Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh bến tre...

Tài liệu Giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh bến tre

.DOCX
85
100
121

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH VĂN TRUNG GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẾN TRE LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH VĂN TRUNG GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẾN TRE Chuyên ngành: Luật Hiến pháp vàLuật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN THUẬN HÀ NỘI - 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC............................................... 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm tố cáo thuộc phạm vi giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước.................................................................................................. 7 1.2. Giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước......................... 11 1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước........................................................................................ 28 Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE 34 2.1. Tình hình tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre( thời gian năm 2012 đến tháng 2016)................33 2.2. Tổ chức và hoạt động giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre........................................................................ 37 2.3. Đánh giá việc thực hiện pháp luật về tố cáo và kết quả giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre................. 47 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẾN TRE................................................... 59 3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Bến Tre................................................... 59 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo của cá cơ quan hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay....................................... 62 KẾT LUẬN..................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 76 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 : Thống kế số liệu tiếp nhận đơn tố cáo từ năm 2012 đến năm 2016...................................................................................................................35 Bảng 2.2 : Tổng hợp số liệu kết quả giải quyết đơn tố cáo từ năm 2012 đến năm 2016....................................................................................................41 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật Nhà nước ghi nhận. Công dân thực hiện quyền tố cáo là nhằm báo cho cơ quan nhà nhà nước biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Thông qua đó góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Cùng với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, điều kiện kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng, các mối quan hệ trong đời sống xã hội có nhiều thay đổi và phát sinh mới, các chính sách pháp luật phải chỉnh sửa, bổ sung và ban hành mới. Tuy nhiên, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, làm phát sinh tố cáo trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, cũng như tố cáo cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Số vụ việc tố cáo tiếp tục gia tăng, tính chất gay gắt, phức tạp, có nhiều người tham gia. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước xác định giải quyết tố cáo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan nhà nước và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo là nội dung quan trọng trong việc đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước và cải cách hành chính nhà nước. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, quy định, hướng dẫn về công tác này như: Chỉ thị 09-CT/TW ngày 06 tháng 3 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thông báo kết luận số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trịvề tình hình, kết quả giải quyết 1 khiếu nại, tố cáo từ năm 2006 đến nay và giải pháp trong thời gian tới, Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26 tháng 5 năm 2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo đến cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, Nghị quyết số 39/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ, Luật Tố cáo năm 2011, Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 hướng dẫn thi hành Luật Tố cáo năm 2011… Tuy nhiên, hiệu lực, hiệu quả, kết quả giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong những năm quan chưa cao, do nhiều nguyên nhân khác nhau, còn bộc lộ một số hạn chế như: việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn tố cáo còn chưa đúng, còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm; lợi dụng quyền tố cáo để tố cáo sai sự thật; kết quả xử lý, giải quyết một số vụ việc chưa hợp lý, hợp tình; việc áp dụng pháp luật trong giải quyết chưa chính xác, chưa đúng trình tự, cách thức và các bước tiến hành giải quyết tố cáo; việc thực hiện kết luận, quyết định xử lý về tố cáo chưa nghiêm… nên hiệu quả giải quyết chưa đáp ứng theo yêu cầu. Vì vậy, để tìm hiểu rõ hơn cơ sở lý luận và thực trạng giải quyết tố cáo trên địa bàn tỉnh Bến Tre, học viên chọn đề tài “Giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Bến Tre” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với mong muốn được vận dụng kiến thức pháp luật của mình góp phần vào nghiên cứu khoa học pháp lý nhằm tìm ra những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn giải quyết tố cáo trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Đồng thời thông qua đó kiến nghị, đề xuất những giải pháp khắc phục những hạn chế, thiếu sót, nhằm góp phần ngân cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo trên địa bàn tỉnh Bến Tre nói riêng và cả nước nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Đề tài mới Thời gian vừa qua ở nước ta có một số công trình, bài viết của nhà khoa học, nhà quản lý nghiên cứu liên quan đến hoạt động giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước, đơn cử như: - Đề tài cấp nhà nước: “Khiếu nại, tố cáo hành chính – cơ sở lý luận và thực tiễn”, năm 2011, do Tiến sĩ Lê Tiến Hào – Phó Tổng Thanh tra Chính phủ, Chủ nhiệm đề tài. Và Đề tài thành phần “Thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, vị trí vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính” của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Thư. - Luận văn Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thế Thuấn về “ Tăng cường hiệu lực pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Việt Nam hiện nay”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Vũ Văn Hưng “Giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra tỉnh Đắc Lắc”. - Sách tham khảo: “ Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay”, Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ, nhà xuất bản Chính trị - hành chính, 2012, Chủ biên: Tiến sĩ Lê Tiến Hào và Tiến sĩ Nguyễn Quốc Hưng. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh: “Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai của cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre”, năm 2012, do bà Phan Thị Dung – Chánh Thanh tra chủ nhiệm đề tài (ghi nhận kết quả nghiên cứu theo Quyết định số 872/QĐUBND ngày 15/5/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre). Qua tìm hiểu cho thấy, các đề tài, công trình khoa học trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về tố cáo và giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, đề tài này chưa tập trung đánh giá về những bất cập, vướng mắc trong quy định pháp luật so với thực tiễn giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước và đặc biệt là chưa đề tài nào tiếp cận, nghiên cứu về giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Bến Tre. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận, thực tiễn về giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre, luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quả giải quyết tố cáocủa các cơ quan hành chính nhà nướcnói chung và trên địa bàn tỉnh Bến Tre nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. - Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre,nhằm chỉ ra những vướng mắc, bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện, về thẩm quyền cũng như trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. - Đề xuất giải pháp đảm bảo nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước và những vấn đề cần sửa đổi, bổ sungđối với các quy định của pháp luật hiện hành. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những quy định hiện hành của pháp luật về tố cáo và thực tiễn công tác giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian nghiên cứu: công tác giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre. 4 - Về thời gian nghiên cứu: Công tác giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp tổng hợp, phân tích, phương pháp so sánh, gắn lý luận với thực tiễn để chọn lọc nghiên cứu về giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính. Bên cạnh tiếp nhận các phương pháp nêu trên, đề tài cũng áp dụng các phương pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành giữa khoa học hành chính và khoa học pháp lý. Nghiên cứu các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và những văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ở Trung ương và địa phương về công tác giải quyết tố cáo; pháp luật về tố cáo, thanh tra, xử lý vi phạm hành chính, tố tụng hành chính, dân sự; văn bản pháp luật khác có liên quan và các bài viết đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành. Các báo cáo của Tỉnh ủy, Hồi đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh về tình hình kinh tế - xã hội hàng năm; các báo cáo chuyên đề về tình hình tố cáo và giải quyết tố cáo của Thanh tra Chính phủ, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh. Báo cáo chuyên đề về tình hình tố cáo và giải quyết tố cáo của các sở ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và nghiên cứu các hồ sơ giải quyết tố cáo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Một là, làm rõ các vấn đề lý luận về giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. Hai là, trình bày những quy định của pháp luật về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ba là, phân tích, đánh giá tình hình tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước, hoạt động giải quyết tố cáo và thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Bốn là, đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước; đảm bảo công tác quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo an ninh trật tự xã hội, đồng thờibảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo. Với các kết quả nghiên cứu trên, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạt động thực tiễn cũng như những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy. 7. Cơ cấu Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được cơ cấu thành 3 chương như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận về giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. Chương 2. Thực trạng giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Chương 3. Quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Bến Tre. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.1. Khái niệm, đặc điểm tố cáo thuộc phạm vi giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước. 1.1.1. Khái niệm tố cáo thuộc phạm vi giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước 1.1.1.1. Khái niệm tố cáo nói chung Bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp nông dân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Vì thế mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân có quyền tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước nói chung bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó, quyền tố cáo cũng là cách thức nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Theo từ điển Tiếng Việt, tố cáo là “Báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó”; “Vạch trần hành động xấu xa, phạm pháp hay tội ác trước cơ quan có thẩm quyền hoặc trước dư luận” Tố cáo ở đây là khái niệm chung, là việc công dân thực hiện quyền của mình báo tin về tất cả các hành vi vi phạm pháp luật nói chung cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết. Tuỳ theo lĩnh vực pháp luật bị vi phạm mà người ta phân biệt các loại tố cáo khác nhau. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Theo quy định của Luật tố cáo thì tố cáo được hiểu: là việc công dân theo thủ tục do Luật tố cáo quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. 1.1.1.2. Khái niệm tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước: Tố cáo thuộc thẩm quyền giải giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước bao gồm: tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực Theo cách giải thích từ ngữ tại khoản 2 và khoản 3, điều 2 của Luật thì: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.Và, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là việc công dân báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với việc chấp hành quy định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức trong cơ quan khác của Nhà nước như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước, đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập; vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, thì không thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước. Như vậy, khái niệm vềtố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước được hiểu là: việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyềnbiết về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cũng như hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với việc chấp hành quy định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. 1.1.2.Đặc điểm tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước Trên cơ sở phân tích khái niệmkhái niệm về tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước, cho thấy nó có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, chủ thể thực hiện quyền tố cáo khác với khiếu nại là cả công dân, cơ quan, tổ chức đều có quyền khiếu nại nhưng thực hiện quyền tố cáo chỉ là cá nhân, công dân thực hiện quyền tố cáo, phải là một cá nhân cụ thể không phải là một cơ quan hay tổ chức, mục đích của tố cáo ngoài việc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn thể hiện ý thức và trách nhiệm của công dân trong việc đấu tranh đối với các hành vi vi phạm pháp luật diễn ra trong xã hội.Chủ thể của tố cáo là đối tượng được xác định cụ thể, là cá nhân và khi tố cáo, họ phải chịu trách nhiệm về thông tin do mình cung cấp đối với hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng nhất định. Người tố cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi tố cáo của mình, nếu tố cáo sai sự thật thì phải bị xử lý về hành chính hoặc hình sự tùy theo tính chất và mức độ vi phạm. Thứ hai, đối tượng tố cáo là mọi hành vi vi phạm pháp luật, có thể là tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ hoặc cũng có thể là tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Nó khác với tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm. Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; còn tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. Thứ ba, chủ thể giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước.Như vậy, giải quyết tố cáo do nhiều cơ quan nhà chính nhà nước, nhiều cán bộ, công chức thực hiện theo thẩm quyền mà pháp luật quy định. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được tiến hành bởi nhiều chủ thể có thẩm quyền quản lý khác nhau, nhiều cấp khác nhau. Khi phát sinh vụ việc tố cáo ở lĩnh vực nào thì người có thẩm quyền ở cơ quan, đơn vị đó tiếp nhận và giải quyết theo thẩm quyền và chức năng quản lý hành chính nhà nước do pháp luật quy định. Thứ tư, giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo.Đây là thủ tục được áp dụng trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, chủ yếu do cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong hành chính nhà nước thực hiện, nhằm đảm bảo bảo trật tự trong hoat động quản lý; nó khác với thủ tục tư pháp và có tính chất đơn giản hơn so với thủ tục tư pháp; quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành. Thứ 5, giải quyết tố cáo là thủ tục hành chính do các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện 1.2. Giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước 1.2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật về giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta Quá trình phát triển của pháp luật về tố cáo, chúng ta có thể phân chia quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước ở nước tathành ba giai đoạn như sau: Giai đoạn 1: Từ 1945 đến năm 1992 Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, Ban này có nhiệm vụ giám sát tất cả các công việc, nhân viên của các Uỷ ban hành chính và các cơ quan của Chính phủ; nhận và giải quyết các đơn của nhân dân. Ban này sau đó được đổi tên thành Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ, Ủy ban Thanh tra của Chính phủ. Ngày 13/9/1958 Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Thông tư số 436/TTg quy định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; Thông tư này bước đầu đã chỉ ra việc giải quyết tố cáo của các ơ quan hành chính nhà nước đó chính là quy định cách thức và thẩm quyền giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. Hiến pháp năm 1959, đã dành riêng một điều (Điều 29) quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Theo đó, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính như: Nghị quyết số 164/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống cơ quan Thanh tra của Nhà nước; Nghị định số 165/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ; Thông tư số 60/UBTT ngày 22/5/1971 của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ hướng dẫn trách nhiệm của các ngành, các cấp về giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Tiếp đó, ngày 29/3/1973, Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ ban hành Thông tư số 67-UBTTr/XKT hướng dẫn việc xét, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo ở cấp tỉnh và thành phố thuộc trung ương và Thông tư số 68-UBTTr/XKT hướng dẫn việc xét, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ở cấp huyện... Nội dung các văn bản trên có hướng dẫn về trình tự, cách thức và thẩm quyền giải quyết tố cáo; tuy nhiên thủ tục giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính ở giai đoạn này mới được hình thành nên chưa cụ thể và chặt chẽ. Đến Hiến pháp năm 1980 được ban hành, trong đó quy định về quyền tố cáo rõ hơn, chi tiết và mở rộng hơn so với Hiến pháp năm 1959. Sau đó, Pháp lệnh quy định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1981 được ban hành, trong thời kỳ này thủ tục giải quyết tố cáo chủ yếu thực hiện theo Pháp lệnh này. Ngày 07/5/1991, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 thay thế Pháp lệnh quy định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1981. Nội dung Pháp lệnh năm 1991 đã quy định rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của bên tố cáo và bên bị tố cáo, thủ tục và thẩm quyền của các cấp trong việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Giai đoạn 2: Từ năm 1992 đến năm 2011 Đến năm 1992, Hiến pháp năm 1992 được ban hành đã quy định rõ hơn về quyền tố cáo, giải quyết tố cáo so với trước đây. Tại điều 74, Hiến pháp 1992 quy định: Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn luật định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân được kịp thời xử lý nghiêm 12 minh. Người bị hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác [17, tr.13]. Ngày 02/12/1998, Luật Khiếu nại, tố cáo được ban hành, tiếp theo đó là các luật sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo các năm 2004, 2005 được ban hành và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác cũng ban hành mới hoặc được sửa đổi, bổ sung; trong đó quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trên một số lĩnh vực (như thuế, đất đai, nhà ở, xử lý vi phạm hành chính, kỷ luật cán bộ công chức..). Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 quy định thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính theo hướng công khai, rõ ràng và minh bạch hơn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tố cáo, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo. Nhằm khắc phục những vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và yêu cầu của hội nhập quốc tế, Quốc hội đã hai lần sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo vào các năm 2004 và năm 2005.Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra Giai đoạn 3: Từ năm 2011 đến nay Tại kỳ họp thứ 2, ngày 11/11/2011, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII thông qua Luật Tố cáo năm 2011 và ngày 03/10/2012 Chính phủ ban hành Nghị định số 76/2012/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Tố cáo năm 2011. Đến ngày 30/9/2013, Thanh tra Chính phủban hànhThông tư số 06/2013/TT-TTCP quy định về quy trình giải quyết tố cáo. Theo đó, thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết tố cáo được quy định cụ thể, rõ ràng công khai, minh bạch và có hiệu quả; góp phần phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội. 1.2.2. Quy định của pháp luật về giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước 1.2.2.1. Đối tượng thực hiện quyền tố cáo Đối tượng thực hiện quyền tố cáo là công dân Việt Nam và người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam. Và, nhằm đảm bảo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, Điều 3 Luật tố cáo quy định cụ thể như sau : - “Việc tố cáo của cá nhân nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác”. Như vậy, việc tố cáo của cá nhân nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cơ quan, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì được áp dụng theo quy định của Luật tố cáo; nếu điều ước quốc tế mà nước Việt Nam là thành viên có quy định khác về việc tố cáo của cá nhân nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì sẽ áp dụng theo điều ước quốc tế. - “Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự”. Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, bở vì có yêu cầu tiếp nhận, giải quyết đặc thù và đã được quy định rất chặt chẽ và cụ thể trong pháp luật về tố tụng hình sự. - “Trường hợp luật khác có quy định khác về tố cáo và giải quyết tố cáo thì áp dụng quy định của luật đó”. Luật tố cáo là đạo luật điều chỉnh chung về tố cáo và giải quyết tố cáo, thì hiện nay còn có một số văn bản pháp luật khác, với những hình thức rất khác nhau, có quy định riêng về tố cáo và giải quyết tố cáo như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự, Luật phòng, chống tham nhũng, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Trường hợp luật khác có quy định khác về tố cáo và giải quyết tố cáo thì mới áp dụng theo quy định của luật đó hoặc trong trường hợp luật khác quy định dẫn chiếu việc thực hiện theo Luật tố cáo thì việc giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đó được áp dụng theo quy định tại Luật tố cáo để đảm bảo tính thống nhất. 1.2.2.2. Nguyên tắc giải quyết tố cáo Theo quy định tại Điều 4 của Luật tố cáo: Việc giải quyết tố cáo phải kịp thời, chính xác, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định pháp luật; bảo đảm an toàn cho người tố cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, người giải quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được giao xác minh nội dung tố cáo phải áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc báo ngay cho cơ quan công an, cơ quan có thẩm quyền để áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo, ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm pháp luật. 1.2.2.3. Thẩm quyền giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước Nhằm đảm bảo cho việc thực hiện đúng thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo, Điều 12 của Luật tố cáo đã quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền: - Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết. - Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan