1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------
LÊ THỊ MINH THẢO
Giáo dục giá trị truyền thống cho học sinh trung học
phổ thông trong bối cảnh hội nhập quốc tế
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
PHẦN MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một đất nước có bề dày lịch sử lâu đời với những truyền thống
văn hóa mang tính nhân văn sâu sắc. Những giá trị truyền thống ấy đã hình
thành từ buổi đầu dựng nước, qua bao biến cố của lịch sử được nhiều thế hệ
người Việt Nam gìn giữ và phát huy cho đến tận bây giờ và mãi mãi về sau. Giá
trị truyền thống của Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần
được tạo ra trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta. Chính vì vậy, những giá trị truyền thống văn hóa đã trở thành nền
tảng quan trọng tạo nên nguồn sức mạnh to lớn, giúp dân tộc ta chiến thắng mọi
kẻ thù xâm lược, khắc phục mọi khó khăn, thử thách, xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước.
Từ thực tiễn đó, bước vào công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã xác định: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đây vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, văn hóa truyền thống Việt Nam cần mở rộng giao lưu với thế giới,
tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp hài hòa giữa truyền
thống và hiện đại, nhằm không ngừng làm giàu kho tàng văn hóa dân tộc, thúc đẩy
tiến trình phát triển chung của đất nước. Những giá trị truyền thống của Việt Nam
đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi to lớn, nhưng cũng phải đối mặt với
những thách thức, khó khăn. Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền
thống trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Sinh thời, Bác Hồ luôn quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt là giáo
dục giá trị truyền thống cho học sinh, bởi vì họ là những người chủ tương lai của
đất nước. Ngày nay, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trước hết phải kế
thừa và phát huy các giá trị truyền thống đã làm nên bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang hòa mình vào xu thế toàn cầu hóa,
hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Bên cạnh những cơ hội,
những tác động tích cực mà nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập mang
lại, thì chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức và khó khăn. Hội nhập
kinh tế tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa tư
tưởng, tinh thần và đạo đức xã hội. Sự du nhập của văn hóa, lối sống ngoại lai,
3
thông qua nhiều con đường như sách báo, mạng internet trên toàn cầu chứa đựng
nguy cơ làm xói mòn, phai nhạt các giá trị truyền thống vốn có từ bao đời nay
của dân tộc.
Một thực tế là nền giáo dục của nước ta hiện nay tuy đã đưa nội dung giáo
dục truyền thống vào chương trình học nhưng thực chất chưa mang lại hiệu quả.
Học sinh chưa thấy được tầm quan trọng của việc học tập và gìn giữ các giá trị
truyền thống của dân tộc dẫn đến việc nhiều em còn có những biểu hiện xa rời
truyền thống, ít hiểu biết về giá trị truyền thống.
Trước thực trạng đó, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống cũng
như việc tăng cường giáo dục các giá trị truyền thống cho học sinh là việc làm
hết sức cần thiết. Để làm tốt công việc này, cần có sự phối hợp hài hòa giữa các
tổ chức, lực lượng giáo dục như gia đình, nhà trường và xã hội mà trong đó
người giáo viên là có vai trò quan trọng, đặc biệt là với người giáo viên dạy bộ
môn Giáo dục công dân.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề:“ Giáo dục giá trị truyền thống cho học
sinh trung học phổ thông trong bối cảnh hội nhập quốc tế” làm đề tài nghiên
cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Việc gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc là một đề tài
rộng lớn được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong những năm vừa qua, ở
nước ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về giá trị truyền thống của dân
tộc Việt Nam, cũng như vấn đề giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ trong
đó có học sinh THPT.
Nghiên cứu về các giá trị truyền thống của dân tộc đã có rất nhiều công
trình được xuất bản như: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”
của Trần Văn Giàu, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1980; “Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay” Tập 1 của GS. Phan Huy Lê, PGS.TS.
Vũ Minh Giang (chủ biên), Chương trình khoa học và công nghệ cấp nhà nước,
KX – 07. Hà Nội 1994; “Con người Việt Nam giá trị truyền thống và hiện đại”
của Bùi Thanh Sơn, Lê Thị Thu Ngân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 2008; “Giá trị truyền trước những thách thức của toàn cầu hóa” của GS.
TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên đồng chủ biên, Viện
Triết học, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. Các công trình này đã
4
nghiên cứu một cách có hệ thống với những khái quát, kết luận khoa học về giá
trị truyền thống về các giá trị truyền thống tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, nêu
bật được vai trò quan trọng của giá trị truyền thống trong đời sống tinh thần của
xã hội và sự cấp thiết phải bảo vệ, phát huy giá trị truyền thống trong bối cảnh
xã hội hiện nay.
Gần đây, có một số bài viết và công trình nghiên cứu về sự biến đổi của các
giá trị truyền thống trong thời đại mới và việc giáo dục giá trị truyền thống cho
thế hệ trẻ như:“Ý thức đạo đức trong nền kinh tế thị trường” của TS. Lê Thị
Tuyết Ba, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010; “Giá trị văn hóa truyền thống
và việc giáo dục văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ” của Nguyễn Duy Bắc,
Tạp chí Giáo dục số 168, tháng 7/2007; “Vấn đề kế thừa và phát huy những giá
trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” của tác giả Mai Thị
Quý, Tạp chí Triết học số 6, tháng 9/2001; “Giá trị đạo đức truyền thống và
những yêu cầu đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam hiện nay” của
Cao Thu Hằng, Tạp chí Triết học số 7, tháng 7/2004. Các công trình nêu trên ít
nhiều đã đề cập đến các giá trị đạo đức, giá trị truyền thống của người Việt trong
lịch sử và đề xuất các giải pháp nhằm giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ
trong thời đại mới.
Nhìn chung, vấn đề gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc
đã được nhiều tác giả nghiên cứu, đề cập khá phong phú với nhiều nội dung, khía
cạnh khác nhau. Tuy nhiên, giá trị truyền thống là một vấn đề lớn, nội dung của
nó vẫn còn nhiều vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu và phát triển thêm, nhất
là việc giáo dục các giá trị truyền thống cho thanh thiếu niên trong bối cảnh đất
nước đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu
đề tài “Giáo dục giá trị truyền thống cho học sinh THPT trong bối cảnh hội
nhập quốc tế” là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
* Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra những giải pháp thích hợp và hiệu quả trong việc giáo dục giá trị
truyền thống cho học sinh Trung học phổ thông trong bối cảnh hội nhập để ứng
dụng trong quá trình giảng dạy ở trường THPT sau khi ra trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thứ nhất, nghiên cứu về truyền thống và các giá trị truyền thống tiêu
biểu của dân tộc Việt Nam.
5
- Thứ hai, phân tích tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc
tế đến đời sống văn hóa tinh thần của thanh thiếu niên, học sinh THPT hiện nay.
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường giáo dục các giá trị
truyền thống cho học sinh THPT hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số giá trị truyền thống tiêu biểu của dân
tộc Việt Nam và việc tăng cường giáo dục các giá trị truyền thống cho học sinh
THPT trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo
dục - đào tạo và xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu mà tác giả sử dụng trong đề tài của mình
là: phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp logic
và lịch sử.
5. Nét mới của đề tài
Nghiên cứu sự biến đổi của những giá trị truyền thống Việt Nam trước tác
động của hội nhập quốc tế. Từ đó đưa ra một số đề xuất về việc tăng cường giáo
dục các giá trị truyền thống cho học sinh trung học phổ thông theo quan điểm
mới phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh xã hội hiện đại.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa thiết thực đối với người viết trong
việc bước đầu làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, nâng cao hiểu
biết của bản thân về các giá trị truyền thống của dân tộc.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu cho học sinh, sinh viên và những ai quan
tâm, nghiên cứu đến vấn đề này.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm 3
chương, 8 tiết.
6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
1.1 Khái niệm
1.1.1 Giá trị, truyền thống và giá trị truyền thống
Giá trị và truyền thống:
Giá trị (Value) là một khái niệm của nhiều bộ môn khoa học khác nhau như
toán học, xã hội học, triết học, nghệ thuật, văn hoá học..., do vậy trong mỗi bộ
môn khoa học, khái niệm này mang những hàm nghĩa khác nhau. Trong đề tài
này, tôi tiếp cận khái niệm giá trị trên phương diện văn hóa xã hội. Trong lịch sử
nhân loại đã có rất nhiều quan niệm bàn về giá trị. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi
giai cấp, xã hội khác nhau thì sẽ có quan niệm về giá trị không giống nhau.
Theo quan niệm của Nho giáo, giá trị được đo thông qua việc thực hiện tam
cương ngũ thường tức là lấy trung, hiếu, tiết, nghĩa làm đầu. Phạm trù trung
được hiểu là trung với vua có nghĩa là ý vua là ý trời, vua cho sống thì sống, vua
bảo chết thì phải chết. Hay là phạm trù “tiết” dành cho người phụ nữ như là tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử… Đây là những khái niệm
thường được nêu lên nhiều nhất song không phải để bảo vệ giá trị con người mà
nhằm hạ thấp nhân dân.
Tôn giáo lại quy mọi giá trị của cuộc sống vào nguồn gốc thần bí. Theo quan
điểm tôn giáo thì thế giới quanh ta do Thượng Đế tạo ra, tất cả tính cách của con
người, tất cả họa, phúc, số phận đều do Thượng Đế sắp đặt. Ở giai cấp tư sản hiện
đại, quan điểm về giá trị là quan điểm thực dụng, những vũ khí giết người, những
thủ đoạn man trá, những thành kiến tôn giáo, tất cả những gì có thể tạo ra lợi
nhuận. Quan điểm của tầng lớp trí thức tư sản và tiểu tư sản thì những gì phù hợp
với tâm trạng cô đơn, bi thảm của họ, cái gì đề cao “tự do tuyệt đối” và sự “nổi
loạn” của tâm hồn là giá trị. Lý do của tâm trạng đó là sự chán trường, đau khổ
khi giai cấp, tầng lớp này phải sống trong cảnh bị chà đạp bởi sự tàn bạo, thối nát
và những phi lý do xã hội tư bản tạo nên. Chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa tương
đối thì lại phủ nhận yếu tố khách quan của giá trị, cho giá trị chỉ là ý nghĩa mà con
người gán ghép một cách võ đoàn vào sự vật mà thôi.
7
Giá trị dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin phải là sản phẩm của con
người, do chính sức lực và trí tuệ của con người tạo ra. Khác với quan điểm dựa
vào lý tính, tình cảm, trực giác, chủ nghĩa duy vật biện chứng xác định tính
khách quan và tính xã hội của giá trị. Giá trị nằm trong bản thân sự vật được xét
từ góc độ lợi ích xã hội và tiến bộ xã hội.
Giá trị không phải là cái gì cố hữu, nằm ở bản thân sự vật, hiện tượng mà
nó chỉ có ý nghĩa khi nằm trong mối quan hệ với con người và xã hội. C.Mác đã
từng phê phán quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy vật tầm thường: khuyết
điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật trước kia, kể cả chủ nghĩa duy vật
của Phơ – bách là ở chỗ sự vật, hiện thực, cảm giác luôn chỉ được xét dưới hình
thức khách thể hay dưới hình thức trực quan chứ không được xét đến một cách
chủ quan về mặt nó là sự hoạt động cụ thể của con người là thực tiễn.
Giá trị là những thành tựu của con người góp phần thúc đẩy sự đi lên của
lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con người. Theo quan điểm
triết học có thể chia giá trị thành giá trị tinh thần và giá trị vật chất.
Giá trị vật chất là những giá trị được đánh giá từ sản phẩm lao động phục
vụ cho nhu cầu vật chất của xã hội loài người như: ăn, mặc, ở, đi lại…
Giá trị tinh thần bao gồm các giá trị về khoa học, đạo đức, nghệ
thuật…đánh dấu sự hoàn thiện về Chân – Thiện – Mỹ của đời sống xã hội.
Những gì thỏa mãn cho cuộc sống đó – thỏa mãn những mong muốn, những hy
vọng về tương lai…thì hình thành nên giá trị tinh thần. Đó là những giá trị tốt
đẹp mà xã hội đạt được nhằm phát triển và hoàn thiện đời sống xã hội như chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, độc lập, tự do, bình đẳng… Giá trị tinh
thần là cái để con người vươn tới dựa trên giá trị vật chất, khi những giá trị tinh
thần đó ăn sâu vào tư tưởng của con người thì sẽ biến thành năng lực, ý chí thôi
thúc con người hành động, sáng tạo ra các giá trị vật chất mới.
Như vậy, giá trị được hiểu là những mặt tích cực, mặt chính diện, ích lợi
cao quý; giá trị gắn liền với Chân – Thiện – Mỹ; hướng con người hành động
vươn tới cái đúng, cái hay, cái đẹp. Nói đến giá trị là nói đến cái có khả năng
thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần mang tính tích cực, lành mạnh
của con người.
8
Thuật ngữ “truyền thống” được sử dụng rất phổ biến và rộng rãi trong
ngôn ngữ tiếng Việt, chẳng hạn như truyền thống gia đình, truyền thống dòng
họ, truyền thống thống dân tộc, truyền thống ngành, truyền thống đơn vị, truyền
thống chống ngoại xâm…
Truyền thống có thể gắn với tất cả các hình thức cộng đồng, tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Vậy truyền thống là gì? Để hiểu rõ hơn khái niệm này,
nhất là mặt nội hàm của nó, xin được dẫn một số quan niệm của các nhà nghiên
cứu sau đây: Truyền thống theo tiếng Ấn Độ là Tradition bắt nguồn từ tiếng
Latinh trader, tradition có nghĩa là trao truyền, truyền đạt, luân chuyển, mang
lại, trao trả.
Trong từ điển Bách khoa Xô Viết truyền thống được hiểu là “những yếu tố
của di tồn văn hóa, xã hội truyền từ đời này qua đời khác và được lưu giữ trong
các xã hội, giai cấp và nhóm xã hội trong một quá trình lâu dài. Truyền thống
được thể hiện trong các chế định xã hội, chuẩn mực của hành vi, các giá trị, tư
tưởng, phong tục, tập quán và lối sống… Truyền thống tác động không nhỏ đến
mọi xã hội và tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội” [37,70]. Trong từ điển
tiếng Việt truyền thống được giải thích là đức tính, tập quán, tư tưởng, lối sống
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trong các tài liệu nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam cũng được nhiều
người đề cập tới, chẳng hạn như giáo sư Trần Văn Giàu có viết: “Truyền thống là
những đức tính hay thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có
nhiều tác dụng, tác dụng đó có thể tích cực, cũng có thể tiêu cực” [37,70]. Giáo sư
Vũ Khiêu thì cho rằng: “Truyền thống là những thói quen lâu đời, đã được hình
thành trong nếp sống, nếp suy nghĩ và hành động của dân tộc ta” [37,70]. Còn
giáo sư Trần Quốc Vượng khi nghiên cứu truyền thống dân tộc đã đi đến kết luận:
“Truyền thống như là một hệ thống tính cách, các thế ứng xử của một tập thể (một
cộng đồng), được hình thành trong lịch sử, trong một môi trường tự nhiên và nhân
văn nhất định, trở nên ổn định, có thể được định chế hóa bằng luật hay bằng lệ, và
được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để đảm bảo tính đồng nhất của
một cộng đồng”[37, 70].
Từ cách hiểu trên về truyền thống có thể nêu lên những đặc trưng cơ bản
của truyền thống là: tính tập thể, cộng đồng; lịch sử; tương đối ổn định; có tính
năng động; có thể học được và truyền lại được.
9
Với những đặc trưng trên có thể khái quát: Truyền thống là một hệ thống
các tính cách, các thế ứng xử của một tập thể (một cộng đồng), được hình thành,
biến đổi và phát triển trong lịch sử, được kết tinh, tích lũy lại và được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, chi phối suy nghĩ và hành động của con người
trong hiện tại và có thể cả ở trong tương lai.
Như vậy, truyền thống không phải là cái gì đã có sẵn, bẩm sinh mà được
hình thành trong quá trình phát triển lịch sử, quá trình đấu tranh với thiên nhiên và
trong cuộc sống xã hội của mỗi tập đoàn người, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc, vì vậy
truyền thống bao giờ cũng gắn liền với điều kiện lịch sử cụ thể của từng dân tộc,
từng giai cấp, tách khỏi những điều kiện lịch sử đó thì không còn là truyền thống
nữa. Vì thế truyền thống của mỗi dân tộc có những đặc trưng và sắc thái riêng.
Truyền thống là cái được đông đảo mọi người thừa nhận, nó mang tính phổ
quát bởi nó là sản phẩm của cả cộng đồng và được lưu truyền qua các thế hệ. Nó
là cái tương đối ổn định, tương đối bền vững và ít biến đổi.
Tuy nhiên truyền thống luôn mang tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Một
mặt, truyền thống là tinh hoa, là cái hay, cái đẹp của một cộng đồng người được
tích lũy từ đời này sang đời khác; nó là nền tảng cho sự phát triển, sự vận động
đi lên của cộng đồng, dân tộc đó. Mặt khác, truyền thống cũng là mảnh đất
thuận lợi cho sự dung dưỡng, duy trì và làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi
thời…khi hoàn cảnh lịch sử thay đổi, thì nó sẽ kéo lùi sự phát triển. Do đó cần
có sự phân biệt, nhìn nhận những truyền thống tốt đẹp với cái bảo thủ, lạc hậu
để từ đó khắc phục mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực của truyền thống.
Giá trị truyền thống
Giá trị truyền thống là những truyền thống có giá trị tương đối bền vững,
ổn định, những gì là tốt đẹp, tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc và khả năng
truyền lại qua không gian, thời gian, có tác động tích cực, thúc đẩy sự phát triển
của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Những truyền thống khi trở thành giá trị
truyền thống thì đã bao hàm trong đó ý nghĩa lâu dài, bền vững. Khi xét khái
niệm giá trị truyền thống có nghĩa là chúng ta đã loại bỏ các phản giá trị trong
truyền thống hay nói cách khác là chỉ xét tới mặt tích cực, tốt đẹp của truyền
thống. Đúng như giáo sư Trần Văn Giàu đã nhận định: “truyền thống thì có cái
tốt, cái xấu; nhưng khi chúng ta nói “giá trị truyền thống” thì ở đây chỉ nói tới
10
cái tốt mà thôi…mà phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều tác dụng
tích cực cho đạo đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự hành động, thì mới
được mang danh là giá trị truyền thống” [19,35]. Như vậy, giá trị truyền thống
đó là những giá trị nội sinh, tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc, được giữ gìn
và kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Giá trị truyền thống là sự kết tinh của toàn bộ tinh hoa dân tộc, đó là biểu
tượng của ước mơ, lý tưởng, trình độ, năng lực, ý chí bản lĩnh…của cả một cộng
đồng. Giá trị truyền thống được cô đúc nên trong suốt quá trình hình thành và
phát triển của dân tộc.
1.1.2 Vai trò của giá trị truyền thống trong đời sống xã hội.
Giá trị truyền thống là bộ phận của nền văn hóa. Toàn bộ giá trị truyền
thống của dân tộc như “sự rút gọn của lịch sử và cô đọng của văn hóa – văn
minh dân tộc”[7,9]. Cho nên, không thể tách rời giá trị truyền thống với văn hóa.
Nói cách khác giá trị truyền thống là bộ phận cấu thành của nền văn hóa.
Trong “Văn hóa – phát triển và bản sắc”, nhóm tác giả Vũ Khiêu, Hồng
Phong, Hà Văn Tấn đã viết: “Bản sắc dân tộc là toàn bộ tâm hồn, khí phách sâu
xa nhất của dân tộc nơi hội tụ các phẩm chất đặc sắc của văn hóa cộng đồng, là
cái cốt lõi, bên trong như là căn cước của một dân tộc”[7; 9]. Một quan niệm
khác thì bản sắc dân tộc được hiểu là tổng thể những phẩm chất, đặc điểm tính
cách, cách thức để tồn tại và biểu hiện của một cộng đồng cụ thể, riêng biệt mà
nhờ nó người ta có thể xác định được một dân tộc giữa quần thể các dân tộc,
trong cộng đồng nhân loại nói chung… Tất cả những gì có thể coi là cốt lõi, chủ
yếu, là hình ảnh trung thực về đời sống của một cộng đồng, tạo thành cái gọi là
linh hồn, là bản lĩnh, là sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của một dân tộc và
đối với nước ta thì “bản sắc dân tộc là bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa được vun đắp nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự tôn, tự cường dân tộc, lòng nhân ái
bao dung, trọng nghĩa tình, đạo lý cần cù, sáng tạo… Tất cả đã kết tinh thành
sức mạnh và trong đậm dấu ấn độc đáo của cộng đồng các dân tộc trên lãnh thổ
Việt Nam”[4,76-77]. Như vậy, xét trong mối quan hệ giữa bản sắc văn hóa dân
tộc với giá trị truyền thống thì giá trị truyền thống chính là những khía cạnh,
những thành phần, những nét độc đáo thể hiện ở bản sắc dân tộc.
11
Trong mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì việc xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những
nhiệm vụ hết sức cơ bản. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc đều
có đời sống văn hóa mang trong mình bản sắc riêng. Nhưng xuyên suốt lịch sử
4000 năm dân tộc dựng nước và giữ nước vẫn là nền văn hóa thống nhất mang
bản sắc dân tộc Việt Nam. “Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất
mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”[38,305]. Đó là lòng yêu
nước, tinh thần nhân văn, nhân đạo, truyền thống hiếu học, đoàn kết keo sơn gắn
bó, truyền thống cần cù tiết kiệm… Tất cả các giá trị ấy đã hun đúc nên nền văn
hóa Việt đa dạng và độc đáo.
Văn hóa được hình thành trong quá trình lịch sử và tích lũy qua nhiều thế
hệ. Văn hóa bao giờ cũng là sự thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát
triển và sự trường tồn của một dân tộc. Khi tất cả đã qua đi thì cái còn lại cuối
cùng vẫn là văn hóa. Theo tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa thế giới
(UNESCO) thì “văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong
quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động, sáng tạo ấy đã hình thành
nên các hệ thống giá trị, các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của
mỗi dân tộc”. Các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội đều có dấu ấn của văn
hóa. Vì vậy, hệ giá trị và truyền thống hay các giá trị truyền thống chính là cốt
lõi của văn hóa, nó tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.
Các giá trị truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân
tộc, bao gồm giá trị văn hóa vật thể và giá trị văn hóa phi vật thể được sản sinh
ra trong lịch sử dân tộc, được các thế hệ đi sau kế thừa và gìn giữ. Nó trở thành
nền tảng tinh thần của phát triển.
Các giá trị truyền thống có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách của con người. Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm
lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nó không phải
là sự tổng hòa các đặc điểm cá thế của con người mà chỉ là những đặc điểm quy
định con người như là thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý – xã hội, giá
trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Nhân cách con người không sinh ra
cùng một lúc khi cá nhân ấy ra đời. Nhân cách cũng không có sẵn bằng cách bộc
lộ dần những bản năng nguyên thủy mà nhân cách là cấu tạo tâm lý được hình
12
thành trong quá trình sống, giao tiếp, học tập, lao động… dưới ảnh hưởng của
kinh nghiệm xã hội, điều kiện sống và hoạt động. Mỗi con người từ khi sinh ra
đến lúc trưởng thành sống trong ba môi trường cơ bản đó là: Gia đình, nhà
trường và xã hội. Sự hình thành và phát triển nhân cách chịu ảnh hưởng từ ba
môi trường ấy. Người ta sinh ra không ai có thể lựa chọn dân tộc, giai cấp và gia
đình, nhưng truyền thống gia đình, quê hương, đất nước là điểm tựa tinh thần
giúp cho con người đứng vững trước những thử thách của cuộc đời. Vì vậy mà
trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: “Xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế”[14,106].
Các giá trị truyền thống được truyền từ đời này qua đời khác và ăn sâu vào
tiềm thức của mỗi con người đất Việt. Cùng với thời gian các giá trị truyền
thống được bồi đắp và trở thành sức mạnh tinh thần, góp phần thúc đẩy sự phát
triển tiến bộ của con người và dân tộc Việt Nam.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc
Việt Nam.
1.2.1 Quá trình hình thành các giá trị truyền thống.
Điều kiện tự nhiên
Sự hình thành và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam là
tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó vừa có những điều kiện tự nhiên vừa có
những điều kiện xã hội, mà trước hết là những yếu tố tự nhiên với những điều
kiện tự nhiên đặc thù của Việt Nam.
Về vị trí địa lý, Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, trông ra biển
Đông với đường bờ biển dài 3200km, phía Tây dựa lưng vào núi. Lãnh thổ nước
ta nằm trên con đường giao thông quốc tế huyết mạch từ Đông sáng Tây theo
đường biển, nối liền các khu vực đông đúc và năng động của thế giới. Việt Nam
nằm trong vùng giao thoa giữa hai nền văn minh lớn của nhân loại là Trung
Quốc và Ấn Độ, nơi gặp gỡ giữa văn hóa Đông – Tây tạo nên cho nước ta một
nền văn hóa phong phú và đa dạng.
Về điều kiện khí hậu, Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với khí
hậu nóng ẩm, nắng lắm mưa nhiều tạo nên thảm thực vật phong phú, đất đai
13
màu mỡ. Điều đó tạo điều kiện cho nền nông nghiệp trồng lúa nước hình thành
và phát triển từ rất sớm. Đây chính là nơi hội tụ của văn hóa nông nghiệp để lại
dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển của dân tộc ta. Tuy nhiên với biến động
của tự nhiên khắc nghiệt bất thường, dân tộc ta luôn phải đối mặt với thiên tai, lũ
lụt, hạn hán, mất mùa…cho nên cộng đồng các dân tộc Việt Nam có chung một
lịch sử cải tạo và chống chọi với tự nhiên để bảo vệ cuộc sống của mình. Đó là
cơ sở cho việc hình thành những phẩm chất tốt đẹp của mỗi con người Việt Nam
nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung trong quá trình phát triển, dựng
nước và giữ nước.
Điều kiện lịch sử xã hội
Bên cạnh những điều kiện tự nhiên, các yếu tố lịch sử xã hội có vai trò đặc
biệt quan trọng trong sự hình thành các giá trị truyền thống Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam vốn được hình thành từ nhiều tộc người khác nhau trong
lịch sử với truyền thống văn hóa đa dạng. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử
của hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ. Trong lịch sử, nước ta đã từng
chịu ách đô hộ 1000 năm của phong kiến phương Bắc, sau đó vài thế kỷ được
độc lập, dân tộc Việt Nam lại tiếp tục đối đầu với các thế lực phong kiến Trung
Quốc (Tống, Minh, Thanh…) và tiếp sau là sự xâm lược của các đế quốc hùng
mạnh nhất trên thế giới như Pháp, Mỹ, Nhật để bảo vệ nền độc lập của. Hoàn
cảnh đó đã tạo nên truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết cộng đồng để
cùng nhau chống giặc ngoại xâm…Trong đó truyền thống yêu nước là dòng
chảy chủ đạo của hệ giá trị truyền thống, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Các giá trị truyền thống Việt Nam mang đặc trưng của nền kinh tế nông
nghiệp lúa nước, đó là sự gần gũi mật thiết giữa con người với thiên nhiên, tình
cảm gắn bó, đoàn kết, bao bọc lẫn nhau của người dân. Những phong tục tập
quán, quan niệm đạo đức gắn liền với đời sống kinh tế nông nghiệp truyền từ
đời này qua đời khác, đó là truyền thống cần cù chịu thương chịu khó để vượt
qua những khó khăn thử thách của điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và những biến
đổi của đời sống xã hội. Đó là những nét rất riêng trong truyền thống văn hóa
của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam nằm ở vùng giao thoa của hai nền văn hóa lớn của thế giới là Ấn
Độ và Trung Quốc nên Phật giáo (Ấn Độ), Đạo giáo, Nho giáo (Trung Quốc) đã
14
du nhập vào nước ta và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của nhân dân ta. Nho
giáo được truyền vào nước ta, tính đến nay đã trên 2000 năm. Nho giáo là một
học thuyết chính trị - xã hội luôn lấy đức làm trọng, là công cụ quản lý xã hội
của giai cấp thống trị Trung Quốc. Với rất nhiều giáo lý phù hợp với điều kiện
xã hội Việt Nam, Nho giáo từng bước được các giai cấp thống trị Việt Nam
trong lịch sử tiếp nhận và đề cao, đặc biệt là trong quản lý đất nước. Nho giáo đã
ăn sâu vào tâm lý người Việt Nam. Mặc dù còn có những quan niệm tiêu cực,
như trọng nam khinh nữ, coi thường lao động chân tay... song Nho giáo cũng có
những yếu tố tích cực, đó là việc đề cao chữ nhân, lòng thương người, trọng
người cao tuổi… Cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực của Nho giáo đều tác động tới
nhân cách con người Việt Nam.
Với tư tưởng từ bi, bác ái, Phật giáo của nền văn hoá Ấn Độ đã thâm nhập
vào Việt Nam từ rất sớm. Các giáo lý Phật giáo cùng với việc các nhà sư sống
hoà đồng với người dân đã tạo nên sự gần gũi giữa Phật giáo và người dân. Bởi
lẽ, người Việt Nam từng chịu nhiều đau thương, mất mát qua các cuộc chiến
tranh và thường xuyên phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, nên luôn
mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bằng thuyết nhân quả luân hồi, ở
hiền gặp lành, Phật giáo khuyến khích con người ăn ở nhân đức để có được cuộc
sống tốt đẹp trong thế giới mai sau. Nhân dân ta tiếp nhận Phật giáo như là một
yếu tố tâm lý làm cân bằng cuộc sống vốn khốn khó của mình.
Cùng với Nho giáo và Phật giáo, Đạo giáo cũng có ảnh hưởng nhất định tới
nhân cách con người Việt Nam. Đạo giáo đã đem lại thêm cho nhân dân ta tinh
thần đoàn kết, hữu ái của nông dân lao động và... một phần cái ý thức về sức
mạnh có chính nghĩa của mình chống mọi sự bất công, áp bức, hà hiếp của vua
chúa, cường hào, ác bá.
Văn hóa phương Tây cũng đã ảnh hưởng tới đời sống dân tộc ta trong quá
trình nước ta bị thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Mặc dù bị ảnh hưởng
mạnh mẽ của nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới nhưng từ trong lịch sử,
văn hóa Việt Nam đã là một nền văn hóa mở, có khả năng tiếp biến, sàng lọc rất
cao. Trong thực tế văn hóa Việt Nam đã đứng vững trước những tác động của
các nền văn hóa bên ngoài. Với những giá trị truyền thống lâu đời đã hình thành
trong lịch sử, nhân dân ta chỉ tiếp thu một cách có chọn lọc những tinh hoa văn
15
hóa bên ngoài để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc, tạo nên một nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2.2 Quá trình phát triển các giá trị truyền thống
Việt Nam nằm trong khu vực được coi là cái nôi của loài người, là một trong
những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước. Trên nền
tảng phát triển kinh tế - xã hội thời Đông Sơn, trước những đòi hỏi của công cuộc
trị thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn Lang đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ
VII trước Công nguyên. Bằng sự lao động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang, (sau
đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam
Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong
phú, một nền văn hóa cao được biết đến với tên gọi là văn minh Sông Hồng (còn
gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn - thể hiện sự
kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt cổ.
Với những đặc điểm tự nhiên, sự khó khăn của cư dân vùng lúa nước, sự đe
doạ liên tục của nạn ngoại xâm, muốn tồn tại và phát triển, con người Việt Nam
phải cùng nhau đồng cam cộng khổ trong lao động sản xuất, đoàn kết đấu tranh
chế ngự thiên nhiên và chống lại kẻ thù xâm lược. Việc gắn đời sống của mình
với cộng đồng cũng là để bảo vệ cuộc sống của mình. Do đó, trong hệ thống các
giá trị chuẩn mực xã hội, việc ưu tiên các giá trị cộng đồng, hay nói cách khác,
việc đề cao các giá trị truyền thống là đặc điểm nổi bật trong đời sống văn hóa
của dân tộc Việt Nam.
Quá trình đấu tranh bảo vệ đất nước cũng tác động sâu sắc đến sự hình
thành ý thức cộng đồng và tinh thần đoàn kết dân tộc. Nằm trong khu vực Đông
Nam Á với vị trí địa lí, chính trị đặc biệt, trong quá trình tồn tại và phát triển,
Việt Nam đã phải đương đầu với sự bành trướng của các dân tộc lớn trên thế
giới, nhưng chính trong quá trình đó con người Việt Nam đã gắn bó, đoàn kết
với nhau. Truyền thống đoàn kết, cố kết cộng đồng của dân tộc ta đã có từ rất
lâu trong lịch sử, được thể hiện trong hai chữ “đồng bào” mà nhân dân ta thường
dùng để chỉ những người con trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nước ta là một
quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc có 54 bản sắc văn hóa khác nhau. Nhưng các dân
tộc đều có một cội nguồn chung đó là cùng một tổ tiên là con Lạc cháu Hồng.
Tất cả các dân tộc luôn luôn đoàn kết cùng nhau chống lại thiên nhiên khắc
nghiệt và đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
16
Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là tình cảm tự nhiên,
mà còn là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử. Lịch sử mấy nghìn năm của
dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập từ tay kẻ
thù xâm lược (thời gian chống giặc ngoại xâm lên tới trên 12 thế kỷ). Chính vì
vậy mà tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi
người dân qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân
tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh
đến đâu. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khỉ Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Lịch sử đã chứng minh rằng, trong hơn ngàn năm phong kiến phương Bắc
đô hộ, nhân dân ta đã tiến hành hàng trăm cuộc khởi nghĩa chống lại quân xâm
lược, điển hình trong số đó là các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 – 43),
khởi nghĩa Bà Triệu (248), khởi nghĩa Lí Bí thành lập nước Vạn Xuân (544),
khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa Phùng Hưng (766), khởi nghĩa của
họ Khúc đến Ngô Quyền (938)… Tất cả những cuộc khởi nghĩa trên là minh
chứng cho lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất khuất chống giặc ngoại
xâm của dân tộc ta. Rồi đến những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ. Trong những cuộc chiến tranh tàn khốc đó, nếu không
có tinh thần yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc, làm sao một dân tộc nhỏ yếu
như chúng ta có thể làm nên những chiến trắng vang dội, đánh thắng được
những kẻ thù mạnh nhất thế giới.
Trong suốt quá trình thực dân Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam dẫn đến
cuộc đụng đầu giữa hai nền văn hoá Đông – Tây hồi đầu thế kỷ XX, các giá trị
truyền thống của Việt Nam đã trải qua những biến động sâu sắc và căn bản. Nói
đến giá trị truyền thống Việt Nam là nói đến một hệ giá trị đa dạng tổng hợp và
hỗn dung các giá trị văn hoá bản địa, Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo. Trong đó,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt, xâu nối và liên kết các giá trị đó thành một chỉnh thể đa
diện là tinh thần dân tộc, là lòng yêu nước hết sức đặc trưng của Việt Nam.
Trong đó Nho giáo, theo thời gian như chiếc áo khoác mỗi ngày mỗi rộng trùm
17
lên các giá trị khác khiến cho mọi giá trị truyền thống được cố định, được trình
bày theo hình thức của Nho giáo cho đến khi bị nhà cầm quyền Pháp cáo chung.
Vì thế nhiều sự lầm tưởng, đồng nhất các giá trị khác với Nho giáo đã xảy ra.
Với sức mạnh của nền văn minh kỹ thuật – công nghiệp, sự trợ giúp của
nhà nước bảo hộ Pháp và sức chinh phục mạnh mẽ của các học thuyết phương
Tây tràn vào Việt Nam vào đầu thế kỷ XX đã tạo ra xu hướng Tây hoá ngày
càng rộng rãi trong đời sống văn hóa dân tộc. Do vậy, tình hình tư tưởng khi đó
là hết sức phức tạp và thực tế đã có một cuộc đấu tranh tư tưởng xung quanh vấn
đề giá trị diễn ra vào thời kỳ này.
Trong thời đại mới, khi đất nước đang có những bước chuyển biến và đổi
mới tùng ngày, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, kéo
theo nó là sự hội nhập về văn hóa thì các giá trị truyền thống cũng có sự chuyển
biến nhất định. Các giá trị truyền thống lúc này đã dần thay đổi để phù hợp với
những chuyển biến mới của đời sống xã hội. Lòng yêu nước và tinh thần đoàn
kết và cố kết cộng đồng vẫn giữ nguyên giá trị với niềm tự hào về truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, bên cạnh đó nó phát triển nâng tầm lên những cái mới. Yêu
nước và tự hào dân tộc còn là việc biết đem các tinh hoa văn hóa dân tộc ra giới
thiệu với bạn bè quốc tế, học hỏi những cái hay, cái mới của văn hóa nhân loại
để bổ sung và hoàn thiện hơn văn hóa dân tộc, xây dựng những giá trị văn hóa
mới, làm phong phú thêm bản sắc dân tộc. Tính cần cù, chịu khó, yêu lao động
và tinh thần hiếu học không còn bó hẹp trong phạm vi nhỏ nữa mà mở ra là sự
ưa tìm tòi cái mới, sáng tạo ra những tri thức mới, những công cụ lao động thay
thế cho sức lao động của con người. Tinh thần hiếu học và yêu lao động đã được
biến đổi theo chiều hướng tích cực, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế theo
hướng đầu tư phát triển kinh tế tri thức của đất nước.
Chính đặc điểm hình thành và phát triển của xã hội Việt Nam đã làm cho
các giá trị truyền thống được bồi đắp thường xuyên trong suốt chiều dài lịch sử
Hình thành từ ngay những ngày đầu dựng nước, trải qua nghìn năm Bắc thuộc
những giá trị đó vẫn đứng vững trong tâm thức người dân Việt. Qua hai cuộc
chiến tranh trường kỳ, những giá trị truyền thống ấy là cội nguồn, là sức mạnh
nội sinh thôi thúc nhân dân ta đánh giặc, giữ gìn bờ cõi và nền văn hóa dân tộc.
Trong xã hội hiện đại, những truyền thống tốt đẹp ấy vẫn tiêp tục được phát huy,
18
gìn giữ và có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước đương thời. Cùng
với thời gian, những giá trị truyền thống của dân tộc đã dần trở nên ổn định và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở thành động lực, sức mạnh,
bản sắc của nhân cách con người Việt Nam.
1.3 Một số giá trị truyền thống tiêu biểu của dân tộc Việt Nam
1.3.1 Truyền thống yêu nước
Chủ nghĩa yêu nước là một đặc trưng căn bản nhất của giá trị truyền thống
Việt Nam. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự chiều dài lịch sử. Dù hệ giá trị có thay
đổi như thế nào thì nó vẫn xoay quanh cốt lõi tinh thần yêu nước đó. Tinh thần
yêu nước là nhân tố quan trọng quy định vị thế và nội dung các giá trị trong mỗi
thời kỳ biến đổi căn bản của lịch sử. Với toàn bộ tính quy định lịch sử hiện tại
Việt Nam đang đi theo con đường phát triển dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội trong
điều kiện của hoà bình, độc lập, thống nhất.
Bất cứ một dân tộc nào trên hành tinh này cũng đều có lòng yêu nước của
họ. Lòng yêu nước đó, một mặt là tình cảm rất tự nhiên, nhưng mặt khác quan
trọng hơn, nó chính là sản phẩm của lịch sử, được hun đúc bởi chính lịch sử của
dân tộc. Cùng với sự tiến triển của lịch sử Việt Nam, tinh thần yêu nước Việt
Nam trở thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành một giá trị, một động lực tinh thần
vô cùng mạnh mẽ thúc đẩy biết bao nhiêu thế hệ con người Việt Nam đã kiên
cường và dũng cảm hi sinh để giành lại và bảo vệ độc lập của Tổ quốc, bảo vệ
những phẩm giá của chính con người.
Tinh thần yêu nước là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của dân
tộc Việt Nam ta. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu: “Tình cảm và tư tưởng yêu nước
là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam và chủ
nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến
hiện đại”[19,34]. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu lộ đầy đủ và tập trung nhất,
hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh
của người Việt Nam.
Tinh thần yêu nước là nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã hội
mà nội dung của nó là lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ
và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc. Trên thế giới,
mỗi quốc gia, dân tộc đều có tình yêu đất nước, nhưng bản sắc, sự hình thành
19
cũng như biểu hiện của nó có sự khác nhau. Ở Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước
là giá trị đạo đức cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, là chuẩn mực đạo đức cao
nhất, đứng đầu trong thang bậc giá trị truyền thống, và là hằng số trong mỗi
người Việt Nam, là tiêu điểm của mọi tiêu điểm. Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, luôn chăm lo xây dựng và bảo vệ đất
nước, có ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc, luôn tự hào về dân tộc…
Tinh thần yêu nước Việt Nam bắt nguồn từ những tình cảm bình dị, đơn sơ
của mỗi người dân. Có thể nói rằng, cội nguồn của lòng yêu nước là sự gắn bó
với nơi chon nhau, cắt rốn của mình, nơi ghi đậm những dấu ấn vui buồn, tươi
mát của tuổi ấu thơ, đó chính là quê hương. Mỗi một con người đều tự hào về
quê hương của mình, cho dù ở đó cảnh vật vô cùng bình thường, giản dị với cây
đa, bến nước, rừng cây hay có thể là đồng khô cỏ cháy, nắng hạn, mưa dầm
nhưng vẫn có sức lay động những gì sâu kín tận đáy tâm hồn và nỗi niềm thiết
tha yêu dấu của mỗi con người. Họ đã được sinh ra và lớn lên từ dòng sữa mẹ
chắt chiu từ biết bao nguồn mạch trong đời sống văn hóa vật chất, tinh thần và
tâm linh. Lòng yêu nước, tình yêu Tổ quốc bao hàm cả tình yêu tổ tiên, gia đình,
ông bà, cha mẹ, anh em, con cái… Không có tình cảm yêu thương gia đình thì
không thể có lòng yêu nhân dân, yêu dân tộc. Trong cái đại dương bao la của
lòng yêu nước, những khía cạnh riêng biệt độc đáo của tình cảm cá nhân không
bị tan biến. Ngược lại, nó được làm giàu thêm, trong sáng hơn, sâu sắc hơn, và
vì vậy cũng mãnh liệt hơn. Tình yêu đất nước không phải là tình cảm bẩm sinh,
mà là sản phẩm của sự phát triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định.
Tình yêu đất nước không chỉ gắn liền với quá trình xây dựng đất nước, nó
còn được thể hiện rõ hơn trong quá trình bảo vệ đất nước. Trên thế giới, hầu như
dân tộc nào cũng phải trải qua quá trình bảo vệ đất nước, chống xâm lăng.
Nhưng có lẽ không dân tộc nào lại phải trải qua quá trình giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc nhiều và đặc biệt như ở Việt Nam. Trong khoảng thời gian từ
thế kỷ III TCN đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta đã dành hơn nửa thời
gian cho các cuộc kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống ngoại xâm, các cuộc
khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Không có một dân tộc nào trên thế
giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh như vậy và phải đấu tranh chống lại
những kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Chính tinh thần yêu nước nồng nàn
20
đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế lực xâm lược.
Qua những cuộc chiến đấu trường kỳ đầy gian khổ đó, chủ nghĩa yêu nước đã
trở thành dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam, trở thành một triết lý xã hội và
nhân sinh trong tâm hồn Việt Nam.
Lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt nam đã được thể hiện ở tinh thần dám
xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích cúa quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng
tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng
đất nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết bao người con của dân tộc đã
tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy
sinh nơi chiến trường. Biết bao nhiêu người mẹ, người vợ đã tiễn chồng, tiễn
con ra mặt trận mà không bao giờ còn được đón họ trở về. Đó là sự hy sinh to
lớn được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Bấy nhiêu
thôi cũng đã quá đủ để có thể thấy rằng, tư tưởng yêu nước là kim chỉ nam cho
hành động, đem lại một sức mạnh to lớn, thúc đẩy dân tộc ta tiến lên.
Truyền thống yêu nước của nhân dân ta cũng có những nét đặc thù, đó là
tinh thần hòa hợp dân tộc và giao lưu với cộng đồng quốc tế. Tính đa sắc tộc ở
nước ta không những không làm cản trở sự phát triển của đất nước mà ngược
lại, càng làm sâu sắc, phong phú thêm các giá trị đạo đức, văn hóa mang bản sắc
của dân tộc, của con người Việt Nam. Cái lớn lao, vĩ đại của những vĩ nhân,
lãnh tụ khi họ tạo nên sự nghiệp lớn, ghi lại những trang chói ngời trong lịch sử
là do họ đã nhận thức sâu sắc được những điều ấy. Phương châm của Trần Hưng
Đạo là “khoan thư sức dân để làm kế bền sâu gốc rễ là thượng sách giữ nước”;
của Nguyễn Trãi là “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; của chủ tịch Hồ Chí Minh
là “suốt đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Lòng yêu nước gắn liền với việc lo lắng cho
cuộc sống của nhân dân thực hiện bằng hành động cụ thể làm ích nước lợi dân
trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh trong tâm hồn người con người Việt
Nam. Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam cũng là lòng yêu hòa bình, tự do,
công lý, mong muốn hòa hảo với tất cả các quốc gia, các dân tộc, kể cả đối với
kẻ thù khi đã bị thất bại vẫn xử thế theo phương châm “Đem đại nghĩa để thắng
hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. trong thời đại ngày nay, con người
với lòng yêu nước chân chính không những yêu mến, tự hào về Tổ quốc mình,
- Xem thêm -