyền
mới được đảm bảo. Bởi vì, xét về thực chất, dân quyền là cơ sở, nền tảng
của quốc quyền, còn nhà nước không có quyền mà chỉ là thực hiện sự ủy
quyền của dân.Do vậy, nhân dân phải có trách nhiệm giám sát hoạt động của
chính phủ, có thế thì quyền lợi của dân mới được đề cao, tôn trọng.
Phan Bội Châu đã cho thấy được sự quan tâm của ông đối với vấn dề
này.Với ông một đất nước muốn tồn tại và phát triển thì phải coi trọng dân
quyền, phải dựa vào nhân dân.Tư tưởng của ông là một nét mới mẻ trong xã
hội Việt Nam đầu thế kỉ XX.Tuy vậy, nó không xa rời với quan điểm của
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nhiều nhà nho, nhà quân sự đã sống trước ông nhiều thế kỉ.
Cũng sống cùng thời với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh-một nhà
cách mạng tiêu biểu, cũng luôn đề cao tư tưởng dân quyền.Ông lấy câu nói
của Mạnh Tử để cho thấy tư tưởng của mình:”Dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh”. Văn thơ ông tràn ngập tình yêu đối với những người dân bị
áp chế, nghèo khổ và cực lực chống lại mọi kẻ quyền thế,giàu có, tàn ác,
chuyên bóc lột, chà đạp những người dân nghèo.Trong Thất điều thư gửi vua
Khải Định(1922), ông cực lực công kích Khải Định và qua đó lên án chế độ
quân quyền độc tôn, quân chủ chuyên chế, áp bức nhân dân.
Tư tưởng thân dân như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử nước ta
qua quan điểm của rất nhiều nhà tư tưởng.Dù cho nó được thể hiện dưởi
nhiều hình thức,định nghĩa khác nhau.Họ đã cho thấy tư tưởng gần gũi với
nhân dân, quan tâm đến cuộc sống của dân, lấy dân là gốc, là cơ sở xây dựng
đất nước.Và tư tưởng này hơn hết sáng ngời trong quan điểm, lý luận của Hồ
Chí Minh-danh nhân văn hóa thế giới, vị lãnh tụ vĩ đại của đất nước Việt
Nam.Ở người, tư tưởng này có rất nhiều điểm tương đồng với tư tưởng lấy
dân làm gốc của các nhà nho xưa.Với Người, trước hết là thái độ quý trọng
nhân dân: “Trong bầu trời không có gì quý hơn bằng nhân dân. Trong thế
gian không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, quan tâm
đến đời sống nhân dân, Người xác định rõ ràng trách nhiệm của Đảng và
Chính phủ trong việc đề ra và thực hiện các chính sách: “Chính sách của
Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân
dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm, Đảng và
Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới
phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”.Và tác phong gần gũi
nhân dân cũng là một điểm nổi bật ở người.Sinh thời,bác hay hỏi thăm đồng
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
bào, quân tâm đến bữa ăn giấc ngủ của dân quân,sống giản dị, tiết kiệm.Dù
ở trên cương vị ủa một vị chủ tịch nước nhưng lối sống,cách ăn mặc, sinh
hoạt của Người không khác nhân dân là mấy.Người sống một cuộc đời như
người dân bình thường cho đến lúc ra đi.Người luôn giáo dục cán bộ, đảng
viên không được có tác phong quan liêu, cuộc sống quan cách xa rời nhân
dân.Bác chăm lo cho đời sống nhân dân và không bao giờ đòi hỏi đãi ngộ
cho riêng mình: “Cả cuộc đời Bác chăm lo cho hạnh phúc nhân dân,cả
cuộc đời Bác hi sinh cho dân tộc việt Nam’.
Bên cạnh đó, quan điểm của Người cũng có nhiều điểm khác biệt so
với các nhà nho đương thời.Nếu như các bậc tiền bối miệt thị dân lao động
nghèo, có sự phân biệt giữa họ thì Người lại rất tôn trọng nhân dân. Người
thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn học hỏi nhân dân, học tập
kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, coi nhân dân là người thầy của
mình.Người tôn trọng tất cả mọi người, tất cả các nghề trong xã hội. Người
nói: “Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kỹ sư, nếu làm
tròn trách nhiệm cũng vẻ vang như nhau”.Với Người không có sự khác
nhau giữa các tầng lớp dân cư,cũng như Người luôn trân trọng tất cả.Người
chưa bao giờ coi mình có địa vị cao hơn, ở trên người khác, mà ngược lại
Người luôn nhắc nhở những người lãnh đạo phải biết lắng nghe,chia sẻ với
nhân dân.Người luôn tâm niệm rằng những người cầm quyền trong xã hội là
“người đầy tớ của nhân dân”. Người nói: “Trong bộ máy cách mạng, từ
người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là sự phân công làm
đầy tớ cho dân. Đó là vinh dự cao nhất”.Người còn cho rằng cán bộ đảng
viên thương dân, yêu dân thôi chưa đủ, mà còn phải hiếu với dân, sẵn sàng
hi sinh vì dân, như giữ tròn đạo hiếu với cha mẹ.Tư tưởng này không chỉ
hiển hiện khi Người còn sống mà ngay cả trước lúc ra đi, nó vẫn nhức nhối
trong suy nghí của Người: “Phải gìn giữ Đảng ta thật trong sạch, xứng
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”.Người còn đói với mọi người như người cha, người bác, người anh gần
gũi.Bác ở trong căn nhà sàn giản dị, Bác cũng dùng món ăn dân dã trong bữa
cơm, Bác đi dép cao su như mọi người dân lúc đó.Bác thường mặc bộ ka ki
bạc màu khi đi công tác, kể cả đi nước ngoài, mặc áo nâu như một lão nông
khi ở nhà. Có lúc Bác mặc áo vá.Một lần, mấy cán bộ gần Bác băn khoăn về
chuyện này, Bác nói: “Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mà mặc áo vá vai
như thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”.Với bác,
cán bộ mà biết sống giản dị, tiết kiệm, trong sạch, hết lòng vì dân, biết nghĩ
đến dân thì đó là cái phúc của nhân dân.
Khác hẳn với các nho gia xưa:”lấy dân làm gốc” là để làm dịu đi mâu
thuẫn trong xã hội bấy giờ, mà mục đích của Người là để giải phóng nhân
dân thoát khỏi tình cảnh bị nô lệ về chính trị, kiệt quệ về kinh tế, bị tối tăm
về tinh thần, tư tưởng, văn hóa, giáo dục do xã hội cũ gây nên. Người nói:
“Tôi chỉ có ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn
toàn được độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.Những lý tưởng này đã được Người
thực hiện bằng chính hoạt động của mình.Người không chỉ nói mà còn
làm.Người suốt đời phấn đấu không ngừng cho lý tưởng đó.Người đã tổ
chức, lãnh đạo nhằm phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân trong các
giai đoạn của cách mạng và đã đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Đời sống chính trị cũng như đời sống kinh tế và văn hóa - giáo dục
của nhân dân ta không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Bác đã đứng trên lập trường của Những người công nhân, nông dân,
lao động nghèo.Người bênh vực cho quyền lợi của họ.Cơ sở tư tưởng của
Người là chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết về cách mạng, xóa bỏ áp bức
giai cấp, đưa người dân từ địa vị nô lệ, bị áp bức bóc lột thành chủ nhân của
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
xã hội mới. Một xã hội được xây dựng trên cơ sở bình đẳng giữa người với
người và mục tiêu lý tưởng của xã hội đó là mang lại cuộc sống ấm no hạnh
phúc cho tất cả mọi người.Cả cuộc đời, Người cống hiến cho sự nghiệp cách
mạng, phấn đấu vì cuộc sống ấm no cho dân chúng.
Ở Bác tư tưởng về dân chủ nói chung và dân quyền nói riêng là kết
quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là sự kết
hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương đông và quan điểm cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác-Lênin, kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn.Người đã nâng tư
tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính
nhân văn sâu sắc.Theo người, nhân dân là người giữ vai trò quan trọng trong
tất cả các lĩnh vực đời sống.Nhân dân hi sinh xương máu để xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, cung cấp cho đất nước những người con ưu tú tài ba.Bởi vậy
nên nhân dân xứng dáng được hưởng đầy đủ những quyền của mình, bao
gồm quyền được sống, được tự do, được mưu cầu hạnh phúc.Tiếp nhận dòng
chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh đã sớm
nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân.Người luôn dặt lợi ích của nhân
dân lên hàng đầu.Bởi thế cho nên suốt cả cuộc đời Người chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành.Về thực chất, đây cũng chính là tư tưởng thân dân. Người
cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là người có ý thức
phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên
hết, là thân dân. Vậy tại sao lại phải”thân dân”?Người lý giài rằng:Dân là
gốc nước.Dân đã không tiếc máu xương để bảo vệ đất nước.Dân như
nước,cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như
không có nước.Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
thành hiện thực.Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng
có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân
nghe, làm được cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết
được họ đang suy nghĩ gì, trăn trở cái gì? Họ mong muốn những gì?Và họ
đang mong đợi gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết
phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân; là
nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra được viễn cảnh (tương lai) đúng đắn cho
dân phát triển; là biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân,
mọi suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản
ánh đúng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của dân.
Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể đồng
thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân.Theo Người: Nếu
không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính
phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Cán bộ, đảng viên phải làm thế nào
để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành
của nhân dân. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh không bao giờ đối lập vai trò
người lãnh đạo với người đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ
của Đảng và Nhà nước, mà trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng
đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân. Là lãnh đạo không có nghĩa là đè đầu cưỡi cổ nhân dân.Bởi vì: “Chế độ
ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo,
nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến
xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của
nhân dân.”
Theo Bác Hồ, Đảng phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng nhân
dân và hướng dẫn nhân dân, tổ chức thành lực lượng, thành phong trào hành
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
động cách mạng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, có
kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân. Còn các tầng lớp của nhân dân phải tham gia xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức.Nhân dân
là nguồn bổ sung vô tận cho Đảng và luôn luôn tràn trề sức xuân. Trọng dân
là thương dân, vì nhân dân mà phục vụ và biết coi trọng sức mạnh vĩ đại của
nhân dân. Biết bao những phần tử ưu tú trong giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, đã trở
thành đảng viên của Đảng. Quần chúng còn tham gia góp ý, phê bình sự lãnh
đạo của Đảng với mong muốn Đảng luôn luôn trong sạch và vững mạnh.
Bác đã từng nói:chúng ta có trọng dân,kính dân thì dân mới yêu ta,kính
ta.Tôn trọng và tin tưởng nhân dân là tôn trọng vả tin tưởng những người
lám ra lịch sử ,Những người sáng tạo ra của cải, vật chất, những người được
sánh với trời, đất theo triết học phương Đông như Bác đã khẳng định:
“Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”.
Chính những tư tưởng của Người về vấn đề thân dân đã chỉ đạo cho
hoạt động cách mạng của chúng ta trong việc huy động sức mạnh vật chất và
tinh thần phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng mối quan hệ
đoàn kết toàn dân.Hiện nay, đại đa số cán bộ, đảng viên ta đã nhận thức và
làm tốt việc coi trọng nhân dân, vì nhân dân phục vụ, làm cho kinh tế, văn
hóa và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; đời sống các tầng lớp nhân dân được
cải thiện.
Tư tưởng của Người không chỉ có giá trị trong thời chiến, trong những
năm tháng chiến đấu lâu dài mà nó còn có ý nghĩa đến muôn đời sau.Nó trở
thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và nhà nước ta trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước.Ngày nay, khi đã độc lập hòa bình,
nước ta đang đi trên con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
hội chủ nghĩa, đang dần hội nhập với thế giới, thì những tư tưởng của Người
lại càng trở nên ý nghĩa hơn.Đảng và nhà nước ta đang tích cực cùng nhân
dân phát triển và bảo vệ nhà nước Việt Nam của dân, do dân, vì dân, đặt
quyền lợi của dân lên trên hết,chăm lo cho đời sống nhân dân.Tạo điều kiện
để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.Phát triển một
nhà nước pháp quyền:Đảng lãnh đạo-nhà nước quản lý-nhân dân làm
chủ.Nhà nước ta chỉ có thể làm được chức năng của mình một khi có mối
quan hệ gắn bó với nhân dân, biết lắng nghe, tôn trọng nhân dân, dựa vào
dân, và chịu sự giám sát của nhân dân.
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã mở rộng và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, vì lợi ích
của nhân dân, phát huy quyền làm chủ và sức sáng tạo của nhân dân.Mọi
hoạt động của đảng đều xuất phát từ lợi ích của dân.Đó chính là nguyên
nhân sâu xa làm nên sức mạnh đoàn kết rất đáng tự hào của Đảng.Dưới sự
lãnh đạo của Đảng và qua rèn luyện trong thực tiễn quản lý sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc,nhà nước ta đã trưởng thành về nhiều mặt, thể hiện
rõ bản chất của một nhà nước của dân, do dân, vì dân.Nhà nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn,nhất là trong việc xây dựng hệ thống pháp luật
để quản lý đất nước.Hoạt động của nhà nước thể hiện được tư tưởng lấy dân
làm gốc, biết dựa vào dân, thực hiện thảnh công việc dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra.
Đảng và nhà nước ta đang phấn đấu để thực hiện một cách đầy đủ và
đúng đắn nhất dân quyền như trong lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh.Mục
tiêu cao nhất, đồng thời cũng là biểu hiện cụ thể về quyền con người ở Việt
Nam là phấn đấu hết sức mình để xây dựng:”Dân giàu, nước mạnh,xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.Nhà nước Việt Nam trong những năm qua
đã không ngừng xây dựng và củng cố hệ thống pháp luật toàn diện về đảm
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
bảo và thúc đẩy quyền con người.Hệ thống kiểm tra, giám sát, và thực hiện
pháp luật với sự tham gia của nhân dân không ngừng được đổi mới theo
nguyên tắc nhà nước pháp quyền.Quyền con người được đẩy mạnh trên tất
cả các mặt, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội…Trên lĩnh vực dân sự,
nhà nước đảm bảo đầy đủ cho nhân dân quyền sống, quyền đối với họ tên,
quốc tịch, hình ảnh, quyền không bị tra tấn nhục hình và đối xử vô nhân đạo,
quyền tự do cư trú và đi lại, quyền an ninh cá nhân, bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền được bảo vệ danh dự và nhân phẩm, quyền được xét xử công
bằng, quyền được bí mật về thư tín và đời tư.Nhà nước xây dựng luật và
thực hiện nó một cách nghiêm minh để đảm bảo công bằng cho tất cả mọi
người.Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến đồng bào các dân tộc ít người,thực
hiện chính sách bình đẳng, nghiêm cấm các hành vi chia rẽ,kì thị dân
tộc.Khuyến khích, hỗ trợ các dân tộc phát triển kinh tế.Trên lĩnh vực chính
trị, nhà nước ta đảm bảo để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền tham gia và
quản lý nhà nước của mình.Đảm bảo quyền bầu cử, quyền khiếu nại tố cáo,
ban hành và hướng dẫn tổ chức thực hiện quy chế dân chủ, các quyền tự do
dân chủ,trong đó có quyền tự do ngôn luận, báo chí, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo.Trong lĩnh vực kinh tế, nhà nước đảm bảo cho mọi người quyền sở
hữu, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền được hưởng những
điều kiện làm việc công bằng.Nhờ đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và
quyền con người trên lĩnh vực kinh tế được bảo đảm mà những năm qua
chúng ta đã khơi dậy nguồn lực trong nhân dân đầu tư vào phát triển sản
xuất, kinh doanh.Làm cho mức sống và chất lượng sống của mỗi con người
trong các tầng lớp nhân dân đã được nâng cao, cải thiện.Còn trong lĩnh vực
văn hóa,Đảng ta khẳng định chủ trương: xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội.Đảm bảo cho người dân quyền được tiếp cận với
20