BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHẠM THỊ PHƯƠNG DUNG
GIẢI PHÁP MARKETING DỊCH VỤ THẺ THANH TOÁN
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Đà Nẵng – Năm 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHẠM THỊ PHƯƠNG DUNG
GIẢI PHÁP MARKETING DỊCH VỤ THẺ THANH TOÁN
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.34.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN XUÂN LÃN
Đà Nẵng – Năm 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả
Phạm Thị Phương Dung
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATM
BIDV
CSCNT/ ĐVCNT
EDC
EFTPOS
NHNN
NHPHT
NHTM
NHTTT
POS
Automatic Tranfer Machine
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Cơ sở / Đơn vị chấp nhận thẻ
Electronic Data Capture
Electronic funds transfer at point of sale
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng phát hành thẻ
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thanh toán thẻ
Point of Sale
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, MÔ HÌNH, SƠ ĐỒ
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thẻ thanh toán hiện nay đã trở thành công cụ thanh toán hiện đại, văn minh
và phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Với tính linh hoạt và tiện ích mà nó đem lại cho
mọi chủ thể liên quan, thẻ ngân hàng ra đời đã làm thay đổi cách thức chi tiêu, giao
dịch thanh toán của cộng đồng xã hội, thẻ ngân hàng đã và đang thu hút được sự
quan tâm của cộng đồng và ngày càng khẳng định vị trí của nó trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng. Vì vậy phát triển thẻ thanh toán là tất yếu khách quan của xu thế
liên kết toàn cầu; thực hiện đa dạng hóa dịch vụ và hiện đại hóa công nghệ ngân
hàng đối với các ngân hàng trong tiến trình hội nhập vào khu vực và thế giới, trong
đó có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Đà Nẵng. Đứng trước
tình hình đó, việc nghiên cứu để đưa ra các giải pháp marketing, nhằm tạo được một
thương hiệu thẻ nổi tiếng với bản sắc riêng, thu hút được sự quan tâm của khách
hàng và nhằm đem đến một thẻ có giá trị lợi ích tốt nhất cho khách hàng, gia tăng số
lượng cũng như phạm vi thanh toán của thẻ. Do đó tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Giải pháp Marketing dich vụ thẻ thanh toán tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát
Triển Việt Nam chi nhánh Đà Nẵng”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thẻ thanh toán, một công cụ thanh toán
gắn liền với sản phẩm công nghệ.
Nghiên cứu các số liệu để hiểu rõ về tình hình kinh doanh thẻ của BIDV Đà
Nẵng để có cái nhìn tổng quát và định hướng cho hoạt động thẻ thanh toán tại chi
nhánh.
Dựa vào đó đề xuất các giải pháp marketing khả thi nhằm phát triển dịch vụ
thẻ thanh toán tại BIDV Đà Nẵng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hoạt động marketing dịch vụ thẻ thanh toán tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh thành phố Đà Nẵng.
2
Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng của hoạt động dịch vụ
thanh toán thẻ tại chi nhánh BIDV Đà Nẵng từ lúc hệ thống BIDV triển khai dịch
vụ thẻ cho đến thời điểm năm 2011, trên cơ sở tình hình thực tế đã phân tích từ đó
đưa ra các nhóm giải pháp marketing cho dịch vụ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích số liệu tình hình thực tế của nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ
tại BIDV Đà Nẵng.
Trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được trong hoạt động kinh doanh thẻ tại chi
nhánh, từ đó học hỏi và vận dụng linh hoạt một số biện pháp và chiến lược
Marketing của thị trường thẻ một số nước trên thế giới vào tình hình chiến lược phát
triển thẻ thực tế tại chi nhánh.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Cở sở lý luận về marketing dịch vụ
Chương 2: Thực trạng hoạt động markeitng dịch vụ thẻ thanh toán tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Đà Nẵng
Chương 3: Giải pháp marketing dịch vụ thẻ thanh toán tại chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Đà Nẵng
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING DỊCH VỤ
1.1 TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ VÀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm dịch vụ
1.1.1.1 Khái niệm dịch vụ
Dịch vụ là một khái niệm phổ biến nên có rất nhiều cách định nghĩa về dịch
vụ. Theo Zeithaml & Britner (2000), “Dịch vụ là những hành vi, quá trình, cách
thức thực hiện một công việc nào đó nhằm tạo giá trị sử dụng cho khách hàng làm
thỏa mãn nhu cầu và mong đợi của khách hàng” [5].
Theo Kotler & Armstrong (2004), dịch vụ là những hoạt động hay lợi ích mà
doanh nghiệp có thể cống hiến cho khách hàng nhằm thiết lập, củng cố và mở rộng
những quan hệ và hợp tác lâu dài với khách hàng.
1.1.1.2 Đặc điểm của dịch vụ
Dịch vụ là một sản phẩm đặc biệt, có nhiều đặc tính khác với các loại hàng
hoá khác như tính vô hình, tính không đồng nhất, tính không thể tách rời và tính
không thể cất trữ. Chính những đặc điểm này làm cho dịch vụ trở nên khó định
lượng và không thể nhận dạng bằng mắt thường được.
a. Tính vô hình:
Không giống như những sản phẩm vật chất, dịch vụ không thể nhìn thấy được,
không nếm được, không nghe thấy được hay không ngửi thấy được truớc khi người ta
mua chúng. Để giảm bớt mức độ không chắc chắn, người mua sẽ tìm kiếm các dấu
hiệu hay bằng chứng về chất lượng dịch vụ. Họ sẽ suy diễn về chất lượng dịch vụ từ
địa điểm, con người, trang thiết bị, tài liệu, thông tin, biểu tượng và giá cả mà họ
4
thấy. “Với lý do là vô hình nên công ty cảm thấy khó khăn trong việc nhận thức như
thế nào về dịch vụ và đánh giá chất lượng dịch vụ” (Robinson, 1999) [5].
b. Tính không đồng nhất:
Đặc tính này còn gọi là tính khác biệt của dịch vụ. Theo đó, việc thực hiện
dịch vụ thường khác nhau tùy thuộc vào cách thức phục vụ, nhà cung cấp dịch vụ,
người phục vụ, thời gian thực hiện, lĩnh vực phục vụ, đối tượng phục vụ và địa
điểm phục vụ. Đặc tính này thể hiện rõ nhất đối với các dịch vụ bao hàm sức lao
động cao.
Việc đòi hỏi chất lượng đồng nhất từ đội ngũ nhân viên sẽ rất khó đảm bảo
(Caruana & Pitt, 1997). Lý do là những gì công ty dự định phục vụ thì có thể hoàn
toàn khác với những gì mà người tiêu dùng nhận được.
c. Tính không thể tách rời:
Tính không tách rời của dịch vụ thể hiện ở việc khó phân chia dịch vụ thành
hai giai đoạn rạch ròi là giai đoạn sản xuất và giai đoạn sử dụng. Dịch vụ thường
được tạo ra và sử dụng đồng thời. Điều này không đúng đối với hàng hoá vật chất
được sản xuất ra nhập kho, phân phối thông qua nhiều nấc trung gian mua bán, rồi
sau đó mới được tiêu dùng. Đối với sản phẩm hàng hoá, khách hàng chỉ sử dụng sản
phẩm ở giai đoạn cuối cùng, còn đối với dịch vụ, khách hàng đồng hành trong suốt
hoặc một phần của quá trình tạo ra dịch vụ. [4]
Đối với những dịch vụ có hàm lượng lao động cao, ví dụ như chất lượng xảy
ra trong quá trình chuyển giao dịch vụ thì chất lượng dịch vụ thể hiện trong quá
trình tương tác giữa khách hàng và nhân viên của công ty cung cấp dịch vụ
(Svensson, 2002). Đối với những dịch vụ đòi hỏi phải có sự tham gia ý kiến của
người tiêu dùng như dịch vụ hớt tóc, khám chữa bệnh thì công ty dịch vụ ít thực
hiện việc kiểm soát, quản lý về chất lượng vì người tiêu dùng ảnh hưởng đến quá
trình này.
Trong những trường hợp như vậy, ý kiến của khách hàng như mô tả kiểu tóc
của mình muốn hoặc bệnh nhân mô tả các triệu chứng cho các bác sĩ, sự tham gia ý
kiến của khách hàng trở nên quan trọng đối với chất lượng của hoạt động dịch vụ.
5
d. Tính không lưu giữ được:
Dịch vụ không thể cất giữ, lưu kho rồi đem bán như hàng hoá khác. Tính
không lưu giữ được của dịch vụ sẽ không thành vấn đề khi mà nhu cầu ổn định. Khi
nhu cầu thay đổi, các công ty dịch vụ sẽ gặp khó khăn. Ví dụ như các công ty vận
tải công cộng phải có nhiều phương tiện hơn gấp bội so với số lượng cần thiết theo
nhu cầu bình thường trong suốt cả ngày để đảm bảo phục vụ cho nhu cầu vào những
giờ cao điểm. Chính vì vậy, dịch vụ là sản phẩm được sử dụng khi tạo thành và kết
thúc ngay sau đó.
e. Quyền sở hữu:
Khi mua một hàng hóa, khách hàng được chuyển quyền sở hữu và trở thành
chủ sở hữu hàng hóa mình đã mua. Khi mua một dịch vụ, khách hàng chỉ được
quyền sử dụng dịch vụ, được hưởng lợi ích mà dịch vụ mang lại trong thời gian nhất
định. Đặc tính này ảnh hưởng đến chính sách phân phối trong marketing dịch vụ,
trong đó người bán buôn, bán lẻ cũng không được chuyển quyền sở hữu. Họ đơn
giản chỉ tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ.
1.1.2 Dịch vụ thẻ thanh toán của ngân hàng và đặc điểm của Marketing dịch vụ
1.1.2.1 Khái niệm dịch vụ ngân hàng
Bản thân ngân hàng là một dạng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tiền tệ,
thu phí của khách hàng, được xét thuộc nhóm ngành dịch vụ. Hoạt động ngân hàng
không trực tiếp tạo ra sản phẩm cụ thể, nhưng với việc đáp ứng các nhu cầu của
dịch vụ về tiền tệ, về vốn, về thanh toán… cho khách hàng, ngân hàng đã gián tiếp
tạo ra các sản phẩm dịch vụ trong nền kinh tế.
“Dịch vụ ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về vốn, tiền tệ,
thanh toán,… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đáp ứng nhu cầu kinh doanh,
sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản,… và ngân hàng thu chênh lệch lãi suất,
tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy” [4]. Trong xu hướng phát triển ngân hàng
tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ,
một bách hoá tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ
theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ phát triển của ngân hàng.
6
Ở nước ta, đến nay chưa có sự minh định rõ ràng về khái niệm dịch vụ ngân
hàng. Có quan niệm cho rằng: dịch vụ ngân hàng không thuộc phạm vi kinh doanh
tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ theo chức năng của một trung gian tài chính (cho
vay, huy động tiền gửi.. ..) chỉ những hoạt động không thuộc nội dung nói trên mới
gọi là dịch vụ ngân hàng. Một số khác cho rằng tất cả hoạt động ngân hàng phục vụ
cho doanh nghiệp và công chúng là dịch vụ ngân hàng.
Một số ý kiến cho rằng, các hoạt động sinh lời của ngân hàng thương
mại ngoài hoạt động cho vay thì được gọi là hoạt động dịch vụ. Quan điểm
này phân định rõ hoạt động tín dụng, một hoạt động truyền thống và chủ yếu
trong thời gian qua của các NHTM Việt Nam, với hoạt động dịch vụ, một hoạt
động mới bắt đầu phát triển ở nước ta. Sự phân định như vậy trong xu thế hội
nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính hiện nay cho phép ngân hàng
thực thi chiến lược tập trung đa dạng hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả của
các hoạt động phi tín dụng.
Còn quan điểm thứ hai thì cho rằng, tất cả các hoạt động nghiệp vụ của một
ngân hàng thương mại đều được coi là hoạt động dịch vụ. Ngân hàng là một loại
hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Quan niệm
này phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với cách phân loại các phân ngành dịch
vụ trong dự thảo Hiệp định WTO mà Việt Nam cam kết, đàm phán trong quá tình
gia nhập, phù hợp với nội dung Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Trong phân tổ các
ngành kinh tế của Tổng cục Thống kê Việt Nam, Ngân hàng là ngành được phân tổ
trong lĩnh vực dịch vụ.
1.1.2.2 Dịch vụ thẻ thanh toán của ngân hàng
Hiện nay trong ngân hàng đang tồn tại hai dịch vụ ngân hàng đó là: dịch vụ
ngân hàng truyền thống và dịch vụ ngân hàng hiện đại
- Dịch vụ ngân hàng truyền thống: Dịch vụ huy động vốn,Dịch vụ chiết khấu
thương phiếu và chứng từ có giá, Dịch vụ cho vay, Dịch vụ thanh toán, Dịch vụ trao
đổi ngoại tệ, Dịch vụ ủy thác
7
- Dịch vụ ngân hàng hiện đại: Dịch vụ thẻ ngân hàng, Dịch vụ quản lý tiền
mặt (ngân quỹ), Dịch vụ thanh toán tiền điện tử, Dịch vụ ngân hàng tại nhà, Dịch vụ
bảo quản và ký gửi, Dịch vụ cho thuê tài chính, Dịch vụ thư bảo đảm thực hiện đấu
thầu, Dịch vụ tư vấn tài chính, Dịch vụ hợp đồng trao đổi tín dụng (Credit Swap),
Hợp đồng quyền tín dụng (Credit Option), Hợp đồng trao đổi các khoản tín dụng rủi
ro, Trái phiếu ràng buộc.
Ngoài ra, còn có một số dịch vụ ngân hàng mới ngày càng được áp dụng
rộng rãi tại các NHTM như: cung cấp dịch vụ hưu trí, dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán, dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp, bán các dịch vụ bảo hiểm, home
banking, phone banking, electronic banking, internet banking…
a. Khái niệm thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt mà các
chủ thẻ có thể rút tiền mặt tại các ngân hàng, cơ sở chấp nhận thẻ, máy rút tiền tự
động hoặc thanh toán tiền hàng hóa và dịch vụ tại các điểm chấp nhận thẻ.
Theo qui định Ngân hàng nhà nước ( quy chế phát hành, sử dụng và thanh
toán thẻ ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN ngày
19.08.1999) thẻ ngân hàng được hiểu là “ Công cụ thanh toán do ngân hàng phát
hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng theo hợp đồng kí kết giữa ngân hàng phát
hành và chủ thẻ” [13]
Như vậy thẻ thanh toán cũng là một phương tiện thanh toán không dùng tiền
mặt hiện đại hơn các phương tiện thanh toán khác được áp dụng ngày càng nhiều ở
các quốc gia khác nhau trên thế giới.
b. Lợi ích của việc sử dụng thẻ thanh toán
Trước khi đi sâu vào những vấn đề về nghiệp vụ phát hành thẻ, thì ta tìm
hiểu những tiện ích mà thẻ thanh toán đem lại cho các chủ thể tham gia.
Đối với chủ thẻ
8
Sự linh hoạt, tiện lợi, an toàn trong thanh toán ở trong và ngoài nước: tiện ích
nổi bật cho người sử dụng thẻ là tiện ích và tính linh hoạt hơn hẳn các phương tiện
thanh toán khác. Chủ thẻ có thể cảm nhận thực sự từ điều này khi đi du lịch hay
công tác xa ở nước ngoài, thay vì phải chuẩn bị trước một lượng tiền mặt, ngoại tệ
hay séc du lịch, chủ thẻ có thể mang theo thẻ ngân hàng để rút tiền mặt 24/24h, 7
ngày/ tuần để thanh toán cho nhu cầu chi tiêu của mình. Sử dụng thẻ thanh toán
cũng an toàn hơn, khi thẻ bị mất thì người cầm thẻ cũng khó sử dụng được. Trong
một số trường hợp, trong quá trình sử dụng thẻ, nếu hàng đã mua không đủ tiêu
chuẩn chất lượng thì chủ thẻ có thẻ có quyền yêu cầu được ngân hàng phát hành bảo
về, thậm chí được bồi thường.
Tiết kiệm thời gian: thẻ ngân hàng giúp chủ thẻ tiết kiệm thời gian trong quá
trình mua hàng vì nó tránh được khâu kiểm đếm khi thanh toán số tiền lớn. Hơn nữa
nếu dùng séc để đi du lịch thì khách hàng phải đến ngân hàng làm thủ tục mua séc,
đồng thời trả cho ngân hàng một khoản phí mặc dù thực tế khách hàng chưa sử
dụng séc này. Khi trở về, nếu không sử dụng hết số tiền trên séc, khách hàng lại
phải đến ngân hàng làm thủ tục đổi séc ra tiền mặt hoặc phải chấp nhận rủi ro nếu
giữ séc lại cho lần sau. Rõ ràng, người sử dụng thẻ không những tiết kiệm thời gian
thanh toán mà còn không mất thời gian giao dịch tại ngân hàng.
Được cấp tín dụng tự động tức thời khi khách hàng sử dụng thẻ tuần hoàn:
thường thì khách hàng có tâm lí ngại đến ngân hàng làm thủ tục xin vay, và do đó
họ sẽ đánh giá cao thẻ như một khoản tín dụng ngắn hạn, thủ tục phát hành đơn
giản. Hơn nửa chủ thẻ chỉ phải thanh toán một phần nhỏ khi đến hạn thanh toán
( thường là 1 tháng) số còn lại chủ thẻ có thể chỉ phải trả sau với lãi suất tín dụng
hiện hành.
Đối với cơ sở chấp nhận thẻ:
Tăng hiệu quả kinh doanh:
9
- Giúp cho CSCNT nhanh thu hồi vốn. Trường hợp khách hàng muốn thanh
toán bằng séc cho một món hàng có giá trị lớn giá trị bảo đảm của séc thì khách
hàng đứng trước sự lựa chọn khó khăn, hoặc là chấp nhận thanh toán séc với số tiền
lớn hơn với hạn mức bảo đảm và phải chịu rủi ro nếu ngân hàng phát hành từ chối
thanh toán hoặc không bán được hàng, doanh số bán sẽ giảm. Với thẻ thanh toán
CSCNT có thể yên tâm là sẽ được ghi có vào tài khoản ngay khi dữ liệu thẻ được
truyền đến ngân hàng hoặc CSCNT nộp hóa đơn thanh toán cho ngân hàng. Số tiền
này họ có thể sử dụng ngay vào việc kinh doanh.
- Tăng doanh số bán hàng, dịch vụ và thu hút thêm khách hàng.
An toàn, bảo đảm: giao dịch thẻ được trả tiền ngay vào tài khoản của
CSCNT, một số trường hợp chưa được thanh toán ngay thì thanh toán thẻ cũng ít có
nguy cơ bị mất cắp hơn là séc hay tiền mặt. Một ngăn kéo đầy séc hay tiền mặt có
giá trị lớn sẽ là mục tiêu của những nhân viên thiếu trung thực và kẻ trộm, nhưng
với một số tiền như vậy được thể hiện trên hóa đơn thẻ thì có ít người quan tâm vì
nó không có ý nghĩa với ai khác ngoài CSCNT. Ngoài ra nó cũng giúp tránh được
những trường hợp khách hàng dùng tiền giả để thanh toán.
Rút ngắn thời gian giao dịch với khách hàng: khi thu tiền mặt, việc đếm tiền,
ghi chép sổ sách rất phức tạp. Còn giao dịch thẻ với các thủ tục chuyển ngân điện tử
tại các địa điểm bán hàng EFTPOS (Electronic funds transfer at point of sale) được
sử dụng ngày càng nhiều thì đơn giản, người ta chỉ việc đưa băng từ của thẻ qua thiết
bị này, mọi thông tin trên thẻ được nhận dạng, giao dịch thẻ được thực hiện. Hệ thống
EFTPOS giúp đấy nhanh quá trình khi sử lí bán hàng, giúp cho CSCNT cung cấp cho
NHPH giao dịch bán hàng mà không qua thủ tục xử lý thủ công qua giấy tờ.
Đối với ngân hàng:
Tăng lợi nhuận ngân hàng: lợi ích lớn nhất mà thẻ thanh toán đem cho ngân
hàng và thanh toán thẻ là lợi nhuận. Thu nhập từ thẻ mà ngân hàng có được là từ phí
CSCNT, phí thanh toán thẻ, phí phát hành, phí thường niên, lãi suất cho khoản tín
10
dụng mà chủ thẻ chậm thanh toán…đó là chưa kể các khoản thu từ dịch vụ ngân
hàng và đầu từ kèm theo. Một yếu tố nửa có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng
đó là lòng trung thành của khách hàng. Một khi khách hàng có tài khoản hoặc thẻ
tại ngân hàng thì hiếm khi họ muốn chuyển qua một tổ chức khác. Với tâm lí này
của khách hàng, ngân hàng có thể tăng lãi suất tương đối cho khoản tín dụng để
thanh toán thẻ để tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng mà không sợ mất khách hàng
hàng loạt. Ngoài ra, kinh doanh thẻ còn tạo ra sự “hổ trợ chéo” rất có hiệu quả cho
ngân hàng. Tỷ lệ lợi nhuận tương đối cao từ kinh doanh thẻ có thế bù đắp cho
những hoạt động kém sinh lời hơn của ngân hàng như kinh doanh trên tài khoản
vãng lai thường có lãi suất thấp.
Tham gia chuỗi dịch vụ toàn cầu: là thành viên của một tổ chức thẻ quốc tế
như Visa hay MasterCard, một ngân hàng dù là nhỏ nhất trên thế giới cũng có thể
cung cấp cho khách hàng một phương tiện thanh toán quốc tế có chất lượng như bất
kì một đối thủ cạnh tranh nào. Nhờ mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế, ngân
hàng này chỉ có thế thực hiện duy nhất một giao dịch thông qua tổ chức thẻ quốc tế
Visa để trả nợ cho các khoản này, việc phân bổ tới các ngân hàng có liên quan sẽ do
Visa thực hiện. Sau lợi nhuận, khả năng cung cấp dịch vụ toàn cầu là lợi ích lớn
nhất cho ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia các quá trình toàn cầu
hóa, hội nhập với cộng đồng quốc tế.
Thúc đẩy đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng: thẻ ra đời làm phong phú thêm các
dịch vụ ngân hàng, mang đến cho ngân hàng một phương tiện thanh toán đa tiện
ích, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Không chỉ có vậy, ngân hàng còn có
cơ hội phát triển các dịch vụ khác như giao dịch ngân hàng qua Internet, qua điện
thoại đầu tư…
Góp phần hiện đại hóa ngân hàng: đưa thêm một phương thức thanh toán
mới phục vụ khách hàng, buộc ngân hàng phải không ngừng nâng cao trình độ cán
bộ công nhân viên, đầu tư thêm trang thiết bị kỉ thuật công nghệ để cung cấp cho
11
khách hàng những điều kiện tốt nhất trong thanh toán, bảo đảm uy tín, sự an toàn,
hiệu quả trong kinh doanh thẻ.
Tăng nguồn vốn cho ngân hàng: nhờ thẻ mà số lượng tiền gửi của khách
hàng để thanh toán thẻ và số lượng tài khoản của các CSCNT cũng tăng lên. Các tài
khoản này sẽ tạo cho ngân hàng một số lượng vốn đáng kể. Ngân hàng có thể phục
vụ cho các mục đích kinh doanh khác nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Đối với nền kinh tế:
Nhờ những thành tựu rực rở trong lĩnh vực công nghệ thông tin gần đấy mà
lợi ích sử dụng thẻ của ngân hàng ngày càng phong phú. Thẻ bắt đầu thể hiện vai
trò to lớn của mình trong sự phát triển kinh tế xã hội. Điều này được thể hiện qua
các mặt sau:
Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông: là một phương tiện thanh toán
thay thế tiền mặt, séc…vai trò đầu tiên của thẻ là làm giảm khối lượng tiền mặt
trong lưu thông. Ở những nước phát triển, thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số các phương tiện thanh toán, nhờ vậy mà khối lượng cũng
như áp lực tiền mặt trong lưu thông cũng giảm đáng kể.
Góp phần minh bạch tài chính, hổ trợ quản lý vĩ mô của nhà nước: trong
thanh toán thẻ, các giao dịch đều thực hiện qua ngân hàng. Nhờ đó có thể giảm
thiểu những tác động tiêu cực của các hoạt động kinh tế ngầm, tăng cường vai trò
chủ đạo của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế và điều hành các chính sách
tài chính quốc gia.
Tăng nhanh khối lượng chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế: hầu hết
mọi giao dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện trực
tuyến ( on-line) vì vậy tốc độ chu chuyển, thanh toán nhanh hơn nhiều so với
những giao dịch qua các phương tiện thanh toán khác như séc, ủy nhiệm thu, ủy
nhiệm chi.
12
Thực hiện biện pháp kích cầu : sự tiện lợi mà thẻ mang lại cho người sử
dụng, CSCNT và ngân hàng khiến cho ngày càng có nhiều người ưa chuộng sử
dụng thẻ, tăng cường chi tiêu bằng thẻ, tạo lập một xu hướng tiêu dùng mới “
tiêu dùng trước, trả tiền sau” làm tăng cầu tiêu dùng. Nghĩa là thẻ đã trở thành
một công cụ hữu ích góp phần thực hiện biện pháp “ kích cầu” của nhà nước.
Điều này cũng tạo nên một kênh cung ứng vốn hiệu quả của các ngân hàng
thương mại.
Hình thành môi trường thương mại văn minh: thanh toán bằng thẻ là giảm
bớt các giao dịch thủ công, tiếp cận với một phương tiện thanh toán hiện đại của thế
giới. Dó đó sẽ tạo ra một môi trường thương mại văn mình hơn. Đây cũng là một
yếu tố thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
1.1.2.3 Đặc điểm Marketing dịch vụ
Người ta không thể đơn thuần chuyển các kĩ năng marketing được phát triển
trong lĩnh vực sản xuất sang các tổ chức cung ứng dịch vụ vì những nhiệm vụ quản
trị marketing trong lĩnh vực dịch vụ có một số khác biệt quan trọng với những
nhiệm vụ này trong lĩnh vực sản xuất. Mọi sản phẩm - được hiểu là đầu ra của bất kì
nghành công nghiệp nào - được chuyển giao để cung cấp lợi ích cho khách hàng –
người mua và sử dụng chúng. Hàng hoá có thể mô tả như những vật thể hữu hình
hoặc các dịch vụ là các hành động hoặc sự thực hiện. Giữa dịch vụ và hàng hoá có
những khác biệt rõ ràng có ảnh hưởng đến việc hoạt động quản lý và marketing các
dịch vụ [3]. Những khác biệt cơ bản giữa dịch vụ và hàng hoá:
a. Khách hàng không sở hữu dịch vụ
Đây có lẽ là điểm khác biệt chủ yếu giữa hàng hoá và dịch vụ xuất phát từ
việc khách hàng thường nhận được giá trị từ các dịch vụ mà không có được quyền
sở hữu bất kì yếu tố hữu hình đáng kể nào. Để mua và tiêu dùng dịch vụ, mặc dù sự
quan tâm chính của người mua là kết quả cuối cùng thì cách thức họ được đối xử
trong quá trình chuyển giao dịch vụ cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự hài
lòng của chính mình.
b. Sản phẩm dịch vụ là sự thực hiện có tính vô hình
Lợi ích của việc sở hữu và sử dụng một sản phẩm công nghiệp đến từ những
đặc tính hữu hình của nó cho dù hình ảnh thương hiệu cũng có thể truyền đạt lợi
13
ích. Trong dịch vụ, lợi ích xuất phát từ bản chất của việc thực hiện. Ví dụ làm
marketing cho sự thực hiện của một chiếc xe hơi cho thuê lại rất khác so với nổ lực
marketing cho riêng vật thể hữu hình. Trong dịch vụ cho thuê xe hơi, khách hàng
thường thay vì quan tâm đến màu sắc, kiểu dáng …của chiếc xe thì quan tâm nhiều
hơn đến giá cả, địa điểm giao nhận xe, bảo hiểm, dịch vụ vệ sinh và bảo dưỡng xe,
dịch vụ đặt thuê 24/24…
c. Khách hàng tham gia trong quá trình sản xuất
Thực hiện một dịch vụ bao gồm việc tập hợp và chuyển giao kết quả của một
sự kết hợp những tiện ích hữu hình và sức lao động hoặc tri thức của người lao
động. Thông thường khách hàng tham gia tích cực trong việc giúp tạo ra sản phẩm
dịch vụ có thể thông qua việc tự phục vụ (như sử dụng máy ATM) hoặc hợp tác với
những nhân viên phục vụ trong việc hình thành dịch vụ như trong khách sạn, bệnh
viện hoặc trường học…
d. Con người là một phần của sản phẩm
Trong các dịch vụ có mức độ giao tiếp cao, khách hàng không chỉ đến để
giao tiếp với nhân viên phục vụ mà họ còn có thể tác động đến những khách hàng
khác. Sự khác biệt chủ yếu giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ thường là chất lượng
của nhân viên phục vụ khách hàng [2]. Do đó, quản lý sự tiếp xúc giữa khách hàng
và nhân viên phục vụ là một nhiệm vụ đầy thách thức đối với các nhà lãnh đạo của
các tổ chức cung ứng dịch vụ.
e. Chất lượng không ổn định
Đối với lĩnh vực dịch vụ, khi khách hàng tiêu dùng dịch vụ thì cũng là khi
chúng được sản xuất – nghĩa là chúng xảy ra đồng thời nên chúng có thể khác nhau
giữa những khách hàng khác nhau thậm chí khác nhau theo thời gian và địa điểm
chúng được tiêu dùng. Do đó, việc loại trừ các sai sót và lỗi của các dịch vụ trở nên
dễ xảy ra, khó kiểm soát hơn đối với nhà quản trị.
f. Khách hàng khó đánh giá dịch vụ
Đối với hầu hết các hàng hoá hữu hình, khách hàng thường khá dễ dàng
trong việc tìm kiếm các thuộc tính của sản phẩm để xem xét và ra quyết định mua
- Xem thêm -