LỜI MỞ ĐẦU
Thực tập là một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo sinh viên bởi lý
thuyết chỉ hoàn chỉnh khi đi cùng thực tiễn. Thật vậy, việc trải nghiệm qua gần 3
tháng thực tập tại phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Hạ Hoà, tỉnh
Phú Thọ đã thực sự là một trải nghiệm thực tế và kiểm chứng lý thuyết rất ý nghĩa
đối với tôi. Trong đợt thực tập này, những bài học tôi học được thực sự rất bổ ích
và thiết thực; từ nền nếp, tác phong, thời gian làm việc đến nội dung công việc, tất
cả đã giúp tôi học hỏi được thêm nhiều kinh nghiệm hơn trong ứng xử, giao tiếp và
giải quyết công việc. Đó là những nền tảng cơ bản để tôi nói riêng và những sinh
viên thực tập nói chung trở thành những cán bộ có năng lực trong tương lai. Quá
trình thực tập đã giúp tôi hiểu biết thêm rất nhiều kiến thức bổ ích mà chỉ có thực
tế mới có thể thấy được.
Trong thời gian thực tập tại phòng Lao động- TB&XH huyện Hạ Hòa về
chuyên đề quản trị nhân lực, tôi đã học thêm được rất nhiều kinh nghiệm để trở
thành một cán bộ quản trị nhân lực giỏi trong tương lai. Ngoài các kiến thức đã
học ở trường về quản trị nhân lực ở trong trường tôi còn học hỏi được rất nhiều
những kinh nghiệm từ thực tế từ những người làm công tác quản trị nhân lực đây.
Tôi cũng có nhiều kinh nghiệm trong Word và Excel, có thêm nhiều kinh nghiệm
trong cách soạn thảo báo cáo.
Trong quá trình học tập cũng như trong thời gian thực tập, tôi thích và hiểu
biết khá nhiều về lĩnh vực quản lý lao động, công tác đào tạo nghề cho lao động,
công tác xoá đói giảm nghèo, góp phần xây dựng nông thôn mới nên tôi chọn nội
dung này để viết báo cáo thực tập tốt nghiệp. Báo cáo gồm có hai mục chính sau:
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÒNG LAO ĐỘNG THƯƠNG
BINH VÀ XÃ HỘI HUYỆN HẠ HOÀ VÀ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ NHÂN
LỰC Ở ĐÂY.
PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ Ở HUYỆN
HẠ HOÀ
Để đạt kết quả cao trong đợt thực tập, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành
tới Thạc sĩ: Vũ Mạnh Thắng, cùng toàn bộ các cán bộ, chuyên viên phòng Lao
động – Thương Binh và Xã hội huyện Hạ Hòa đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, tạo mọi
điều kiện thuận lợi trong quá trình thực tập. Kết quả của thực tập là quá trình làm
việc nghiêm túc, cùng với sự nghiên cứu tài liệu một cách kỹ lưỡng. Nhưng do khả
1
năng ứng dụng thực tế còn chưa sâu bài viết chắc chắn có những thiếu sót, rất
mong sự đóng góp ý kiến của quí thầy, cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
2
PHẦN 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÒNG LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH
VÀ XÃ HỘI HUYỆN HẠ HOÀ VÀ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ NHÂN LỰC Ở
ĐÂY.
1.1. Tổng quan về phòng lao động thương binh và xã hội huyện Hạ Hoà
1.1.1. Thông tin chung.
Tên đơn vị
: Phòng Lao động – TB&XH Huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ
Địa Chỉ
: Trực thuộc UBND Huyện Hạ Hoà – Khu 10 - Thị trấn Hạ Hoà
- Huyện Hạ Hoà - tỉnh Phú Thọ.
Số điện thoại : 02103.883.127.
Ngày thành lập : 12/1995.
Email:
:
[email protected].
1.1.2. Cơ cấu tổ chức
* Sơ đồ tổ chức bộ máy
Trưởng phòng
Hoàng Công Thắng
Phó trưởng phòng
Đào Văn Sinh
Chuyên
viên
Nguyễn
Thị Dung
- Kế toán
Nhìn
Chuyên
viên Bùi
Thị Kim
Phương –
Văn thư,
Cán bộ
phụ trách
công tác
trẻ em.
Phó trưởng phòng
Trần Thị Minh
Nguyệt
Cán sự
Đỗ Thị
Thu
Hương –
Thủ quĩ.
3
Cán bộ
hợp đồng
Nguyễn
Thị Thu
Hương –
Cán bộ
phụ trách
bảo trợ
xã hội.
Chuyên
viên
Nguyễn
Thị Thu
Thuỷ Cán bộ
phụ trách
người có
công .
Nhìn vào sơ đồ trên ta có thể thấy hệ thống bộ máy của Phòng Lao động –
Thương binh và xã hội ( bao gồm 01 trưởng phòng, 02 phó phòng, 03 chuyên viên,
01 cán sự, 01 cán bộ hợp đồng ) được tổ chức một cách gọn nhẹ và giải quyết kịp
thời trong các công việc được đảm nhiệm. Mỗi cán bộ của phòng đều chuyên trách
về một mảng riêng, cụ thể, tương đối phù hợp với chuyên môn, khả năng của từng
cán bộ.
Trưởng phòng: Chú Hoàng Công Thắng. Chịu trách nhiệm chung toàn bộ
hoạt động và cơ cấu tổ chức của cơ quan, chịu trách nhiệm; Ban dân tộc tỉnh, Pháp
luật nhà nước về toàn bộ hoạt động thuộc các lĩnh vực của phòng Lao động –
Thương binh và Xã hội huyện. trước Lãnh đạo UBND huyện, Ban thường vụ,
Lãnh đạo UBND huyện, Sở lao động thương binh xã hội tỉnh Phú Thọ
Phó phòng: Bác Đào Văn Sinh và cô Trần Thị Minh Nguyệt chịu trách
nhiệm trước phòng và pháp luật nhà nước về các lĩnh vực được phân công phụ
trách. Tham mưu giúp trưởng phòng chỉ đạo và thực hiện công tác.
Chuyên viên: Được phân công phụ trách theo các lĩnh vực như kế toán; thủ
quĩ; bảo trợ xã hội; ưu đãi học sinh, sinh viên; trẻ em, lao ®éng việc làm, phụ trách
công tác thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng và các đối tượng xã
hội khác.
Với cơ cấu tổ chức bộ máy như trên, phòng LĐ-TB&XH huyện Hạ Hoà đã
đảm nhiệm khá tốt nhiệm vụ quản lý của đơn vị. Tuy nhiên, do đa số cán bộ làm
việc trái nghề, không đúng chuyên môn nên công việc đôi khi còn giải quyết chưa
được kịp thời và đáp ứng theo đúng yêu cầu của cấp trên và quy định của nhà
nước. Để khắc phục hạn chế trên, phòng LĐTB&XH Hạ Hoà cần tạo điều kiện cho
cán bộ phòng được tập huấn hoặc bổ xung thêm cán sự xã hội được đào tạo bài bản
về chuyên môn của phòng.
* Đơn vị quản lý trực tiếp
Trực thuộc UBND huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ
Địa chỉ: Khu 10, thị trấn Hạ Hoà, huyện Hạ Hoà,tỉnh Phú Thọ
* Đơn vị quản lý chuyên môn
Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội tỉnh Phú Thọ
* Đơn vị chịu sự quản lý của phòng Lao Động Thương Binh và Xã Hội
huyện Hạ Hoà.
Các cán bộ Lao động Thương binh và Xã hội của các xã và thị trấn trong địa
bàn huyện.
1.1.3. Đặc thù lĩnh vực hoạt động
1.1.3.1. Vị trí - chức năng:
Phòng Lao động - TB&XH huyện Hạ Hòa là cơ quan chuyên môn thuộc
UBND huyện Hạ Hòa có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực: lao động việc làm; dạy nghề; bảo hiểm y
4
tế cho các đối tượng chính sách, bảo hiểm thất nghiệp; an toàn lao động; người có
công; bảo trợ xã hội; bảo vệ; chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới; phòng chống tệ
nạn xã hội.
Phòng Lao động - TB&XH có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản
riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của UBND
huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ
của Sở Lao động - TB&XH.
1.1.3.2. Nhiệm vụ-quyền hạn:
a. Nhiệm vụ - quyền hạn chung:
Trình UBND huyện Hạ Hòa các văn bản hướng dẫn về công tác Lao động TB&XH trên địa bàn và tổ chức triển khai thực hiện theo các quy định của UBND
tỉnh, Sở Lao động - TB&XH , Bộ Lao động - TB&XH .
Trình UBND huyện Hạ Hòa quy hoạch, kế hoạch dài hạn 5 năm và hàng năm về
công tác Lao động - TB&XH; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện sau khi được
phê duyệt.
Tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin
lưu trữ phục vụ cho công tác Lao động - TB&XH. Thực hiện công tác thông tin,
báo cáo định kỳ và đột xuất về đánh giá tình hình, kết quả triển khai công tác Lao
động - TB&XH trên địa bàn với Chủ tịch UBND huyện Hạ Hòa, Sở Lao động TB&XH Phú Thọ.
Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật, giải quyết
khiếu nại, tố cáo về công tác Lao động- TB&XH trên địa bàn huyện theo quy định.
Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, thực hiện chế độ, chính sách, chế độ đãi
ngộ, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với
cán bộ,công chức của cơ quan theo quy định. Quản lý tài chính, tài sản của cơ quan
theo quy định của pháp luật. Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND huyện giao.
b. Nhiệm vụ- quyền hạn cụ thể đối với từng lĩnh vực công tác:
Xây dựng và trình UBND huyện kế hoạch phối hợp với các ngành, địa
phương, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội ở huyện trong việc thực hiện các
nhiệm vụ về chăm sóc người có công, đối tượng xã hội, bảo vệ và trẻ em; chịu
trách nhiệm tổ chức thực hiện kế hoạch phối hợp sau khi được phê duyệt; chỉ đạo,
tổ chức các ngày kỷ niệm như “Ngày thương binh Liệt sỹ”, “Tháng hành động vì
trẻ em”,…trên địa bàn huyện.
Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện pháp luật về chính sách lao
động, việc làm, an toàn lao động, vệ sinh lao động, dạy nghề, bảo hiểm xã hội,
thương binh, liệt sỹ và người có công với cách với cách mạng, bảo trợ xã hội, bảo
vệ và chăm sóc trẻ em; xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, bình đẳng
giới trên địa bàn.
5
Trực tiếp tham mưu cho UBND huyện về công tác cai nghiện ma túy, là cơ
quan thường trực giúp việc Ban chỉ đạo cai nghiện ma túy và phòng chống tội
phạm ma túy trên địa bàn huyện. Hướng dẫn, kiểm tra UBND các xã, phường quản
lý nghĩa trang liệt sỹ, đài tưởng niệm và các công trình ghi công liệt sỹ; chịu trách
nhiệm trực tiếp quản lý các công trình được giao. Hướng dẫn, kiểm tra các cơ sở
bảo trợ xã hội, dạy nghề, giới thiệu việc làm, sản xuất của tập thể thương binh,
người tàn tật, cơ sở giáo dục, cai nghiện ma túy, mại dâm trên địa bàn huyện.
Tham mưu cho UBND huyện về công tác lao động - việc làm, phối hợp với
cơ quan chức năng giúp UBND huyện theo dõi việc quản lý và sử dụng lao động
công ích hàng năm. Tổ chức ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác Lao độngTB&XH, thu nhập, lưu trữ và phổ biến thông tin phục vụ cho quản lý, thực hiện
chế độ báo cáo định kỳ về tình hình nhiệm vụ được giao cho UBND huyện và Sở
Lao động- TB&XH tỉnh Phú Thọ và các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
1.1.4. Tóm lược quá trình phát triển
07- 10 – 1995, Chính phủ ra nghị định số 63/NĐ-CP tái lập huyện Hạ
Ngày Hòa. Theo nghị định, 10 xã trước đây đưa sang huyện Sông Thao và
23 xã nằm trong huyện Thanh Hòa trở lại huyện Hạ Hòa. Từ ngày 01-011996, Hạ Hòa trở lại đơn vị hành chính cấp huyện với 33 xã. Năm 1997, thị
trấn Hạ Hòa được thành lập trên cơ sở xã Ấm Thượng có diện tích 10,02
km2, dân số 7.456 người. Như vậy, toàn huyện có 01 thị trấn và 32 xã.
Trên cơ sở đó, cuối tháng 12 năm 1995 phòng Lao động – TB&XH
huyện Hạ Hoà được thành lập và có tên là Phòng Tổ chức – TB&XH huyện
Hạ Hoà.
Tháng 01 năm 1996 Phòng Tổ chức – TB&XH huyện Hạ Hoà tách ra
làm hai phòng là:
+ Phòng Tổ chức chính quyền huyện Hạ Hoà
+ Phòng Lao động – TB&XH huyện Hạ Hoà.
Tháng 02 năm 2002, nhập Phòng tổ chức chính quyền và phòng Lao
động – TB&XH thành Phòng Tổ chức Lao động – TB&XH huyện Hạ Hoà.
Tháng 5 năm 2005, Phòng tổ chức Lao động – TB&XH huyện Hạ
Hoà đổi tên thành phòng Nội vụ - Lao động – TB&XH huyện Hạ Hoà.
Tháng 6 năm 2008 phòng Nội vụ - Lao động – TB&XH huyện Hạ
Hoà tách ra thành 2 phòng đó là:
+ Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Hạ Hoà.
+ Phòng Nội vụ huyện Hạ Hoà.
Sau nhiều lần tách, gộp từ tháng 6 năm 2008 tới nay, phòng có tên là
Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Hạ Hoà.
6
1.2. Thông tin về nhân lực của phòng.
Số
Họ và tên
TT
1 Hoàng
Thắng
Năm Sinh Trình độ
Thâm niên
Chức danh
Chuyên môn
Nam Nữ
Công 1976
Khoa Kế toán 5
Trường Đại học Trưởng
Thương Mại
phòng
2
Đào Văn Sinh
3
Trần Thị
Nguyệt
4
Nguyễn Thị Dung
5
Bùi Thị
Phương
Kim
6
Đỗ
Thị
Hương
Thu
7
Nguyễn Thị Thu
Thuỷ
1987 Khoa Công tác Chuyên viên
xã hội - Trường
Đại học Lao
Động – Xã Hội
Nguyễn Thị Thu
Hương
1990 Khoa Công tác Cán bộ
xã hội - Trường hợp đồng
Đại học Lao
Động – Xã Hội
8
1959
Minh
Khoa Ngữ văn - Phó trưởng
Trường Đại Học phòng
Sư Phạm II Hà
Nội.
4
1975 Khoa Kế toán – Phó trưởng
Trường Đại học phòng
Nông Nghiệp
1959 Khoa Kế toán - Chuyên viên
trường Đại học
Lao Động – Xã
Hội ( hệ trung
cấp)
1973 Khoa Kế toán – Chuyên viên
Trường Đại học
Nông lâm Thái
Nguyên
1976 Khoa Kế toán – Cán sự
Trường Đại học
Nông Nghiệp
3
7
17
3
3
3
6 tháng
Nhìn vào bảng trên ta có những nhận xét cơ bản sau đây:
Thứ nhất về độ tuổi, ta có thể thấy phòng Lao động – Thương binh và xã hội
huyện Hạ Hòa có cơ cấu về độ tuổi tương đối hợp lý, phòng có các cán bộ có cơ độ
tuổi đa dạng từ trẻ, trung niên cho đên già. Có thể nói so với các phòng khác ở
trong UBND huyện Hạ Hòa thì phòng lao động có sự đa dạng về cơ cấu độ tuổi,
điều này hiệu quả là ở phòng có đủ các suy nghĩ và tư tưởng của các thời kì nhằm
nắm bắt văn bản một cách có hiệu quả.
Thứ hai là về giới : Phòng có 2 cán bộ là nam và 6 cán bộ là nữ ta có thể thấy cơ
cấu giới tính ở đây là không hợp lý điều đó không tạo hiệu quả trong sự kết hợp
công việc.
Thứ ba đó là trong chức danh tương ứng chức vụ, thâm niên.
- Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy được trình độ chuyên môn tương ứng của các
chức danh của cán bộ phòng Lao động – Thương binh và xã hội huyện Hạ Hòa.
+ Trưởng phòng Hoàng Công Thắng học chuyên ngành kế toán ở trường đại học
Thương Mại giữ chức vụ làm trưởng phòng là tương đối hợp lý. Vì các chính sách
cần liên quan đến nguồn quĩ của nhà nước, người được đào tạo chuyên ngành kế
toán có thể điều phối công việc tốt và quản lý đơn vị của mình hợp lý. Tuy nhiên
đồng chí trưởng phòng này mới có thâm niên công tác trong ngành là 5 năm cũng
chưa dày dặn kinh nghiệm nhiều; để nâng cao hơn nữa trong quá trình quản lý, chú
trưởng phòng cần có thêm những khóa học ngắn về quản lý lao động, và chuyên
ngành công tác xã hội để có thể phát huy hơn nữa năng lực của mình và điều hành
công việc thật tốt.
+ Phó phòng Đào Văn Sinh học chuyên ngành Ngữ Văn Sinh giữ chức vụ phó
phòng tức là làm nhiệm vụ của người cũng chi phối, điều hành toàn bộ các mảng
mà chỉ có chuyên ngành Ngữ văn là không hợp lý cho lắm; thứ hai là cán bộ Đào
Văn Sinh chịu trách nhiệm về lĩnh vực Lao động – Việc làm mà cán bộ này lại học
chuyên ngành Ngữ văn là không hợp lý; thâm niên làm trong ngành là 4 năm cũng
chưa nhiều kinh nghiệm để hoàn thành tốt công việc để tiếp tục giữ chức vụ cán bộ
này cần học khóa học về Quản lý lao động. Hoặc vị trí trưởng phòng cần được bổ
nhiệm cán bộ có năng lực và đào tạo đúng chuyên nghành hơn.
+ Phó Trưởng phòng Trần Thị Minh Nguyệt được đào tạo chuyên ngành kế toán
của Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội được bố trí là chuyên viên phụ trách
mảng bảo trợ xã hội là chưa hợp lý, vì chưa đúng với chuyên ngành được đào tạo
dẫn đến chưa thể am hiểu hết trong lĩnh vực bảo trợ xã hội. Chuyên viên này có
thâm niên trong ngành là 3 năm cũng chưa có nhiều kinh nghiệm trong xử lý công
việc.
+ Chuyên viên Nguyễn Thị Dung là kế toán của phòng là một vị trí hoàn toàn hợp
lý. Cán bộ này đã có thâm niên công tác trong ngành là 17 năm, được đào tạo
chuyên ngành Kế toán hệ trung cấp của trường Đại học lao động – xã hội; ngoài ra
8
chuyên viên này còn có bằng Quản lý lao động hệ Cao đẳng của trường Đại học
Lao động – Xã hội. Kinh nghiệm trong công việc, được đào tạo đúng chuyên
ngành, bố trí đúng người đúng việc.
+ Chuyên viên Bùi Thị Kim Phương được đào tạo chuyên ngành Kế toán của
trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên được bố trí là chuyên viên phụ trách văn
thư, trẻ em là không hợp lý và chưa đúng với chuyên nghành được đào tạo. Ngoài
ra chuyên viên này có thâm niên công tác trong ngành là 3 năm chưa đủ có nhiều
kinh nghiệm trong công việc.
+ Cán sự Đỗ Thị Thu Hương học chuyên ngành Kế toán của trường Đại học
Nông Nghiệp Hà Nội được bố trí làm thủ quĩ là hoàn toàn hợp lý đúng chuyên
ngành ngoài ra cán sự này còn phụ trách mảng người nghèo và ưu đãi học sinh
sinh viên chưa hợp lý cho lắm. Thâm niên của cán sự này là 3 năm, tương đối
nhiều kinh nghiệm va hơn nữa được bố trí đúng người đúng việc tao hiệu quả trong
công việc.
+ Chuyên viên Nguyễn Thị Thu Thủy học chuyên ngành Công tác xã hội của
trường Đại học Lao động – Xã hội được bố trí chuyên viên phụ trách mảng người
có công là hợp lý, vì học đúng chuyên ngành đào tạo làm đúng người đúng việc.
Chuyên viên này có thâm niên công tác 3 năm công tác, được đào tạo bài bản đúng
chuyên ngành tạo hiệu quả cao trong lao học chuyên ngành Công tác xã hội của
trường Đại học Lao động – Xã hội được bố trí động và công tác, cũng có nhiều
kinh nghiệm vì cán bộ này trước khi về phòng công tác cũng đã có thời gian thực
tập tại phòng.
+ Cán bộ hợp đồng Nguyễn Thị Thu Hương học chuyên ngành công tác xã hội
của trường Đại học Lao động – Xã hội được bố trí phụ trách mảng bảo trợ xã hội
cho trẻ em là hợp lý, vì học đúng chuyên ngành đào tạo làm đúng người đúng việc,
chắc chắn sẽ mang lại hiẹu quả công việc cao.
=>> Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy phòng có tới năm trên tổng số t¸m cán bộ
được đào tạo chuyên ngành Kế toán, có một cán bộ được đào tạo chuyên ngành
ngành Ngữ Văn, hai cán bộ được đào tạo đúng chuyên ngành Lao động – Thương
binh và Xã hội. Cán bộ ở phòng chưa thực sự được bố trí hiệu quả đúng người,
đúng việc. Cần bố trí phù hợp chuyên ngành được đào tạo ở trường để bố trí hiệu
quả làm việc của Phòng được nâng cao hơn.
1.3. Bộ máy thực hiện nhiệm vụ chuyên trách quản trị nhân lực
- Tên gọi: Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Hạ Hoà.
- Địa chỉ: Khu 10, thị trấn Hạ Hoà, huyện Hạ Hoà,tỉnh Phú Thọ
-Chức năng của phòng: Phòng Lao động – TB&XH huyện Hạ Hoà là cơ
quan chuyên môn thuộc UBND huyện Hạ Hoà có chức năng tham mưu, giúp
9
UBND huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực: lao động
việc làm; dạy nghề; bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách, bảo hiểm thất
nghiệp; an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ; chăm sóc trẻ và
bình đẳng giới; phòng chống tệ nạn xã hội.
- Nhiệm vụ của phòng
+ Trình UBND huyện ban hành quyết định, chỉ thị; kế hoạch dài hạn 5 năm
và hàng năm; đề án chương trình phát triển lao động, bảo trợ xã hội, người có công
bảo vệ chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới; chương trình biện pháp tổ chức thực hiện
cải cách hành chính, xã hội hoá trong các lĩnh vực lao động, xoá đối giảm nghèo,
bảo trợ xã hội, người có công, bảo vệ và chăm sóc trẻ em trên địa bàn huyện và
chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện khi được ban hành.
+ Trình chủ tịch UBND huyện dự thảo các văn bản về lĩnh vực lao động, xoá
đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, người có công, bảo vệ chăm sóc trẻ em, bình đẳng
giới thuộc thẩm quyền ban ngành của chủ tịch UBND huyện.
+ Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, đề án,
chương trình đã được phê duyệt; hướng dẫn, thông tin, tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật về quản lý, hoạt động phát triển sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc trẻ
em, bình đẳng giới, lao động, xoá đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, người có công,
bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới;
+ Hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và nhân dân trên địa bàn huyện thực hiện
nhiệm vụ công tác về lao động, xoá đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, người có công,
bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới trên địa bàn huyện theo quy định của
pháp luật và sự chỉ đạo của UBND huyện.
+ Thống kê nguồn lao động của huyện, tham mưu cho UBND huyện cân đối
nguồn lao động, tạo việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động.
+ Giúp UBND huyện về công tác an toàn vệ sinh lao động và phòng chống
cháy nổ trên địa bàn huyện
+ Giúp UBND huyện tổng hợp và quản lý đối tượng người có công, người
hưởng chính sách xã hội và đối tượng khác trên địa bàn huyện theo hướng dẫn của
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Phú Thọ; kiến nghị với cấp có thẩm
quyền về chính sách đối với đối tượng thuộc lĩnh vực lao động, người có công và
xã hội.
+ Tổ chức thực hiện công tác chi trả trợ cấp, phụ cấp cho các đối tượng
hưởng chính sách lao động, người có công và xã hội theo phân cấp hoặc uỷ nhiệm
của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Phú Thọ.
+ Giúp UBND huyện quản lý đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ của huyện;
quản lý cơ sở nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn huyện.
10
+ Giúp UBND huyện phòng chống tệ nạn mại dâm, cai nghiện ma tuý tại
cộng đồng, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em bị xâm
hại, là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về.
+ Tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật về lĩnh
vực lao động, xoá đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, người có công, bảo vệ và chăm
sóc trẻ em, bình đẳng giới.
+ Kiểm tra và xử lý theo thẩm quyền các vi phạm về pháp luật về lao động,
xoá đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, người có công, bảo vệ và chăm socs trẻ em,
bình đẳn giới.
+ Thực hiện công tác thống kê, báo cáo định kì và đột xuất về tình hình hoạt
động trên các lĩnh vực lao động, xoá đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, người có
công, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới với UBND huyện và Sở Lao động
– Thương binh và Xã hội tỉnh Phú Thọ.
+ Quản lý tổ chức biên chế, thực hiện chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỉ luật,
đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ công chức thuộc
phạm vi quản lý của Phòng về lĩnh vực lao động, xoá đói giảm nghèo, bảo trợ xã
hội, người có công, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới theo quy định của
pháp luật và phân công của UBND huyện.
+ Quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật phân cấp,
uỷ quyền của UBND huyện.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND huyện phân công.
- Tổng số cán bộ, nhân viên của phòng: 8 người(2 nam,6 nữ). Trong đó có 1
Trưởng phòng, 2 phó phòng và 5 chuyên viên.
- Số cán bộ nhân viên chuyên trách công tác quản trị nhân lực là 3 người bao
gồm 1 trưởng phòng và 2 phó phòng.
- Số cán bộ chuyên trách công tác quản trị nhân lực trên tổng số lao động
của phòng là 3 trên 8 người. Sự bố trí như vậy là tương đối đầy đủ và hợp lý. Việc
bố trí như vậy là tương đối đầy đủ và hợp lý. Việc bố trí như vậy sẽ giúp quản lý
tốt số lao động của phòng. Hơn nữa với sự giúp đỡ của 2 phó phòng sẽ giúp giảm
bớt gánh nặng trong quản lý cho trương phòng, giúp cho phòng ngày càng vững
mạnh và phát triển. Tuy nhiên cả 3 người này đều làm việc không đúng với chuyên
ngành của mình nên trong quá trình quản lý nhân viên của phòng còn gặp nhièu
khó khăn. Chính vì vậy mà cả 3 người cần phải học thêm những lớp hoc ngắn ngày
về quản lý lao động để có thể làm tốt chuyên môn của mình. Có thể quản lý nhân
viên một cách tốt nhất, góp phần đưa phòng ngay càng đi lên phát triển vững
mạnh, xứng đáng là đơn vị tiêu biểu của huyện và của Sở Lao động – Thương binh
và Xã hội tỉnh Phú Thọ.
11
-Năng lực cán bộ đảm nhiệm công tác quản trị nhân lực.
STT Họ tên
Năm
sinh
Hoàng Công 1976
Thắng
Giới
tính
Nam
2
Đào Văn
Sinh
1959
Nam
3
Trần Thị
Minh
Nguyệt
1975
Nữ
1
Trình độ
Đại học
chuyên
ngành kế
toán
Đại học
chuyên
ngành sư
phạm
Đại học
chuyên
ngành kế
toán
Kinh
nghiệm
5 năm
Công việc
đảm nhiệm
Trưởng
phòng
4 năm
Phó trưởng
phòng
3 năm
Phó trưởng
phòng
1.4. Mô tả quá trình thực hiện nhiệm vụ của một nhân viên phụ trách công
tác quản trị nhân lực.
Họ tên: Hoàng Công Thắng, sinh năm 1976.
Quê quán: Thị trấn Hạ Hòa, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ.
Tốt nghiệp chuyên ngành kế toán của trường Đại học Thương Mại
Công việc đảm nhiệm: Trương phòng Hoàng Công Thắng chịu trách nhiệm
chung toàn bộ hoạt động và cơ cấu tổ chức của cơ quan; Ban dân tộc tỉnh, Pháp
luật nhà nước về toàn bộ hoạt động thuộc các lĩnh vực chuyên môn của phòng Lao
động – Thương binh và Xã hội huyện. trước Lãnh đạo UBND huyện, Ban thường
vụ, Lãnh đạo UBND huyện, Sở lao động thương binh xã hội tỉnh Phú Thọ, quản lý
toàn bộ nhân viên của phòng, quản lý các nguồn quỹ của nhà nước, truyền bá và
phổ biến các thông tư quyết định của cấp trên đến với nhân viên, người được đào
tạo chuyên ngành kế toán có thể điều phối công việc tốt và quản lý đơn vị của
mình hợp lý. Tuy nhiên đồng chí trưởng phòng này mới có thâm niên công tác
trong ngành là 5 năm cũng chưa dày dặn kinh nghiệm nhiều; để nâng cao hơn nữa
trong quá trình quản lý, chú trưởng phòng cần có thêm những khóa học ngắn về
quản lý lao động, và chuyên ngành công tác xã hội để có thể phát huy hơn nữa
năng lực của mình và điều hành công việc thật tốt, để làm tốt công tác quản trị
nhân lực của mình.
12
1.5. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình thực tập vừa qua, tôi đã rút ra được rất nhiều những bài học
cho riêng mình. Trải qua quá trình thực tập tôi nhận thấy một điều rằng, để làm
được tốt công việc của mình thì không chỉ cần có nắm vững kiến thức được hoc
trên lớp mà còn phải học hỏi rất nhiều kiến thức từ ngoài thực tế. Từ cách xưng hô,
giao tiếp nơi công sở mới đầu nó còn rất lạ lẫm đối với tôi. Tại đây tôi đã được các
cô, các chú, các chị dạy cho rất nhiều điều bổ ích trong cách giải quyết công việc.
Tất cả những thứ đó có lẽ chỉ có trải qua quá trình thực tập tôi mới được học. Tất
cả những kiến thức đó sẽ là những nền tảng vững chắc nhất để tôi có thể bước vào
đời một cách thuận lợi nhất. Nó sẽ là những phương tiện giúp tôi trở thành một cán
bộ quản trị nhân lực giỏi trong tương lai. Qua thời gian qua tôi hiểu ra một điều
rằng khoảng cách từ những lý thuyết mình được học trên lớp đến thực tế đời sống
vẫn còn rất xa vời. Còn phải học hỏi thêm rất nhiều những kiến thức khác nữa. Tôi
tin rằng với những kiến thức mà tôi được học trong thời gian qua, cùng với những
kiến thức đã được học ở trên lớp, tôi sẽ làm tốt công việc của mình trong tương lai.
13
PHẦN 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN Ở HUYỆN HẠ HOÀ.
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1,Cơ sở lý luận
* Khái niệm về nghề
Theo giáo trình kinh tế lao động của trường đại học kinh tế quốc dân thì khái
niệm nghê là một dạng xác định của hoạt động trong hÖ thống phân công lao động
của xã hội ,là toàn bộ kiến thức ( hiểu biết) và kĩ năng mà một người lao động cần
có để thực hiện các hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực lao động nhất
định
* Khái niệm về đào tạo nghề
Theo Cac_Mac công tác dạy nghề phải bao gồm các thành phần sau:
Một là :giáo dục trí tuệ
Hai là: Giáo dục thể lực như trong các trường Thể dục Thể thao hoặc bằng cách
huấn luyện quân sự
Ba là:dạy kí thuật nhằm giúp học sinh nắm được vững những nguyên lí cơ bản của
tất cả các quá trình sản xuất, đồng thời biết sử dụng các công cụ sản xuất đơn giản
nhất
(C.Mác Ph.ăng nghen. Tuyển tập xuất bản lần 2, tập 16 trang 198)
Ở Việt Nam có tồn tại các khái niệm sau:
Theo giáo trình KTLĐ của trường ĐH KTQD thì kháI niệm đào tạo nghề được tác
giả trình bày là :” Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thực nhất định
về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động,để họ có thể đảm nhận được một số
công việc nhất định”
Theo tài liệu của bộ LĐTB và XH xuất bản năm 2002 thì khái niệm đào tạo nghề
được hiểu :” Đào tạo nghề là hoạt động nhằm trang bị cho người lao động nhừng
kiến thức ,kĩ năng và thái độ lao động cần thiết để người lao động sau khi hoàn
thành khoá học hành được một nghề trong xã hội”
Như vậy ,khái niệm này đã không chỉ dừng lại ở trang bị những kiến thức kĩ năng
cơ bản mà còn đề cập đến thái độ lao động cơ bản .Điều này thể hiện tính nhân
văn, tinh thần xã hội chủ nghĩa,đề cao người lao động ngay trong quan niệm về lao
động chứ không chỉ coi lao động là một nguồn “Vốn nhân lực “,coi công nhân như
cáI máy sản xuất .Nó cũng thể hiện sự đầy đủ hơn về vấn đề tinh thần và kỉ luật lao
14
động –một yêu cầu vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất vơí công nghệ và
kĩ thuật tiên tiến hiện nay
* Những nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề:
+ Tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Dạy nghề nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu công nhân kĩ thuật nhân viên nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội .Do đó sự phát triển của công tác dạy nghề gắn với sự phát
triển kinh tế xã hội .Thực tế cũng cho thấy trong những năm thập kỉ 80 của thế kỉ
XX khi nền kinh tế của nước ta đang trong thời kì khủng hoảng , nhu cầu
CNKT ,NVNV cũng giảm theo .ĐIều đó đã tác động và làm cho hệ thống các
trường dạy nghề cũng suy giảm .Đến năm 1996 khi nền kinh tế nước ta thoát khỏi
giai đoạn khủng hoảng và có mức tăng trường khá thì nhu cầu công nhân kĩ thuật ,
nhân viên nghiệp vụ tăng cả về số lượng và chất lượng. đòi hỏi công tác dạy nghề
phảI phát triển theo .
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo sự chuyển dịch về cơ cấu lao động.Sự
chuyển dịch này đòi hỏi phảI đào tạo nghề cho người lao động đang hoạt động
trong những lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chuyển sang hoạt động ở kĩnh vực công
nghiệp xây dung,và dịch vụ
+ Cơ hội và thách thức của toàn cầu hoá và yêu cầu hội nhập khu vực và quốc
tế
Trong tình hình hiện nay chất lượng lao động là yếu tố hàng đầu quyết định sự
thành bại trong cạnh tranh quốc tế .
Trong những năm gần đây Việt Nam gặp rất nhiều bất lợi trong cạnh tranh .Yếu tố
quan trọng của sự hạn chế này là Việt Nam có một lực lượng lao động có chất
lượng thấp.Vì vậy việc nâng cao chất lượng lao động nước ta đang là một đòi hỏi
cấp thiết .Chất lượng lao động chỉ có thể được nâng cao thông qua quá trình giáo
dục đào tạo,trong đó đào tạo nghề là một cấu thành quan trọng.Yêu cầu này đòi hỏi
công tác dạy nghề phảI phát triển nhanh cả về quy mô lần chất lượng
+ Đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển dạy
nghề
Những đường lối và chủ trương ,chính sách của Đảng nếu đúng và phù hợp sẽ là
đIều kiện rất thuận lợi để phát triển công tác dạy nghề
Nghị quyết hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII ( 12/1996) đã
đánh giá :” Giáo dục chuyên nghiệp nhất là đào tạo công nhân kĩ thuật có lúc suy
15
giảm mạnh mất cần đối lớn về cơ cấu trình độ trong đội ngũ lao động ở nhiều
nghành sản xuất.Quy mô đào tạo nghề hiện nay vẫn còn quá bé nhỏ ,trình độ,thiết
bị đào tạo lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu CNH HĐH “.Từ đó nghị quyết đã
đưa ra chủ trương là đảy mạnh đào tạo công nhân lành nghề ,tăng quy mô học
nghề, tăng cường đầu tư củng cố và phát triển các trường dạy nghề,xây dung một
số trường trọng đIúm, đào tạo công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu
chế xuất ,có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động.
Như vậy ta thấy đầy là một sự ưu tiên rất lớn của Đảng và Nhà nước trong công tác
dạy nghề
+ Các yếu tố dân số
Quy mô và cơ cấu dân số quyết định đến số lượng ,quy mô và cơ cấu của các
trường dạy nghề .Nứoc có cơ cấu dân số trẻ thì mạng lưới dạy nghề phảI lớn còn
những nước có quy mô dân số vừa và nhỏ thì phát triển những trường dạy nghề
mang tính chuyên sâu
+ Thái độ xã hội về nghề và công tác đào tạo nghề
Xu hướng vào được ĐH mới có thể kiếm được một nghề ổn định đang ảnh hưởng
rất nhiều đến sự phát triển của công tác đào tạo nghề trong các trường CNKT .Học
sinh không muốn thi vào hoặc nếu đỗ thì cũng tìm cách thi lên ĐH .ĐIều này làm
cho đầu vào của các trường dạy nghề có thể khá đông nhưng đầu ra l¹i ít .Tạo nên
tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”
* Sự cần thiết của công tác đào tạo nghề
Đào tạo nghề có thể cung cấp một đội ngũ lao động có trình độ cho sự phát triển
nền kinh tế đất nứơc.Họ là những người đưa lí thuyết đến thực hành ,đưa khoa học
công nghệ tới các vùng chậm phát triển
Cac Mac đã viết rằng :”Những người công nhân tiên tiến hoàn toàn nhận thực
được rằng tương lai của giai cấp mình mà cũng chính là tương lai của loàI người
tuỳ thuộc vào công tác giáo dục thế hệ công nhân trẻ "
(C.Mác Ph.ăng nghen. Tuyển tập xuất bản lần 2, tập 16 trang 198)
Công tác đào tạo nghề cho mọi người để họ đI vào lao động sản xuất luôn luôn là
một yếu tố quan trọng trong việc táI sản xuất sức lao động vì thế mà công tác đó là
một đIều kiện bắt buộc để phát triển nền sản xuất xã hội .Vì vậy ở nghị quyết hội
nghị lần thứ 4 ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) đã khẳng định sự
nghiệp đổi mới có thành công hay không ,đất nước bước vào thế kỉ XXI có vị trí
16
xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng
thanh niên ,vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên ,công tác thanh niên là
vấn đề sống còn của dân tộc,là một trong yếu tố quyết định sự thành bại của cách
mạng
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng trong xã hội XHCN ,đặt biệt là trong bối cảnh
đang tiến hành xây dựng và hoàn thiện một nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới .ở VN hiện nay thì
vấn đề con người là vấn đề chủ chốt.Một trong những công tác hàng đầu để hình
thành con người mới XHCN đó chính là đào tạo nghề cho người lao động
* Khái niệm về lao động nông thôn
+ Khái niệm về lao động ; Theo tổ chức lao động khoa học : “lao động là
hoạt động có mục đích của con người nhằm thoả mãn nhu cầu về đời sống
của mình là điều kiện tất yếu để tồn tại và phát triển xã hội loài người ”
+ Khái niệm về lao động nông thôn ; Lao động nông thôn là tổng thể sức
lao động thực tế tham gia vào quá trình lao động bao gồm những người
trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60, nữ từ 15 đến 55) và những người
trên, dưới độ tuổi lao động có thể tham gia lao động
* Vai trò của lao động nông thôn
+ Nguồn lực lao động trong nông nghiệp nông thôn đóng vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển bền vững của kinh tế nông nghiệp nói riêng và
của kinh tế xã hội nói chung. Bởi vì nông thôn có vai trò và vị trí hàng đầu
trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta.
+Nguồn lao động nông thôn rất phong phú chiếm gần 70% tổng số lao động
xã hội. Với lực luợng lao động đông đảo như vậy lao động nông thôn đóng vai trò
quyết định đối với kinh tế nông thôn họ là những người làm ra của
cải vật chất cho khu vực thời nông nghiệp, đồng thời nông nghiệp cũng là
những người tạo lên sức mạnh để thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp nước ta.
* Đặc điểm của lao động nông thôn
Nguồn lao động ở nông thôn có những đặc điểm riêng so với các ngành sản xuất vậ
t chất khác.
+ Trước hết là lao động nông thôn mang tính thời vụ cao. Đây là nét điển
hình của lao động nông thôn, Sở dĩ như vậy là vì lao động nông thôn ngắn
chặt với sản xuất nông nghiệp mà sản xuất nông nghiệp lại mang tính thời
vụ cao do đó tình trạng thất nghiệp ở nông thôn tương đối cao khoảng 25% .
+ Lao động nông thôn có xu hướng giảm về số lượng do xu hướng dịch
chuyển lao động nông thôn từ nông nghiệp sang một số ngành sản xuất dịch vụ khá
c như công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và dịch vu.
+Lao động trong nông nghiệp nông thôn nhìn chung có trình độ văn hoá kĩ
17
thuật thấp hơn so với các ngành sản xuất khác.
+ Lao động ở lại trong nông thôn thường là những người có độ tuổi trung bình
cao và lao động phụ ngoài độ tuổi lao động. Vì số laođộng trẻ có trình độ
tay nghề đã bị thu hót sang một số ngành khác. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến chất lượng lao động trong nông nghiệp nông thôn thấp
và có xu hướng già hoá
+ Lực lượng lao động đông đảo nhưng phân bố không đồng đều giữa các
vùng và giữa các khu vực. Lao động chủ yếu tập trung ở hai vùng đồng bằng lớn
là Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long. Các
vùng miền núi và trung du thì lại rất thưa thít.
2, Cơ sở thực tiễn
Từ sau khi đề án 1956 của chính phủ ra đời thì công tác đào tạo nghề cho lao động
ở nông thôn đã được các cấp chính quyền triển khai. Hiện nay thì công tác đào tạo
nghề cho lao động nông thôn ở huyện Hạ Hòa vẫn tiếp tục được thực hiện và phát
huy, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân,góp phần xây dựng nông thôn
ngày càng phát triển. Hạ Hòa là một huyện miền núi nghèo của tỉnh Phú Thọ,
người dân sống chủ yếu vào nông nghiệp.Chính vì vậy mà công tác đào tạo nghề
cho lao động nông thôn trong huyện là vô cùng cấp thiết và thực tế, góp phần giúp
đưa người dân tiến gần hơn với khoa học và công nghệ. Nhận thấy được sự cấp
thiết đó tôi đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu, để được hiểu thêm về công tác
đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở huyện mình.Trong quá trình nghiên cứu tìm
hiểu tôi đã nhận ra được rằng công tác đào tạo nghề có những vai trò và ý nghĩa
như sau:
+ Vai trò của đào tạo nghề:
* Giải quyết việc làm cho người lao động
Kết quả điều tra tính đến 01/04/2012 toàn huyện có 29.090 hộ thuộc diện lao
động nông thôn; với số nhân khẩu thường trú là: 100.912 người; Trong đó:
- Số người trong độ tuổi lao động( Nữ từ 15 đến dưới 55 tuổi, nam từ 15 đến
dưới 60 tuổi): 61.989 người – Tỷ lệ: 61,92% .
- Số người có khả năng lao động: 60.750 người – tỷ lệ: 98 %.
- Số người không có khả năng lao động: 1.239 người – Tỷ lệ: 2 %.
- Số người có việc làm: 60.581 người – Tỷ lệ: 97,7 %.
- Số người không có việc làm: 169 người – Tỷ lệ: 0,27%
- Số lao động được giải quyết việc làm mới: 1.456 lao động so với chỉ tiêu
vượt 21,3%( Chỉ tiêu giao 1.200 lao động). Mỗi năm giải bình quân đã giải quyết
được trên 1.000 lao động có việc làm mới (Mục tiêu của Nghị quyết là mỗi năm
giải quyết việc làm cho 1.000 lao động), đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra.
- Cơ cấu lao động: Nông, Lâm nghiệp: 66.6%; Công nghiệp, xây dựng:
18%; Dịch vụ: 15,4%.
18
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo là 37,5% trong đó tỷ lệ lao động nông thôn
được đào tạ nghề là 33,6%
- UBND huyện chỉ đạo phòng LĐ-TB&XH phối hợp với Trung tâm dạy
nghề Hạ Hòa, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Huyện Đoàn tổ chức 27 lớp dạy nghề
cho 815 học viên tại các xã: Vĩnh Chân, Gia Điền, Hậu Bổng, Đan Hà, Đan
Thượng, Hiền Lương, Quân Khê, Động Lâm, Minh Hạc, Phụ Khánh, Lệnh
Khanh... cho người lao động có nhu cầu đào tạo việc làm với các nghề: Chăn nuôi
thú y, Kỹ thuật xây dựng, Bảo vệ thực vật, Chăn nuôi lợn thương phẩm...
- Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên: 0,82%, giảm 0,06% so với cùng kỳ( Kế
hoạch dưới 1%).
*Công tác xóa đói giảm nghèo cho người lao động được đẩy lùi
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết, đến nay trên địa bàn huyện đã chấm dứt
tình trạng đói gay gắt, tình trạng đứt bữa, đời sống nhân dân ngày càng được cải
thiện. Tỷ lệ hộ nghèo qua các năm như sau:
- Năm 2008 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 27,8% (giảm 7%)
- Năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 22,8% (giảm 5%)
- Năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 18,7% (giảm 4,1%)
- Năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 12,74% (giảm 6,0%)
- Năm 2012 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 21, 44%, Cận nghèo 8,17% (theo tiêu
chí mới năm 2010).
Căn cứ số liệu trên, bình quân mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm trên 5% (Mục
tiêu của Nghị quyết mỗi năm giảm 5%). Như vậy, tỷ lệ hộ nghèo trong những năm
qua giảm nhanh, vượt so với mục tiêu của Nghị quyết số 11-NQ/HU của Ban chấp
hành Huyện uỷ. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo giảm chưa đồng đều, mức giảm tỷ lệ hộ
nghèo có xu hướng chậm dần, một bộ phận hộ nghèo thiếu ý chí vươn lên thoát
nghèo. Các xã có tỷ lệ hộ nghèo thấp và bền vững như: Thị trấn Hạ Hoà, Mai
Tùng, Hậu Bổng, ấm Hạ, Đại phạm, Minh Hạc, Chuế Lưu, Xuân áng; các xã có tỷ
lệ hộ nghèo còn cao như: Quân Khê, Vĩnh Chân, Yên Luật, Lệnh Khanh, Hương
Xạ, Phụ Khánh, Liên Phương, Hà Lương, Phương Viên, Chính Công.
Việc triển khai Đề án “ Đào tạo nghề cho lao động nông thôn” là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước đã đem lại hiệu quả thiết thực cho lao động
nông nghiệp, nông thôn. Sau khi hoàn thành các mô hình đào tạo nghề, đào tạo
nghề nói chung cho lao động nông thôn được ứng dụng vào sản xuất đem lại hiệu
quả kinh tế tăng thu nhập, ổn định đời sống đã tạo ra nhận thức mới, thúc đẩy
phong trào học tập nghề giúp người lao động ý thức rõ ràng về nghề, tay nghề, gắn
với việc làm, tạo sản phẩm có chất lượng cao trên thị trường, đồng thời cũng giúp
cho người lao động rèn luyện ý thức làm việc có kỷ luật theo hướng công nghiệp
19
hóa hóa trong nông nghiệp nông thôn, góp phần xoá đói, giảm nghèo nhanh theo
mục tiêu đã đề ra.
+ Ý nghĩa:
- Đối với những người có việc làm mới sau khi hoàn thành khóa học:
Sau khi hoàn thành khóa học học viên tự tin trong quá trình sản xuất, tạo việc
làm phát triển sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hóa, ổn định được cuộc sống đồng
thời tạo việc làm cho một số lao động khác ngay tại khu dân cư. Số lao động sau
khi được đào tạo có tới 70% tạo và tìm kiếm được việc làm; thu nhập bình quân
sau khi học nghề là 150% so với trước khi được học nghề.
- Đối với những người tiếp tục sản xuất kinh doanh như trước khi học nghề
Số học viên được đào tạo đã mạnh dạn áp dụng kiến thức đã học vào sản
xuất, kinh doanh chiếm khoảng 40%; đồng thời giúp các hộ khác kiến thức sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa đảm bảo có uy tín trên thị trường
tiêu thụ sản phẩm. Tại xã Gia Điền, cùng với sự hỗ trợ vốn của Nhà nước năm
2011 người lao động đã mạnh dạn đăng ký đưa 98 con lợn giống ngoại có chất
lượng cao vào sản xuất, thay thế các giống lợn địa phương kém hiệu quả để mở
rộng quy mô chăn nuôi. Một số lao động đã mạnh dạn đầu tư mở cơ sở trồng nấm
bước đầu đã có sảm phẩm hàng hóa để tự tiêu thụ và bán ra thị trường, một số lao
động đã có việc làm tại các cơ sở trồng nấm trên địa bàn của huyện, thu nhập ổn
định. Nhiều địa phương áp dụng kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm đem lại hiệu
quả, năng xuất chất lượng kinh tế cao, đặc biệt là kỹ thuật phòng chống bệnh dịch
không để xảy ra những bệnh dịch lớn trong 2 năm 2010 và 2011. Xã Văn Lang nhờ
có kỹ thuật chăm sóc rau màu đã chủ động tìm giống bí đao mới về áp dụng trồng
tại địa phương vụ đông xuân năm 2011 đem lại giá trị hàng tỷ đồng cho lao động
nông thôn.
- Khả năng nhân rộng của các mô hình dạy nghề tại địa phương.
Mô hình kỹ thuật nuôi lợn thương phẩm, nghề trồng nấm tại xã Gia Điền và
trồng rau màu sạch cho năng xuất cao tại Văn Lang được lao động hăng hái, nhiệt
tình tham gia với số lượng đông. Vì vậy, đây là mô hình dạy nghề phù hợp với lao
động nông thôn nơi triển khai mô hình thí điểm; giúp nông dân tạo được việc làm
tại chỗ, tận dụng mọi khả năng về thời gian nông nhàn, nguồn thức ăn có sẵn tại
địa phương như: Lúa ngô, khoai, sắn, rau, củ quả… để nuôi lợn thương phẩm,
nghề trồng nấm và trồng rau mầu sạch chất lượng cao. Đồng thời việc tổ chức đào
tạo nghề cho lao động tham gia học tập tại địa phương đáp ứng được nhu cầu và
phù hợp với lao động nông thôn để kết hợp tốt giữa học lý thuyết và thực hành
ngay tại gia đình của học viên do đó đem lại hiệu quả thiết thực cho người lao
động, có tính thuyết phục và lan tỏa trong cộng đồng dân cư do vậy đào tạo, dạy
20