Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh quảng nam...

Tài liệu Giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh quảng nam

.PDF
90
188
56

Mô tả:

-1- MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế, vừa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế, vừa là yếu tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy kinh tế của một quốc gia, một địa phương phát triển. Quảng Nam được tái lập năm 1997 do chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Sau 14 năm tái lập tỉnh, Quảng Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ, từ một tỉnh sản xuất thuần nông, hạ tầng kinh tế - xã hội, đời sống rất khó khăn, ngân sách chủ yếu là dựa vào điều tiết từ Trung ương,... thì đến nay đã tự đảm bảo cân đối ngân sách được trên 60%, tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) tăng bình quân 10,5%/năm, kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, bộ mặt đô thị, nông thôn của tỉnh có nhiều khởi sắc. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có những chuyển dịch tích cực, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên, so với yêu cầu và mong muốn thì cơ cấu kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là trong thời kỳ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Xây dựng cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, phù hợp để ưu tiên nguồn lực có hạn thúc đẩy toàn nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả nhất là hết sức cấp thiết đối với tỉnh Quảng Nam hiện nay. Đây là vấn đề được các cấp lãnh đạo tỉnh Quảng Nam đặc biệt quan tâm, nhất là trong điều kiện Quang Nam đang thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Quảng Nam nhằm xác định những nhân tố ảnh hưởng, những hạn chế, tồn tại trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh thời gian qua để từ đó xác định quan điểm, định hướng, giải pháp để đẩy -2- mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với xu hướng chung và điều kiện thực tế phát triển của Quảng Nam, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực để phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững. II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU - Làm rõ lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. - Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Quảng Nam giai 1997-2010 - Đề xuất một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Quảng Nam đến năm 2015. III. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích kinh tế. - Phương pháp dự đoán kinh tế. - Phương pháp chuyên gia. 2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Quảng Nam. - Về không gian: địa bàn tỉnh Quảng Nam. - Về thời gian: đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Quảng Nam từ năm 1997 đến năm 2010. IV. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Luận văn gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. -3- Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1997-2010. Chương III: Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Quảng Nam đến năm 2015. -4- CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1.1. CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1.1.1. Cơ cấu kinh tế Cơ cấu là một khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như là một thuộc tính của sự vật, hiện tượng và biến đổi cùng sự biến đổi sự vật hiện tượng [11, tr 269-270]. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ về chất lượng và số lượng giữa các bộ phận cấu thành đó trong một thời gian và trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định [1]. Cơ cấu kinh tế không chỉ là quy định về số lượng, tỷ lệ giữa các yếu tố tạo nên hệ thống kinh tế mà chính là mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố của hệ thống, còn quan hệ về số lượng, tỷ lệ chỉ được xem là các biểu hiện của các mối quan hệ mà thôi. Trên bình diện vĩ mô, có một số loại cơ cấu kinh tế như sau: Hình 1.1. Các loại cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu vùng kinh tế Cơ cấu thành phần kinh tế Cơ cấu thương mại quốc tế Các loại cơ cấu trên tạo ra sức mạnh của một nền kinh tế và việc phát triển kinh tế - xã hội phải được tính toán kỹ để đưa ra các chính sách không ngừng -5- hoàn thiện và chuyển đổi cơ cấu ở trình độ thấp lên trình độ cao. Tuy nhiên, việc phân chia các loại cơ cấu kinh tế như trên không phải là cách phân chia duy nhất, lại càng không phải có chừng ấy loại cơ cấu kinh tế mà tùy theo mục đích nghiên cứu mà có thể phân chia theo những cách khác nhau. Mỗi dạng đều phản ánh những khía cạnh và tính chất của quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ. 1.1.2. Cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành với nhau. Cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả mặt định lượng và định tính. Mặt định lượng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm về GDP, lao động, vốn của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Mặt định tính thể hiện vị trí và tầm quan trọng của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân. Nói chung, mối quan hệ của các ngành cả số và chất lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp hơn theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế. Như vậy, chúng ta thấy rằng cơ cấu ngành kinh tế không ngừng vận động và phát triển. Tuy nhiên, không có sẵn một cơ cấu ngành kinh tế hoàn thiện, cũng như không thể có một cơ cấu ngành kinh tế chứa đựng trong đó tất cả những sai lầm, khiếm khuyết và lạc hậu. Cơ cấu ngành kinh tế mới được bắt nguồn từ sự vận động, biến đổi, chuyển dịch của cơ cấu ngành kinh tế trước đó. Vì vậy, nghiên cứu loại cơ cấu này nhằm tìm ra những cách thức duy trì tỷ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung các nguồn lực có hạn của quốc gia, của địa phương trong mỗi thời kỳ để thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất [11, tr 6]. -6- Các ngành kinh tế được phân chia thành 3 khu vực hay gọi là 3 ngành gộp: Khu vực I gồm các ngành nông - lâm - ngư nghiệp; khu vực II là các ngành công nghiệp - xây dựng; khu vực III gồm các ngành thương mại - dịch vụ. Các ngành trên gọi là các ngành cấp I. Trong các ngành cấp I có các ngành cấp II như: Chăn nuôi, trồng trọt trong nông nghiệp; chế biến, khai thác,... trong công nghiệp. “Sự vận động của các ngành kinh tế và mối quan hệ của nó vừa tuân theo những đặc điểm chung của sự phát triển sản xuất xã hội, lại vừa mang những nét đặc thù của mỗi giai đoạn và mỗi quốc gia” [11, tr 6]. Các nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp thường chiếm từ 20 - 30% GDP; trong khi các nước phát triển, tỷ trọng ngành nông nghiệp chỉ chiếm từ 1 - 7%. Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo xu hướng chung là tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm đi, trong khi tỷ trọng công nghiệp và thương mại - dịch vụ ngày càng tăng lên. 1.2. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1.2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, nó luôn luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định. Quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là sự thay đổi về tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao hàm sự thay đổi về vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. -7- 1.2.2. Một số lý thuyết liên quan đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.2.2.1. Quy luật tiêu dùng của E.Engel Quy luật này phản ánh mối quan hệ giữa thu nhập và phân phối thu nhập cho các nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Đường Engel là một đường biểu thị mối quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng cá nhân về một loại hàng hoá cụ thể. Hình 1.2. Đường mô tả quy luật tiêu dùng của E.Engel Tiêu dùng Đường Engel Thu nhập Độ dốc của đường này ở bất kỳ điểm nào chính là xu hướng tiêu dùng biên của hàng hoá đó và cho thấy tỷ số thay đổi tiêu dùng so với thay đổi thu nhập, nó phản ánh độ co giãn của tiêu dùng một loại hàng hoá cụ thể đối với thu nhập dân cư. Bằng quan sát thực nghiệm, Engel đã nhận thấy rằng khi thu nhập của các gia đình tăng lên đến một mức độ nhất định thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên đến một mức nhất định. 1.2.2.2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher A.Fisher đã phân tích: Theo xu thế phát triển khoa học công nghệ, ngành nông nghiệp dễ thực hiện thay thế lao động nhất, việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện cho nông dân nâng cao được năng suất lao động. Như vậy, để đảm bảo nhu cầu lương -8- thực thực phẩm cho xã hội thì không cần đến một lượng lao động như cũ, do đó tỷ lệ lực lượng lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần trong cơ cấu ngành kinh tế. Trong khi đó, ngành công nghiệp là ngành khó có khả năng thay thế lao động hơn nông nghiệp do tính chất phức tạp hơn của việc sử dụng công nghệ mới, mặt khác hệ số co giãn của nhu cầu tiêu dùng loại sản phẩm này lớn hơn 0 vì vậy theo sự phát triển kinh tế, tỷ trọng lao động công nghiệp có xu hướng tăng lên. Ngành dịch vụ được coi là khó có khả năng thay thế lao động nhất do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của việc tạo ra nó, rào cản cho sự thay thế công nghệ và kỹ thuật mới rất cao. Trong khi đó, độ co giãn của nhu cầu sản phẩm dịch vụ khi nền kinh tế ở trình độ phát triển cao là lớn hơn 1, tức là tốc độ tăng cầu tiêu dùng lớn hơn tốc độ tăng thu nhập. Vì vậy, tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ sẽ có xu hướng tăng và tăng càng nhanh khi nền kinh tế phát triển. 1.2.2.3. Mô hình thay đổi cơ cấu của Chenery Chenery cho rằng, khi thu nhập trên đầu người tăng lên sẽ dẫn đến sự chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp. Hình 1.3. Hình mô tả mô hình thay đổi cơ cấu của Chenery GDP% Dịch vụ Công nghiệp Nông nghiệp Thu nhập/đầu người Tỷ trọng sản lượng công nghiệp trong GDP tăng lên và tỷ trọng sản lượng nông nghiệp trong GDP giảm xuống khi thu nhập quốc dân trên đầu người tăng lên. Vào thời điểm năm 1976 qua khảo sát nghiên cứu Chenery cho thấy những quốc gia khi thu nhập 200 USD/người thì giá trị sản phẩm nông nghiệp chiếm -9- 45% của GDP và giá trị công nghiệp chiếm 15% GDP; khi thu nhập tăng lên 1000 USD/người thì giá trị nông nghiệp giảm xuống còn 20% GDP và giá trị công nghiệp tăng lên 28%. Tỷ trọng nông nghiệp và công nghiệp tương đương nhau tại thu nhập 600 USD/người. Sự giảm tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP trong quá trình phát triển không có nghĩa là giảm sản lượng mà trái lại sản lượng nông nghiệp thực tế vẫn tăng. Theo Chenery thu nhập bình quân đầu người dưới 600 USD thuộc giai đoạn trước phát triển, thu nhập từ 600 - 3000 USD là giai đoạn sau hay giai đoạn chuyển tiếp của phát triển. Giai đoạn trước phát triển, tăng trưởng nền kinh tế phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp; giai đoạn sau phát triển, tăng trưởng sự thuộc vào sản xuất công nghiệp. So với thay đổi cơ cấu sản xuất, sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ chậm hơn. Sự dịch chuyển chậm đó làm cho khu vực nông nghiệp trở nên quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho cả hai giai đoạn trước và sau phát triển kinh tế. 1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế; tuy nhiên, tùy mục tiêu nghiên cứu và góc độ tiếp cận mà người ta có thể phân chia nó thành những tổ hợp khác nhau, chẳng hạn: Những nhân tố ảnh hưởng bên trong và bên ngoài, những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp,... Ở góc độ của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, chúng ta có thể chia các nhân tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hiện nay thành 3 nhóm sau: - Nhóm các nhân tố đầu vào của sản xuất (nhóm nhân tố “cung”). - Nhóm các nhân tố đầu ra của sản xuất (nhóm nhân tố “cầu”) - Nhóm các nhân tố về cơ chế chính sách. -10- 1.2.3.1. Nhóm các nhân tố đầu vào của sản xuất (nhân tố “cung”) Nhóm các nhân tố đầu vào của sản xuất gồm tập hợp các nguồn lực mà xã hội có thể huy động vào quá trình sản xuất, bao gồm các nhân tố chính là: Các nguồn lực tự nhiên (tài nguyên đất, nước, khoáng sản,...); nguồn lực con người (quy mô nguồn lao động xã hội, chất lượng của lực lượng lao động,...); và nguồn vốn tài chính (quy mô tiết kiệm, khả năng huy động vốn từ các nguồn khác nhau để đầu tư phát triển sản xuất,...). - Các nguồn lực tự nhiên Cơ cấu kinh tế của một quốc gia, một địa phương được hình thành như thế nào đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của nguồn tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng. Quy mô đất đai, địa hình, khí hậu, nguồn nước,... là điều kiện tự nhiên của các loại hình sản xuất khác nhau (ví dụ khu vực Đông Nam Á sản sinh ra nền nông nghiệp lúa nước mang đặc thù Châu Á gió mùa”; những quốc gia ở vùng nhiệt đới châu Á, khu vực Mỹ la tinh,... là điều kiện tốt để phát triển lâm nghiệp,...; những quốc gia có mỏ khoáng sản có khả năng khai thác kinh tế là điều kiện phát triển mạnh ngành công nghiệp khai mỏ,...). Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở xuất phát tự nhiên quan trọng để hình thành cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế trên thế giới. Tuy nhiên, cần lưu ý một số khía cạnh của các ngành sản xuất dựa trên các nguồn tài nguyên thiên nhiên như sau: + Xu hướng chậm chuyển dịch từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến những sản phẩm có nguồn gốc nguyên liệu từ tài nguyên thiên nhiên khai thác được. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều quốc gia đang phát triển xuất phát từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và khai mỏ, xuất khẩu sản phẩm thô. Điểm xuất phát này có thể coi là một lợi thế nhất định đối với nhiều quốc gia vì nhờ đó sức ép về công ăn việc làm và đời sống bớt căng thẳng, quốc gia có được một nguồn ngoại tệ nhất định để nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ,... Trong không ít -11- trường hợp, theo các nhà kinh tế, mặt lợi thế này lại kìm hãm quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nếu không có chính sách đúng đắn nhằm thúc đẩy quá trình áp dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi cơ cấu sản xuất và sản phẩm từ dạng sơ chế nguyên liệu sang những ngành công nghiệp chế biến sâu và vì vậy mà duy trì quá lâu trạng thái cơ cấu sản xuất lạc hậu. + Dưới tác động của sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, giá trị kinh tế của các nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là bất biến mà có sự thay đổi không ngừng. Với một loại khoáng sản ở quy mô nhất định, khi được khai thác ở trình độ khoa học kỹ thuật này thì đánh giá là không kinh tế, nhưng với một trình độ khoa học kỹ thuật khác thì có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, việc phân bố các nguồn lực vào những lĩnh vực khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên còn chịu ảnh hưởng của trình độ phát triển khoa học công nghệ, một nhân tố cho phép xác định quy mô kinh tế của việc phát triển một lĩnh vực sản xuất nào đó trực tiếp dựa trên việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có của đất nước. Như vậy, nhóm nhân tố đầu tiên có ảnh hưởng mạnh đến thiên hướng tự nhiên của cơ cấu sản xuất của một nền kinh tế là các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của một đất nước, một địa phương. Trong nhiều trường hợp, chúng tạo nên cái mà các nhà kinh tế học gọi là “lợi thế tuyệt đối” trong phân công lao động quốc tế. - Nguồn lực con người Nguồn lực con người khi được xem xét ở góc độ đầu vào của quá trình sản xuất (sức lao động) được coi như một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình sản xuất. Ở những thời điểm nhất định, việc phân bổ nguồn lực này như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu của nền kinh tế. Tuy nhiên, để có căn cứ cho việc quyết định phân bố nguồn nhân lực vào những lĩnh vực sản xuất khác nhau như thế nào, những khía cạnh cần lưu ý là: -12- + Quy mô nguồn nhân lực: Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành cơ cấu ngành kinh tế. Để có hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế theo quy mô, trong những điều kiện về khoa học - công nghệ nhất định, cần phải có một lực lượng lao động thích hợp. Đối với một số quốc gia và địa phương, quy mô dân số và lao động nhỏ bé là một trong những nguyên nhân khó phát triển ở một số lĩnh vực, thậm chí phải “nhập khẩu lao động”. Ngược lại, khá nhiều quốc gia đang phát triển có hiện tượng dư thừa lao động; vì vậy, hình thành một cơ cấu kinh tế thâm dụng lao động là một trong những ưu tiên hàng đầu. Quy mô nguồn nhân lực không chỉ phụ thuộc vào số lượng dân cư sinh sống trên một vùng lãnh thổ hay đơn vị hành chính nhất định, mà còn phụ thuộc vào độ cơ động của nguồn lao động, được quy định bởi tình trạng phát triển của giao thông và mức độ linh hoạt của thị trường lao động. + Chất lượng nguồn nhân lực: Ngoài các tố chất về sức khoẻ, về phẩm chất và đạo đức (cần cù, siêng năng, yêu lao động, có trách nhiệm trước công việc, có kỹ luật trong lao động,...), chất lượng lao động còn thể hiện ở trình độ tay nghề, kỹ năng lao động và kiến thức (bao gồm cả kiến thức chuyên môn và kiến thức xã hội cần thiết khác). Vì vậy, đối với nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất để hình thành cơ cấu ngành kinh tế, đặc biệt là những ngành, lĩnh vực đòi hỏi lao động qua đào tạo, tay nghề cao như một số lĩnh vực dịch vụ gắn liền với công nghệ hiện đại, những lĩnh vực sản xuất công nghiệp cơ khí chế tạo, cơ khí chính xác, điện tử, hoá dược,... + Xu hướng nhân khẩu học: Xu hướng biến động nhân khẩu có ý nghĩa khá quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu của nền kinh tế. Tác nhân này biểu hiện cả ở hai khía cạnh: cung và cầu. Ở khía cạnh cung, xu hướng biến động dân số sẽ quyết định xu hướng biến động của quy mô lực lượng lao động xã hội. Còn -13- xu hướng biến động cầu sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường. Ở gốc độ cung, xu hướng biến động nhân khẩu có những vấn đề cần chú ý sau: ● Xu hướng lão hóa dân số đang diễn ra khá mạnh ở các quốc gia công nghiệp phát triển và đang lan sang các nước mới công nghiệp hóa. Đặc điểm này tác động mạnh đến cơ cấu ngành kinh tế của các nước đang phát triển, nhất là những nước đang công nghiệp hóa theo định hướng xuất khẩu trên các mặt: ◦ Điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế theo hướng thích ứng với sự thay đổi cơ cấu của những nước nhập khẩu, trước hết là những nước công nghiệp phát triển, đang có xu hướng dân số “lão hoá”. ◦ Đào tạo nguồn lao động theo cơ cấu ngành nghề nhất định nhằm trực tiếp xuất khẩu lao động sang các nước có nhu cầu nhập khẩu lao động, hầu hết là những nước đang thiếu lao động do nguyên nhân “lão hóa dân số”. ● Di cư quốc tế: là một trong những hiện tượng xã hội nổi bật của đời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Cùng với quá trình di chuyển vốn quốc tế, nguồn lao động cũng di chuyển ngày càng nhiều,… Một trong những điều đang lưu ý nhất của vấn đề di cư quốc tế đối với các nước đang phát triển hiện nay là hiện tượng “chảy máu chất xám”, trong đó một bộ phận lao động có trình độ và tay nghề cao di cư sang các nước công nghiệp phát triển để sinh sống đã khiến cho việc tạo dựng nhiều ngành công nghiệp hiện đại của các nước này gặp rất nhiều khó khăn. - Nguồn vốn: Nhân tố kinh tế quan trọng luôn ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một quốc gia là quy mô nguồn vốn đầu tư. Hầu như đối với tất cả các nước đang phát triển, nguồn vốn đầu tư luôn khó khăn đối với quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. -14- Ngày nay, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế với một trong những đặc trưng nổi bật nhất là toàn cầu hóa tài chính, dòng chảy vốn đầu tư tài chính mang tính chất toàn cầu đang gia tăng với tốc độ nhanh, quy mô lớn, đã góp phần quan trọng vào việc giảm bớt khó khăn về nguồn vốn đầu tư đối với các nước đang phát triển; nhưng xét một cách tổng quát, khát vốn vẫn là căn bệnh dai dẳng đối với những quốc gia đang mong muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì lẽ đó, việc xác định cơ cấu ngành kinh tế không thể không tính tới khả năng của nguồn vốn đầu tư có thể huy động được. Do hạn chế về quy mô và mức độ phân tán lớn, khuynh hướng thị trường của sự hình thành cơ cấu ngành kinh tế là số lượng các doanh nghiệp sẽ tập trung nhiều hơn ở những ngành cần ít vốn đầu tư, khả năng thu hồi vốn nhanh và công nghệ trình độ thấp. Điều đó được minh chứng bởi tỷ trọng cao của những lĩnh vực như thương mại bán lẻ quy mô nhỏ, các ngành công nghiệp dệt may, giày dép, đồ chơi, công nghiệp lắp ráp điện tử, sơ chế nông sản, cung cấp dịch vụ dân sinh thường nhật v.v..., trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa của nhiều nền kinh tế mới công nghiệp hóa. Sự tác động của toàn cầu hóa, khu vực hóa và tính chất, mức độ can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, trước hết qua chính sách đầu tư có một ý nghĩa rất to lớn đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Dòng vốn đầu tư từ nước ngoài có thể trở thành một trong những động lực mạnh, tạo ra “cú hích” lớn, thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của một nền kinh tế. Các dòng vốn nước ngoài có thể chảy theo các kênh đầu tư trực tiếp (FDI), hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), cho vay thương mại, kiều hối hoặc đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán. Vì thế, để có thể khơi thông dòng chảy vốn đầu tư từ bên ngoài, một mặt cần cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, và mặt khác không thể không xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán. Dòng vốn nước ngoài cùng với nguồn vốn trong nước chảy vào những lĩnh vực kinh doanh cụ thể nào lại một lần nữa phụ thuộc phần lớn vào các chính -15- sách kinh tế của nhà nước. Ngoài nguồn vốn từ ngân sách của nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực, các chính sách khuyến khích hoặc không khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực cũng góp phần đáng kể vào việc hướng dòng chảy của vốn vào những lĩnh vực, những ngành, sản phẩm khác nhau. - Yếu tố về khoa học - công nghệ Sự tiến bộ của khoa học - công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trước hết, nó làm thay đổi vị trí của các ngành trong nền kinh tế quốc dân; khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng làm thay đổi vai trò của các yếu tố hợp thành trong quá trình lao động; đòi hỏi có quan điểm và cách nhìn mới trong việc khai thác, sử dụng các yếu tố đó, nhất là tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phải được tính đến khi chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 1.2.3.2. Nhóm các nhân tố đầu ra của sản xuất (“yếu tố thị trường”) Nếu như nhóm các yếu tố đầu vào phản ánh sự tác động của các nguồn lực có thể huy động cho sản xuất và sự phân bổ của chúng vào những lĩnh vực kinh doanh khác nhau, thì nhóm các yếu tố đầu ra của sản phẩm quyết định xu hướng vận động của thị trường, nơi phát ra tín hiệu quan trọng bậc nhất dẫn dắt các luồng vốn đầu tư cũng như các nguồn lực sản xuất khác được quyết định phân bổ vào những lĩnh vực sản xuất nào và với quy mô bao nhiêu. Những nhân tố này bao gồm: dung lượng thị trường, thói quen tiêu dùng, mức độ sẵn có và các khả năng thay thế của các loại sản phẩm, giá cả và chất lượng hàng hóa và dịch vụ, các chính sách của nhà nước… - Dung lượng thị trường Thông thường, dung lượng thị trường (lượng cầu) được quyết định bởi quy mô dân số và mức thu nhập. Khi mức thu nhập của dân cư còn thấp, hầu hết -16- nguồn thu nhập chỉ được chi dùng cho những mặt hàng thiết yếu, trước hết là lương thực, thực phẩm. Đây là những loại hàng hóa được coi là có hệ số co giãn thấp, nghĩa là nhu cầu tiêu dùng chúng ít thay đổi so với sự thay đổi của mức thu nhập. Nhưng khi thu nhập của dân cư tăng lên, cơ cấu tiêu dùng của dân cư cũng bắt đầu có sự thay đổi theo hướng tỷ lệ chi tiêu cho mặt hàng tiêu dùng thiết yếu giảm đi tương đối, trong khi tỷ lệ chi tiêu cho những sản phẩm cao cấp hơn tăng lên. Những loại hàng hóa này được coi là có hệ số co giãn và cầu cao hơn. Chẳng hạn, theo quan sát của các nhà kinh tế, khi GDP/người đạt mức trên 1000 USD/năm, những nhu cầu mua sắm các phương tiện đắt tiền như xe hơi, phương tiện nghe nhìn, trang bị nội thất nhà ở, du lịch, ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn… bắt đầu xuất hiện, làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng mà trước đó tập trung cho những mặt hàng thiết yếu theo phương thức ăn no, mặc ấm. Rõ ràng, những dấu hiệu chuyển dịch cơ cấu cầu có khả năng thanh toán có tác động dẫn dắt hướng đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư và vì thế, tác động không nhỏ đến sự hình thành cơ cấu ngành kinh tế. - Thói quen tiêu dùng Cùng với quy mô thị trường, thói quen tiêu dùng là một nhân tố “đầu ra” rất có ý nghĩa mà các nhà kinh doanh thường rất quan tâm khi quyết định bỏ vốn đầu tư và lựa chọn sản phẩm để đưa ra thị trường. Tuy đây là những quyết định thuộc phạm vi quản lý vi mô, nhưng lại có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành cơ cấu sản phẩm (cơ cấu phân ngành) của nền kinh tế quốc dân. Tính ưa thích theo thói quen tiêu dùng một số loại sản phẩm nào đó đòi hỏi các nhà đầu tư phải nghiên cứu để tìm cách đáp ứng và vì thế tình trạng thỏa dụng của người tiêu dùng đã trở thành một trong những chỉ tiêu tác động vào sự hình thành cơ cấu ngành kinh tế. -17- 1.2.3.3. Các nhân tố về cơ chế chính sách Các chính sách kinh tế của nhà nước có tác động mạnh tới sự hình thành và phát triển của những phân ngành kinh tế nhất định. Sự khuyến khích hay không khuyến khích, thậm chí cấm ngặt đối với một số lĩnh vực nào đó sẽ có tác động làm gia tăng mức tăng trưởng hay kìm hãm, thậm chí loại bỏ một số lĩnh vực mặc dù tiềm năng cung và mức cầu của dân cư vẫn tồn tại. Thường thì đây là những lĩnh vực có thể đem lại lợi nhuận xét về mặt kinh tế, nhưng việc có cho phép phát triển hay không lại phụ thuộc vào các quan điểm chính trị, văn hóa và xã hội, ví dụ như kinh doanh casino, các hoạt động quán bar, vũ trường,.... Cơ chế chính sách thực sự có tác động rất mạnh đến xu hướng vận động tổng quát của sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng lãnh thổ của nền kinh tế. Chẳng hạn, trong một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xu hướng hình thành cơ cấu kinh tế tổng quát của Việt Nam và nhiều nước Xã hội chủ nghĩa thời kỳ đó là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Ở dạng cực đoan hơn là những chiến dịch như kiểu “nhà nhà làm gang thép” của Trung Quốc hồi thập kỷ 60 - 70. Từ sự chỉ đạo này, phần lớn nhất nguồn lực quốc gia của Việt Nam trong một thời kỳ dài cũng đã được giành cho phát triển lĩnh vực công nghiệp nặng. Vì nhiều lý do, chương trình này đã không đem lại hiệu quả như mong đợi. Một chủ trương khác được thay thế vào đầu những năm 1980 là “3 chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Cơ cấu kinh tế nhờ đó mà có sự điều chỉnh nhất định do các nguồn lực được phân bổ lại theo hướng ưu tiêu hơn cho những chương trình kinh tế này. Tình hình cũng diễn ra tương tự như vậy đối với các thành phần kinh tế, khi mà đường lối đổi mới với chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế được khẳng định, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đã có điều kiện phát triển lên. -18- Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu tác động của nhiều nhân tố. Trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và tiến bộ khoa học - công nghệ diễn ra nhanh chóng, bản thân những nhân tố tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng không ngừng biến đổi và hàm chứa những nội dung kinh tế không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, khi đánh giá mức độ tác động của từng nhân tố cũng như tổng hợp các nhân tố đó, cần phải nhìn nhận chúng như những quá trình “động” để xem xét xu hướng tác động dài hạn lên quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Nhưng dù có tiếp cận vấn đề như thế nào đi nữa thì trong một nền kinh tế thị trường, tập hợp các nhân tố đầu vào (nguồn lực sản xuất), đầu ra (điệu kiện thị trường) và cơ chế chính sách (chủ yếu là sự tác động của nhà nước) vẫn là những tác nhân quan trọng nhất đối với xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 1.2.4. Yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình biến đổi các quan hệ tương tác trong hệ thống theo những định hướng và mục tiêu xác định, nghĩa là đưa hệ thống đó từ trạng thái nhất định tới một trạng thái phát triển tối ưu để đạt hiệu quả mong muốn. Về thực chất đây là việc chuyển biến nền kinh tế từ thấp đến cao. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được xem là hiệu quả phải thoả mãn các yêu cầu sau: - Phản ánh đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế. - Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế phải bảo đảm vừa tăng trưởng và phát triển, vừa giải quyết tốt các vấn đề xã hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và phát triển con người toàn diện. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm phát huy một cách tối ưu những tiềm năng, lợi thế làm nội dung và mục tiêu xuyên suốt. Các ngành có hiệu quả kinh tế, có lợi thế so sánh phải tăng nhanh. -19- - Phù hợp với xu thế kinh tế - chính trị của khu vực và thế giới. 1.2.5. Các tiêu chí phản ánh mức độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Để đo lường mức độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cần phải có hệ thống chỉ tiêu để đánh giá cả hai phương diện định lượng và định tính. 1.2.5.1. Các tiêu chí định lượng Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế những tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô bao gồm: - Cơ cấu GDP Kinh tế hiện đại đã sử dụng chỉ tiêu cơ cấu GDP như một trong những thước đo khái quát, phổ biến nhất để đo lường, đánh giá về tốc độ tăng trưởng, trạng thái và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tỷ trọng của các ngành cấp I (khu vực nông - lâm - thủy sản, công nghiệpxây dựng và thương mại - dịch vụ) trong GDP là một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Trong quá trình công nghiệp hoá, mối tương quan này có xu hướng chung là khu vực nông nghiệp có tỷ lệ ngày càng giảm, còn khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp và dịch vụ) ngày càng tăng lên. Và trong điều kiện khoa học công nghệ hiện đại, khu vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó là công nghiệp và cuối cùng là nông nghiệp. Ở góc độ cơ cấu ngành kinh tế, một chỉ số khác cũng thường được sử dụng là GNP. Tuy nhiên, đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển thì cơ cấu GDP thường được sử dụng hơn vì nhìn chung quy mô GDP ở đây thường lớn hơn GNP (do phần FDI ở đây thường lớn hơn đầu tư của họ ra nước ngoài) và điều quan trọng hơn là quy mô GDP phản ảnh rõ hơn những khía cạnh khác nhau của môi trường kinh doanh và đặc biệt là cùng với cơ cấu GDP thì cơ cấu lao động của nền kinh tế cũng được phản ánh rõ ràng hơn. -20- Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thì cơ cấu phân ngành kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất lượng và mức độ hiện đại hoá của nền kinh tế. Ví dụ, trong khu vực công nghiệp, những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn lớn hay công nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, điện tử, dược phẩm,... chiếm tỷ trọng cao chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cao hơn so với những lĩnh vực công nghiệp khai khoáng, sơ chế nông sản, công nghiệp lắp ráp,... Trong khu vực dịch vụ, những lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, gắn với công nghệ cao như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn, viễn thông, hàng không,... chiếm tỷ lệ cao sẽ rất khác với những lĩnh vực dịch vụ phục vụ sinh hoạt dân cư với công nghệ thủ công hoặc trình độ thấp, quy mô nhỏ lẻ. - Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế Trong quá trình phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn được đánh giá qua một chỉ tiêu rất quan trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế được phân bố như thế nào vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Các nhà kinh tế học đánh giá rất cao cơ cấu lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế, vì ở góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao động mới là chỉ tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế - xã hội của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế sở dĩ được các nhà kinh tế học đánh giá cao và coi trọng là do chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực hơn mức độ chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất nước, mà nó còn ít bị ảnh hưởng bởi các tác động ngoại lai hơn. Ở một số nền kinh tế, trong khi tỷ trọng lao động phi nông nghiệp (nhất là khu vực sản xuất công nghiệp) còn chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng cơ cấu GDP lại chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều. Lý giải cho hiện tượng này, các nhà kinh tế học đã chỉ ra tình trạng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan