LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ, với nhiều
chính sách và chủ trương đẩy mạnh kích cầu để phát triển. Trong bối cảnh đó, sự
cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng đã tạo sức ép buộc các ngân
hàng Việt Nam phát triển và tự khẳng định mình với rất nhiều thách thức lớn. Trong
điều kiện đó thị phần của các ngân hàng dần bị chiếm chỗ bởi các định chế tài chính
khác, cuộc chiến giành thị phần diễn ra ngày càng khốc liệt cả ở trong và ngoài
nước. Các ngân hàng buộc phải lựa chọn lại cấu trúc và điều chỉnh cách thức hoạt
động cho phù hợp, nâng cao khả năng khám phá cơ hội kinh doanh và vị thế cạnh
tranh. Điều này chỉ có thể thực hiện tốt khi họ áp dụng các giải pháp marketing
năng động, đúng hướng. Marketing trở nên một bộ phận chức năng quan trọng đối
với mọi loại hình doanh nghiệp trong đó có ngân hàng trong. Marketing được các
ngân hàng đề cập đến như một phương pháp quản trị tổng hợp để gắn kết các khâu,
các bộ phận của họ với thị trường.
Thực tế cho thấy, marketing đã tham gia vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế
cơ bản của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nó giúp tổ chức tốt quá trình cung ứng
sản phẩm và hoàn thiện mối quan hệ trao đổi giữa ngân hàng và khách hàng. Nó
giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa khách hàng, nhân viên và chủ ngân
hàng. Marketing trở thành cầu nối gắn kết hoạt động của ngân hàng với thị trường
đồng thời góp phần tạo vị thế cạnh tranh cho ngân hàng. Việc tạo lập vị thế cạnh
tranh của sản phẩm dịch vụ ngân hàng phụ thuộc khá lớn vào khả năng, trình độ
marketing của mỗi ngân hàng. Nó đòi hỏi bộ phận Marketing phải nhận thức đầy đủ
cả về khả năng của ngân hàng, các kĩ thuật được sử dụng, cũng như nhu cầu cụ thể
của thị trường mục tiêu.
Qua quá trình nghiên cứu thực tế tại NHTMCP Á Châu em nhận thấy việc ứng dụng
marketing mặc dù đã được thực hiện nhưng vẫn chưa đầy đủ và có hệ thống do đó
hiệu quả đem lại cho ngân hàng chưa cao. Vì vậy em chọn vấn đề: “Hệ thống
chính sách Marketing tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu: Thực trạng
và giải pháp” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích thực trạng hoạt động marketing-mix của
ngân hàng TMCP Á Châu và chỉ ra nguyên nhân hạn chế trong chính sách. Từ đó
đưa ra các gợi ý nhằm hoàn thiện hơn hoạt động marketing-mix tại ngân hàng
1
TMCP Á Châu, trong đó chủ yếu tập trung vào việc cải thiện các dịch vụ hiện có
nhằm thoả mãn và thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Các thông tin cần thu thập bao gồm: thông tin về hoạt động kinh doanh, tình hình
tài chính của NHTMCP Á Châu, thông tin về thực trạng marketing tại NHTMCP Á
Châu đã và đang hoạt động.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là chính sách marketing-mix và hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu, nghiên cứu về nhu cầu của
khách hàng về sản phẩm dịch vụ ngân hàng và hệ thống chính sách, biện pháp để
thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở đó, hoàn thiện mối quan hệ
trao đổi giữa ngân hàng với khách hàng và thực hiện các mục tiêu đã xác định của
ngân hàng.
Phương pháp nghiên cứu: thu thập dữ liệu sơ cấp bằng phương pháp nghiên cứu
quan sát và thu thập dữ liệu thứ cấp qua các nguồn tài liệu, qua thu thập thông tin từ
báo chí, các tạp chí chuyên nghành, báo cáo thường niên…
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài của em nghiên cứu về toàn bộ hoạt động marketing của
NHTMCP Á Châu đã và đang thực hiện trên thị trường Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần
chính:
Chương I: Tổng quan về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu
Chương II: Thực trạng chính sách Marketing tại ngân hàng Thương mại Cổ
phần Á Châu
Chương III: Giải pháp hoàn thiện chính sách Marketing tại ngân hàng Thương
mại Cổ phần Á Châu
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN Á CHÂU
1. Lịch sử hình thành và phát triển NHTMCP Á Châu
1.1. Bối cảnh thành lập
Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về ngân hàng thương mại
(NHTM), hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành vào tháng 5 năm
1990 đã tạo dựng một khung pháp lý cho hoạt động NHTM tại Việt Nam. Trong bối
cảnh đó, ngân hàng Thương mại Cổ phần (NHTMCP) Á Châu (ACB) đã được thành
lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp ngày
24/04/1993, Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động.
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) là một ngân hàng thương mại cổ
phần Việt Nam đăng kí hoạt động tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu được Ngân hàng nhà nước Việt Nam
(NHNN) cấp giấy phép hoạt động số 0032/NH-GP ngày 24 tháng 4 năm 1993. Vốn
điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng Việt Nam cho thời hạn hoạt động 50 năm. Ngân hàng
bắt đầu hoạt động từ ngày 4 tháng 6 năm 1993. Hiện nay tính đến hết tháng
14/2/2006, vốn điều lệ của ngân hàng là 1100,047 tỷ đồng.
Tên Tiếng Anh: Asia Commercial Joint Stock Bank
Tên viết tắt: ACB
Logo của Ngân hàng:
- Ý nghĩa biểu tượng của ACB:
3
+ Logo ACB: ACB là chữ viết tắt của Asia Commercial Bank, nghĩa là Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Á Châu.
Màu sắc: Logo có màu xanh. Màu xanh là biểu trưng của niềm tin, hy vọng, sự trẻ
trung và năng động.
Ý nghĩa: Logo có 12 vạch chạy ngang ba chữ cái A, C, B và có vị trí trung tâm. Con
số 12 đại diện cho 12 tháng trong năm (thời gian), Các vạch ngang biểu trưng cho
dòng lưu thông tiền tệ (ngân lưu) trong hoạt động tài chính ngân hàng. Vị trí trung
tâm biểu trưng cho trạng thái cân bằng.Tổng quát lại, dòng lưu thông tiền tệ của
ACB luôn ở trạng thái ổn định, cân bằng giữa hai mặt an toàn và hiệu quả, và luôn
luôn như thế theo thời gian
Ngay từ khi thành lập ACB đã phải đối mặt với nhiều thách thức, nhưng với những
nỗ lực của mình, ACB đã tự khẳng định mình và có một chỗ đứng vững chắc, tạo
được uy tín cao trên thị trường. Đến năm 1994, vốn điều lệ của Ngân hàng đã tăng
lên 70 tỷ đồng theo quyết định số 143/QĐ-NH5 ngày 30/01/1994 của Ngân hàng
nhà nước Việt Nam. Trong năm 1998, vốn điều lệ của Ngân hàng được điều chỉnh
lên 341,428 tỷ đồng theo quyết định số 341/1998/QĐ-NH5 ngày 13/10/1998 và
quyết định 362/1998/QĐ-NH5 ngày 24/10/1998 của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam. Với số vốn điều lệ này, ACB đã được ngân hàng nhà nước Việt Nam đánh giá
là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần có vốn điều lệ lớn nhất tại Việt
Nam 5 năm (2006 - 2011) và tầm nhìn 2015.
1.2. Quá trình phát triển – các cột mốc đáng nhớ của NHTMCP Á Châu
Tầm nhìn, mục tiêu và chiến lược nêu trên được cổ đông và nhân viên ACB đồng
tâm bám sát trong suốt 13 năm hoạt động của mình và những kết quả đạt được đã
chứng minh rằng đó là các định hướng đúng đối với ACB. Đó cũng chính là tiền đề
giúp Ngân hàng khẳng định vị trí dẫn đầu của mình trong hệ thống NHTM tại Việt
Nam trong lĩnh vực bán lẻ. Dưới đây là một số cột mốc đáng nhớ của ACB:
-
04/6/1993: ACB chính thức hoạt động.
-
27/4/1996: ACB là NHTMCP đầu tiên của Việt Nam phát hành thẻ tín
dụng quốc tế ACBMasterCard.
-
15/10/1997: ACB phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Visa.
-
Năm 1997- Tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại: Công tác chuẩn bị
nhằm nhanh chóng đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân
hàng đã được bắt đầu tại ACB, dưới hình thức của một chương trình đào
4
tạo nghiệp vụ ngân hàng toàn diện kéo dài hai năm. Thông qua chương
trình đào tạo này ACB nắm bắt một cách hệ thống các nguyên tắc vận hành
của một ngân hàng hiện đại, các chuẩn mực trong quản lý rủi ro, đặc biệt
trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu điều chỉnh trong điều kiện
Việt Nam để áp dụng trong thực tiễn hoạt động ngân hàng.
-
Thành lập Hội đồng ALCO: ACB là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam
thành lập Hội đồng quản lý tài sản Nợ-Có (ALCO). ALCO đã đóng vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả của ACB.
-
Mở siêu thị địa ốc: ACB là ngân hàng tiên phong trong cung cấp các dịch
vụ địa ốc cho khách hàng tại Việt Nam. Hoạt động này đã góp phần giúp
thị trường địa ốc ngày càng minh bạch và được khách hàng ủng hộ. ACB
trở thành ngân hàng cho vay mua nhà mạnh nhất Việt Nam.
-
Năm 1999: ACB bắt đầu triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông
tin ngân hàng nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa hoạt động của ACB.
-
Năm 2000 - Tái cấu trúc: Với những bước chuẩn bị từ năm 1997, đến năm
2000 ACB đã chính thức tiến hành tái cấu trúc (2000 - 2004) như là một bộ
phận của chiến lược trong nửa đầu thập niên 2000. Cơ cấu tổ chức được
thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ trợ. Các khối kinh doanh gồm
có khối khách hàng cá nhân, khối khách hàng doanh nghiệp, khối ngân
quỹ. Các đơn vị hỗ trợ gồm có khối công nghệ thông tin, khối giám sát điều
hành, khối phát triển kinh doanh, khối quản trị nguồn lực và một số phòng
ban. Hoạt động kinh doanh của Hội sở được chuyển giao cho Sở Giao dịch.
Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo Ban Chiến lược, ban kiểm tra - kiểm soát
nội bộ, ban Chính sách và quản lý rủi ro tín dụng, ban đảm bảo chất lượng,
phòng Quan hệ quốc tế và phòng Thẩm định tài sản.
Cơ cấu tổ chức mới sau khi tái cấu trúc nhằm đảm bảo tính chỉ đạo xuyên
suốt toàn hệ thống. Sản phẩm được quản lý theo định hướng khách hàng và
được thiết kế phù hợp với từng phân đoạn khách hàng. Phát triển kinh
doanh và quản lý rủi ro được quan tâm đúng mức. Các kênh phân phối tập
trung phân phối sản phẩm dịch vụ cho khách hàng mục tiêu.
-
29/6/2000 - Tham gia thị trường vốn: Thành lập ACBS. Với sự ra đời công
ty chứng khoán, ACB có thêm công cụ đầu tư hiệu quả trên thị trường vốn
tuy mới phát triển nhưng được đánh giá là đầy tiềm năng. Rủi ro của hoạt
động đầu tư được tách khỏi hoạt động ngân hàng thương mại.
-
02/01/2002 - Hiện đại hóa ngân hàng: ACB chính thức vận hành TCBS.
5
-
06/01/2003 - Chất lượng quản lý: Đạt tiêu chuẩn ISO 9001:2000 trong các
lĩnh vực (i) huy động vốn, (ii) cho vay ngắn hạn và trung dài hạn, (iii)
thanh toán quốc tế và (iv) cung ứng nguồn lực tại Hội Sở.
-
14/11/2003 - Thẻ ghi nợ: ACB là NHTMCP đầu tiên của Việt Nam phát
hành thẻ ghi nợ quốc tế ACB-Visa Electron.
-
Trong năm 2003, các sản phẩm ngân hàng điện tử phone banking, mobile
banking, home banking và Internet banking được đưa vào hoạt động trên cơ
sở tiện ích của TCBS.
-
10/12/2004 - Công nghệ sản phẩm cao: Đưa ra sản phẩm quyền chọn vàng,
quyền chọn mua bán ngoại tệ. ACB trở thành một trong các ngân hàng đầu
tiên của Việt Nam được cung cấp các sản phẩm phái sinh cho khách hàng.
-
17/06/2005 - Đối tác chiến lược: SCB & ACB ký kết thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật.
Cũng từ thời điểm này, SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB. Hai bên
cam kết dựa trên thế mạnh mỗi bên để khai thác thị trường bán lẻ đầy tiềm năng
của Việt Nam
-
25/7/2006 – Khai trương Sàn giao dịch Dự án Bất động sản
-
21/11/2006 – Khai trương giao dịch cổ phiếu ACB. Khai trương trụ sở mới
công ty chứng khoán ACBS – chi nhánh Hà Nội. Lần đầu tiên ra mắt trên sàn
Hà Nội của cổ phiếu ACB
2. Cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ của NHTMCP Á Châu
Cơ cấu tổ chức của ACB nói chung về mặt nội dung tuân theo quy chế tổ chức và
hoạt động của Hội đồng quản trị, kiểm soát viên, người điều hành Ngân hàng, công
ty tài chính cổ phần theo quyết định số 166/QĐ-NH5 ngày 10/08/1994.
ACB đã thiết lập một cơ cấu quản trị điều hành phù hợp với các tiêu chuẩn về tổ
chức và hoạt động của ngân hàng thương mại (Nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày
12/9/2000 của Chính phủ) và các hướng dẫn về các tổ chức và hoạt động của hội
đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc ngân hàng TMCP Nhà nước và nhân
dân (Quyết định 1087/QĐ-NHNN ngày 27/08/2001 của Ngân hàng nhà nước)
Cơ cấu tổ chức của ACB bao gồm :
- Bảy khối: Khách hàng cá nhân, Khách hàng doanh nghiệp, Ngân quỹ, Phát triển
kinh doanh, Giám sát điều hành, Quản trị nguồn lực, Công nghệ thông tin.
- Bốn ban: Kiểm tra - Kiểm soát nội bộ, Chiến lược, Đảm bảo chất lượng, Chính
sách và Quản lý tín dụng.
- Hai phòng: Quan hệ Quốc tế, Thẩm định tài sản (trực thuộc Tổng giám đốc).
6
Có thể tóm tắt cơ cấu tổ chức của ngân hàng bằng sơ đồ sau:
7
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức ngân hàng
Đại Hội Đồng Cổ Đông
Ban kiểm soát
Hội Đồng Quản trị
Văn phòng HĐQT
Các Hội Đồng
Ban Tổng Giám Đốc
Khối
Khách hàng
cá nhân
Ban đảm bảo chất lượng
Ban Chiến lược
Ban kiểm tra- Kiểm soát
Nội bộ
Phòng Quan hệ Quốc tế
BanChính sách& Quản lý
Tín dụng
Phòng Thẩm định tài sản
Khối
Khách hàng
Doanh nghiệp
Khối
Ngân quỹ
Khối
Phát triển
kinh doanh
Khối
Giám sát
điều hành
Khối
Quản trị
Nguồn lực
Khối
Công nghệ
thông tin
Phòng Huy động Vốn và
DV Tài chính cá nhân
Phòng Phân tích
Tín dụng
Phòng Kinh doanh
Vốn
Phòng Hỗ trợ & Phát
triển Chi nhánh
Phòng Kế toán
Phòng Nhân sự
Phòng Kỹ thuật Công
nghệ Thông tin
Phòng Kinh doanh
Phòng Thanh toán
Quốc tế
Phòng Kinh doanh
Ngoại hối
Phòng
Marketing
Phòng
Quản lý rủi ro
Phòng
Hành chính
Phòng Hệ thống
Công nghệ thông tin
Phòng Tín dụng
Phòng Phân tích Sản
phẩm & Khách hàng
Phòng Kinh doanh
Vàng
Phòng Nghiên cứu
Thị trường
Phòng
Tổng hợp
Trung tâm Đào tạo
Phòng Phát triển
Công nghệ thông tin
Phòng Ngân hàng
Điện tử
Bộ phận Bao
Thanh toán
Phòng
Quản lý Quỹ
TT chuyển tiền Nhanh
ACB-Western Union
Ban Pháp chế
Phòng
Kỹ thuật Thẻ
Bộ phận Giám sát & Quản
lý Danh mục đầu tư
TT Dịch vụ Khách hàng
Tổng đài 247
Phòng Phân tích
Thông tin
Sở Giao dịch, Các chi nhánh,
Phòng Giao dịch & Trung tâm Thẻ
8
Trong đó chức năng và nhiệm vụ của ban quản trị điều hành như sau:
Hội đồng quản trị: gồm 12 thành viên, trong đó có 8 thành viên Việt
Nam và 4 thành viên nước ngoài, và không tham gia điều hành trực tiếp. Hội đồng
họp định kì hàng quý để thảo luận các vấn đề liên quan đến hoạt động của Ngân
hàng. Hội đồng có vai trò xây dựng định hướng chiến lược tổng thể và định hướng
hoạt động lâu dài cho Ngân hàng, ấn định mục tiêu tài chính giao cho Ban điều
hành. Hội đồng chỉ đạo và giám sát hoạt động của Ban điều hành thông qua một số
hội đồng và ban chuyên môn do Hội đồng thành lập như Ban Kiểm tra - Kiểm soát
nội bộ, Hội đồng Tín dụng, Hội đồng quản lý Tài sản Nợ và Tài sản Có, và Hội
đồng đầu tư, v.v.
Ban điều hành: gồm có Tổng giám đốc điều hành chung và 9 Phó tổng
giám đốc phụ tá cho Tổng giám đốc. Ban điều hành có chức năng cụ thể hóa chiến
lược tổng thể và các mục tiêu do HĐQT đề ra, bằng các kế hoạch và phương án
kinh doanh, tham mưu cho HĐQT các vấn đề về chiến lược, chính sách và trực tiếp
điều hành mọi hoạt động của Ngân hàng.
Ban kiểm tra - Kiểm soát nội bộ: Ban Kiểm soát Nội bộ được chính thức
thành lập ngày 13/03/1996, nay đổi tên là ban Kiểm tra - Kiểm soát nội bộ. Nhiệm
vụ của ban là kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động của các đơn vị thuộc hệ thống
ACB về sự tuân thủ pháp luật, các quy định pháp lý của ngành ngân hàng và các
quy chế, thể lệ, quy trình nghiệp vụ của ACB. Qua đó, ban Kiểm tra - Kiểm soát nội
bộ đánh giá chất lượng điều hành và hoạt động của từng đơn vị, tham mưu cho Ban
điều hành, cũng như đề xuất khắc phục yếu kém, đề phòng rủi ro, nếu có.
Hội đồng Tín dụng: được thành lập từ năm 1995. Hội đồng là cơ quan
cấp cao nhất về quản lý hoạt động tín dụng, thực hiện xét duyệt việc phân phối
nguồn vốn tín dụng cho khu vực kinh tế, ấn định hạn mức tín dụng cho các Ban tín
dụng chi nhánh, quyết định việc cho vay của Ngân hàng đối với các định chế tài
chính trong và ngoài nước, quyết định chuẩn mực tín dụng, giám sát chất lượng tín
dụng và xem xét các vấn đề khác liên quan đến hoạt động tín dụng. Hội đồng tín
dụng ra quyết định theo nguyên tắc nhất trí.
Hội đồng quản lý Tài sản Nợ và Tài sản Có (ALCO): được chính thức
thành lập vào ngày 05/07/1997. Hiện nay, Hội đồng có 11 người là thành viên
HĐQT, ban Tổng giám đốc, giám đốc khối. Hội đồng có nhiệm vụ xây dựng các chỉ
tiêu tài chính để quản lý tài sản nợ và tài sản có hữu hiệu và kịp thời; quản lý khả
năng thanh toán và chênh lệch thời gian đáo hạn của từng loại tiền tệ; quy định mức
dự trữ thanh khoản; quản lý rủi ro lãi suất, tỷ giá; quyết định về cấu trúc vốn và
nguồn vốn, chính sách lãi suất; và phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Hội đồng đầu tư: được chính thức thành lập ngày 11/01/1996. Hiện nay,
Hồi đồng có mười người là thành viên HĐQT, Ban điều hành, trưởng Ban pháp chế
và giám đốc đầu tư. Nhiệm vụ của Hội đồng là xem xét tính hiệu quả của dự án đầu
tư mà ACB quan tâm, ra quyết định đầu tư, xem xét và quyết định các vấn đề khác
liên quan đến hoạt động đầu tư.
Các lĩnh vực kinh doanh chính của ACB bao gồm:
Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn theo các hình thức tiền gửi tiết kiệm,
tiền gửi thanh toán, chứng chỉ tiền gửi
Tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư
Nhận vốn từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước
Cho vay ngắn, trung và dài hạn
Chiết khấu thương phiếu, công trái và các giấy tờ có giá
Đầu tư vào các tổ chức kinh tế
Làm dịch vụ thanh toán giữa khách hàng
Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc
Thanh toán quốc tế
Các dịch vụ khác…
Mục tiêu cụ thể của ACB đến 2010-2011 là: chiếm 10% thị phần huy động, 5% thị
phần cho vay của ngành ngân hàng Việt Nam.
3. Thị trường và đối thủ cạnh tranh
3.1. Khách hàng mục tiêu
Khách hàng là đối tượng mà ngân hàng phục vụ và là yếu tố quyết định sự thành
công hay thất bại của ngân hàng. Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu mà bản thân nhu
cầu lại không giống nhau giữa các nhóm khách hàng. Vì vậy, nhu cầu, mong muốn
và cách thức sử dụng dịch vụ của khách hàng sẽ là yếu tố quyết định cả về số lượng,
kết cấu, chất lượng dịch vụ và kết quả hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng phải
thường xuyên theo dõi khách hàng và dự đoán những thay đổi về nhu cầu của họ.
III
Khách hàng mục tiêu của ACB gồm:
- Cá nhân: Là những người có thu nhập ổn định tại các khu vực thành thị và vùng
kinh tế trọng điểm;
- Doanh nghiệp: Là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lịch sử hoạt động hiệu quả
thuộc những ngành kinh tế không quá nhạy cảm với các biến động kinh tế - xã hội.
Khách hàng mục tiêu của ACB theo ngành nghề kinh doanh bao gồm:
Thương mại
Nông lâm nghiệp
Sản xuất và gia công chế biến
Xây dựng
Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
Kho bãi, giao thông vận tải và thông tin liên lạc
Giáo dục và đào tạo
Tư vấn, kinh doanh bất động sản
Nhà hàng và khách sạn
Dịch vụ tài chính
Các ngành nghề khác
Trong đó khách hàng chủ yếu của ACB là dịch vụ cá nhân và cộng đồng - chiếm
gần 40% thu nhập của ngân hàng tính theo ngành nghề kinh doanh. Đứng thứ 2 là
khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực thương mại với tỷ trọng chiếm 30,12%. Đứng
thứ 3 là khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất và gia công chế biến với tỷ
trọng gần 22,62%.
3.2. Địa bàn mục tiêu
Là nơi khách hàng mục tiêu đang sống và làm việc.
Việc xác định khách hàng và địa bàn mục tiêu định hướng cho chiến lược mở rộng
mạng lưới của ACB từ năm 2004 đến 2010. Việc mở các chi nhánh và phòng giao
dịch mới của ACB nhằm đưa ngân hàng đến gần khách hàng mục tiêu để có thể
phục vụ được tốt nhất.
III
Khách hàng của ACB được phân theo khu vực địa lý như sau:
Khu vực thành phố Hồ Chí Minh
Khu vực đồng bằng sông Cửu Long
Khu vực miền Trung
Khu vực miền Bắc
Gần 80% thu nhập của ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu tập trung tại khu
vực thành phố Hồ Chí Minh. Khu vực miền Bắc chỉ chiếm khoảng 13,6% thu nhập
của ngân hàng. Còn lại là khu vực miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long
3.3. Đối thủ cạnh tranh
Trong hệ thống tài chính hiện đại với sự ra đời ngày càng nhiều của các định chế tài
chính ngân hàng và phi ngân hàng cùng với sự phát triển mạnh của các công cụ tài
chính mới thì hoạt động ngân hàng sẽ chịu nhiều tác động lớn, làm tăng tính cạnh
tranh và khả năng bị thu hẹp thị trường lớn hơn.
Với sự cạnh tranh gia tăng từ các công ty môi giới tài chính, bảo hiểm, phi ngân
hàng và các tổ chức khác, các ngân hàng nói chung cũng như ngân hàng Thương
mại Cổ phần Á Châu nói riêng phải luôn nỗ lực để tìm cách giữ chân khách hàng
tiềm năng của mình. Điều đó khiến cho các ngân hàng ngày càng phải có nhiều nỗ
lực Marketing mới, khuyếch trương thương hiệu, đối mới nhãn mác sản phẩm cũng
như các quyết định về giá cả (lãi suất), cải tiến dịch vụ chăm sóc khách hàng, mở
rộng phạm vi tiêu thụ sản phẩm, liên doanh, liên kết để có thể tung vào thị trường
sản phẩm mới, dịch vụ mới.
Sự phát triển của thương mại điện tử đã mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít
khó khăn cho các ngân hàng nói chung và ACB nói riêng. Các công ty phi ngân
hàng đang lấn sân trong việc cung cấp dịch vụ thanh toán cho các giao dịch thanh
toán qua mạng và kinh doanh ngoại hối. Điều này làm tăng nguy cơ giảm lượng
khách hàng của ngân hàng và tăng áp lực cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính và
các ngân hàng.
Những đòi hỏi khách quan và chủ quan đã thúc đẩy hệ thống ngân hàng trong thời
gian qua tiến hành cải cách mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, tạo cho hệ thống ngân
hàng cũng ngày càng phát triển cả về qui mô, chất lượng hoạt động, làm tăng độ sâu
tài chính, sức cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính ngày càng
đa dạng. Để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, nhiều chi nhánh ngân hàng nước
III
ngoài và các NHTM cổ phần trong nước và ngân hàng liên doanh đã được thành lập
và phát triển: Những năm 1990 -1991, các trung gian tài chính ở Việt Nam chỉ bao
gồm 4 NHTM Nhà nước và 10 NHTM cổ phần và số ít các hợp tác xã tín dụng
(chưa có chi nhánh ngân hàng nước ngoài...), đến năm 1992, thành lập thêm 5 chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng liên doanh và đến đầu năm 2007, tổng số
các TCTD đã lên tới 79 (bao gồm 6 TCTD Nhà nước, 31 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 37 NHTM cổ phần), 1 ngân hàng liên doanh. Ngoài
ra, còn có Quỹ tín dụng Trung ương với 24 chi nhánh và gần 940 quĩ tín dụng nhân
dân cơ sở, 6 công ty tài chính, 11 công ty thuê mua tài chính, quĩ đầu tư và công ty
bảo hiểm. Cùng với việc phát triển số lượng các trung gian tài chính, thì qui mô
hoạt động của từng trung gian tài chính cũng phát triển mạnh, chỉ xét khối NHTM
Nhà nước, qui mô tổng tài sản có đến tháng 6/2006, tăng hơn 15 lần so với tổng tài
sản có năm 1994. Các NHTM cổ phần đã có những bước đột phá trong phát triển,
nhất là trong 2 năm 2005 - 2006. Vốn điều lệ của các NHTMCP tăng mạnh (riêng
NHTM cổ phần đô thị vốn điều lệ đến 9/2006 tăng hơn gấp đôi năm 2004) và một
số ngân hàng có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Sự gia tăng mạnh giá
cổ phiếu của một số ngân hàng TMCP niêm yết trên thị trường chứng khoán và trên
thị trường OTC cũng phần nào phản ánh sự lớn mạnh của các NHTM cổ phần. Mặt
khác, trong suốt thời gian cải cách, nhiều điều kiện hoạt động được nới lỏng cho các
ngân hàng nước ngoài, song thị phần của khối ngân hàng nước ngoài hầu như không
tăng (chỉ chiếm trên dưới 10%).
Số lượng như vậy có thể xem là khá nhiều so với qui mô nền kinh tế Việt Nam do
vậy sự cạnh tranh của các ngân hàng sẽ rất mạnh. Xét về mức độ cạnh tranh của hệ
thống ngân hàng, đã có sự gia tăng mạnh mẽ, nhất là những năm gần đây. Sự xuất
hiện của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cải thiện đáng kể hiệu quả hoạt động
và khả năng cạnh tranh của các NHTM trong nước. Trên thực tế từ năm 1991 đến
2005, mức độ cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được nâng cao rõ
rệt: Tổng tài sản có/GDP tăng từ mức 31,1%% GDP năm 1992 lên 107% GDP năm
2005, độ sâu tài chính tăng mạnh như đề cập phần trên, lãi suất cũng đã được tự do
hoá, tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng cũng đã giảm từ 13,7%
năm 1992 xuống còn 3,17% năm 2005… Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập
WTO và thực hiện đầy đủ các cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, các
ngân hàng nước ngoài sẽ có cơ hội được cung cấp nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng
mà hiện nay vẫn chỉ là độc quyền của các ngân hàng trong nước, như phát hành thẻ
nội địa tại thị trường trong nước hay cung cấp các dịch vụ tín dụng không hạn chế
cho các khách hàng trong nước. Với các thế mạnh về uy tín, mạng lưới toàn cầu,
III
công nghệ cao và kinh nghiệm lâu năm, đây sẽ là lực lượng cạnh tranh rất mạnh mẽ
trên thị trường dịch vụ ngân hàng của Việt Nam.
Tuy nhiên cũng do đặc điểm của hoạt động kinh doanh ngân hàng là tính thông
dụng, sản phẩm đơn điệu, khách hàng như nhau nên đôi khi sự hoạt động độc lập của
từng ngân hàng lẻ lại là một hạn chế, gây nên sự nhàm chán và dịch vụ chồng chéo.
Do đó các tổ chức tài chính và các ngân hàng có thể bắt tay hợp tác để cùng nhau
đưa ra sản phẩm mới hoặc liên kết với nhau để phục vụ khách hàng tốt hơn. Từ đó
hình thành xu thế mới trong hoạt động kinh doanh ngân hàng đó là hợp tác kinh
doanh cùng phát triển. Các ngân hàng đã cùng nhau bắt tay với đối thủ cạnh tranh để
khẳng định và hậu thuẫn cho những sản phẩm dịch vụ nào đó với chi phí phát triển
và ứng dụng công nghệ trong toàn ngành có thể giảm xuống mức hợp lý, để từ đó có
thể giảm giá và đem lại cho khách hàng nhiều lợi ích hơn. Xu hướng trên không
những không làm giảm lợi nhuận mà còn có thể làm tăng thị phần của các ngân
hàng.
Trước thực trạng và xu hướng phát triển như trên các ngân hàng ở Việt Nam luôn cố
gắng để phát huy được những điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu của mình để
ngày càng hoàn thiện hơn các dịch vụ mà ngân hàng mình cung cấp.
3.4. Các đối tác chiến lược khác
Các khoản đầu tư của Tập đoàn vào các đơn vị khác với tỷ lệ đầu tư dưới 11% bao gồm:
Bảng 1.1: Cơ cấu đầu tư của Tập đoàn
Tên
Công ty Cổ phần Sài Gòn- Phú Quốc
Công ty cổ phần(CTCP) Bảo hiểm
Nhà Rồng(Bảo Long)
CT Bất động sản Togi
CT Thương mại và dich vụ Đông Anh
CTCP Thể thao ACB
CT Kính mắt Sài Gòn
CT Thương mại và du lich Sài Gòn
CTCP Thủy Tạ
CTCP Sông Tân
CTCP Thương mại, sản xuất và dịch
vụ Bình Chánh
CT Đào tạo Ngân hàng
CTCP Khu công nghiệp Tân Tạo
III
Ngày
31/12/2005
Nguyên giá
triệu đồng
1901
7700
Ngày
31/12/2004
Nguyên giá
triệu đồng
1714
7700
Bất động sản
Thương mại, dich vụ
Thể thao
Mắt kính
Du lịch, thương mại
Thương mại, sản xuất
Kinh doanh cơ sở hạ
tầng KCN
Kinh doanh thủy sản
1000
1000
300
1076
638
8681
16000
1000
1000
300
1076
638
-
4785
-
Đào tạo ngân hàng
Kinh doanh cơ sở hạ
310
30000
150
2580
Ngành nghề kinh
doanh
Nhà hàng, khách sạn
Bảo hiểm
tầng KCN
Ngân hàng TMCP Việt Á
Ngân hàng
Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu VN Ngân hàng
Ngân hàng TMCP Gia Định
CTCP Chuyển Mạch Tài chính
CT Thương mại,sản xuât và dịch vụ
Đại Cát Hoàng Long
CTCP Đầu tư và phat triển Bình Thăng
CTCP Khu công nghiệp Đức Hòa III
CTCP Lụa Châu Á
CTCP Dược phẩm 3/2
CTCP Viconship
CTCP Du lịch Sài gòn
CTCP Tân Uyên
Tổng cộng
Ngân hàng
Dịch vụ tài chính
Sản xuất, dịch vụ
Phát triển KCN
Phát triển KCN
Dệt may
Dược phẩm
Vận tải
Du lịch
Vật liệu xây dựng
1430
17759
14019
500
10000
84
1238
12272
1000
3710
2527
1092
125003
-
500
10000
1238
3347
5400
50662
(Nguồn: Báo cáo thường niên ACB 2005)
4. Điều kiện kinh doanh của ngân hàng TMCP Á Châu
4.1. Cơ cấu sở hữu vốn, tài sản
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu là một ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam đăng ký tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp giấy phép hoạt động
số 0032/NH-GP ngày 24 tháng 4 năm 1993. Vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng Việt
Nam cho thời gian hoạt động 50 năm.Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 4 tháng
6 năm 1993. Vốn điều lệ của Ngân hàng tại ngày 31 tháng 12 năm 2006 là
1.100,047 tỷ đồng. Tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 9/3/2007, ngân hàng TMCP Á
Châu đã tổ chức Đại hội đồng cổ đông, quyết định điều chỉnh kế hoạch hoạt động
năm 2007 trong đó có tăng vốn điều lệ theo 3 đợt với tổng mức tăng lên tới 1.530 tỷ
đồng.
Hội sở chính của Ngân hàng đặt tại số 442, đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3,
thành phố Hồ Chí Minh. Ngân hàng có 81 chi nhánh và phòng giao dịch trên cả nước.
Ngân hàng sở hữu 2 công ty con là Công ty chứng khoán ACB (ACBS) thành lập
theo giấy phép số 06/GP/HĐKD ngày 29 tháng 06 năm 2000 và Công ty Quản lý
Nợ và Khai thác tài sản Ngân hàng Á Châu (ACBA) thành lập theo giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh số 4104000099 ngày 11 tháng 10 năm 2004
Những nhà xưởng, tài sản thuộc sở hữu của Ngân hàng Á Châu:
Bảng 1.2: Danh mục tài sản của Ngân hàng
ĐVT: Triệu đồng
III
CHỈ TIÊU
31/12/2005
30/9/2006
Trụ sở làm việc
Máy móc thiết bị
Phương tiện vận
tải
Tài sản cố định
khác
Tổng cộng
Nguyên
giá
GT còn
lại
%
GTCL/NGiá
Nguyên GT còn
%
giá
lại
GTCL/NG
173.80
4
84.411
46.881
159.293
91,7%
254.629
56.756
37.836
67,2%
80,1%
7.011
3.995
312.10
7
257.880
92,28%
120.891
49.122
234.98
2
76.053
34.881
57,0%
10.531
6.645
63,10%
82,6%
435.173
352.56
1
81,02%
62,91%
71,01%
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2005)
4.2.Các yếu tố môi trường kinh doanh
4.2.1. Môi trường chính trị-luật pháp
Ngân hàng là một trong những ngành đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế
do vậy nó chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan Chính phủ thông qua các quy
định pháp luật.
a.
Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước ảnh hưởng tới sự phát triển các dịch
vụ Ngân hàng thương mại
Chính sách kinh tế vĩ mô tổng thể tác động định hướng và điều hành nền kinh tế
nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản. Chính sách đó càng tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua khu vực sản xuất đến lĩnh vực Ngân hàng. Một nền kinh đóng
bắt buộc các ngân hàng hướng về việc khai thác các nguồn vốn trong nước một cách
đơn điệu, các hoạt động ngân hàng bị bó hẹp trong các quan hệ kinh tế với các
doanh nghiệp nội địa đang còn yếu kém và có nhu cầu về vốn cao. Ngược lại, trong
một nền kinh tế mở, khả năng huy động vốn của ngân hàng tăng lên, nguồn vốn từ
bên ngoài vào qua nhiều hình thức để mở ra các lĩnh vực đầu tư. Bên cạnh đó khả
năng bị tác động bởi những ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế cũng tăng
lên trên nhiều mặt mà trước hết đó là sự cạnh tranh về công nghệ kỹ thuật và nguồn
vốn dồi dào của các ngân hàng quốc tế.
b. Chính sách tài chính và ngân sách quốc gia
Như chính sách cấp vốn đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh và các
doanh nghiệp, nếu coi ngân hàng như một doanh nghiệp đặc biệt thì mỗi ngân hàng
đều phải được cấp vốn điều lệ ban đầu tương ứng với quy mô và khả năng kinh
III
doanh của nó. Cũng như vậy các doanh nghiệp nhà nước đều phải được nhà nước
cấp vốn, các doanh nghiệp tư nhân cổ phần phải có đủ nguồn lực tài chính khi bắt
đầu sản xuất kinh doanh. Nếu như khả năng cấp vốn và vốn tự có của các doanh
nghiệp được xử lý thỏa đáng thì sức ép về vốn đối với các ngân hàng sẽ giảm, rủi ro
tín dung càng hạn chế hơn.
Các chính sách về thuế và các hệ thống thuế sẽ quyết định đến mức lợi nhuận và
khả năng tích lũy để phòng chống rủi ro của các ngân hàng. Hệ thống thuế đánh vào
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng gián tiếp ảnh hưởng đến ngân hàng và
những thay đổi về chính sách thuế đối với các doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp tới
chi phí sản xuất, giá thành và kế hoạch tài chính lợi nhuận. Nếu mức thuế tăng lên,
việc trả nợ của các doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng.
Chính sách giá cả của nhà nước có vai trò định hướng và điều tiết thị trường hàng
hóa. Sự thay đổi và biến động về giá cả đã đặt ra nhiều vấn đề cho các doanh nghiệp
và các ngân hàng nhất là khi giá cả hàng hóa bị thả nổi, tốc độ tăng giá nhanh ảnh
hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Lạm phát tăng làm cho
các ngân hàng huy động vốn khó khăn hơn vì người chuyển tiền muốn chuyển tiền
từ giá trị tiền tệ sang giá trị bằng hiện vật, rủi ro tín dụng tăng lên, tỉ giá và trạng
thái ngoại hối sẽ biến động.
Một số thách thức và khó khăn cần khắc phục, tháo gỡ khi gia nhập WTO:
Trước hết, đối với NHNN, gia nhập WTO đã cho thấy hệ thống pháp luật ngân hàng
còn thiếu, chưa đồng bộ và một số điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Hệ
thống chính sách, pháp luật ngân hàng còn có phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ
chức tín dụng, giữa các nhóm ngân hàng, giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng
nước ngoài, tạo nên sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Những điều đó đặt ra thách thức
sửa đổi nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng thông thoáng theo nguyên tắc
không phân biệt đối xử của WTO. Ngoài ra, hệ thống pháp luật của Việt Nam còn
chứa đựng nhiều hạn chế mang tính định lượng áp dụng đối với các tổ chức tín
dụng trong nước và mâu thuẫn với một số nội dung của GATS và Hiệp định
Thương mại Việt - Mỹ. Cơ cấu tổ chức của NHNN chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt
động có hiệu lực của một hệ thống được quản lý tập trung thống nhất. Đáng chú ý
hơn, hội nhập quốc tế sẽ làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro hệ thống ngân hàng.
Trong khi đó, các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ chưa được đổi mới kịp
thời, năng lực điều hành chính sách tiền tệ cũng như giám sát hoạt động ngân hàng
của NHNN vẫn còn hạn chế, thiếu sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành liên
quan.
III
Đối với các NHTM, gia nhập WTO đồng nghĩa với sự gia tăng áp lực cạnh tranh từ
phía các ngân hàng nước ngoài với năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ, trình độ
quản lý và hệ thống sản phẩm đa dạng, có chất lượng cao hơn và có thể đáp ứng nhu
cầu đa dạng của khách hàng. Các NHTM Việt Nam sẽ gặp khó khăn rất lớn do đồng
thời phải hướng các hoạt động ra thị trường bên ngoài và cạnh tranh với các ngân
hàng nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam mới
chỉ đề cập đến một vài nội dung của chính sách cạnh tranh, chưa có chính sách
thống nhất để quản lý có hiệu quả hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và
hầu như chưa chú ý đến việc nghiên cứu xây dựng chính sách nhà nước đối với
cạnh tranh ngân hàng. Thậm chí, các ngân hàng cũng chưa kịp thời chú trọng phát
triển các sản phẩm và dịch vụ mới, công nghệ chưa được coi là công cụ hàng đầu để
nâng sức cạnh tranh, dịch vụ cung cấp vì thế còn nghèo nàn, thiếu an toàn.
Như vậy có thể thấy rằng những thay đổi của môi trường pháp lý đã đem đến cho
lĩnh vực kinh doanh ngân hàng một loạt các cơ hội mới và cả thách thức mới. Nếu
những thay đổi đó có lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng như việc quy
định lãi suất thỏa thuận sẽ làm cho các ngân hàng linh hoạt hơn trong việc huy động
tiền gửi và cho vay đối với khách hàng, hoặc cũng có thể đặt cho các ngân hàng
trứoc những nguy cơ cạnh tranh mới như những thay đổi trong Luật ngân hàng của
một nước cho phép thành lập các ngân hàng nước ngoài sẽ đặt các ngân hàng của
nước đó vào tình thế bị cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Do vậy, các ngân hàng phải thường xuyên nắm bắt được những thay đổi của các
quy định pháp luật để chủ động điều chỉnh hoạt động kinh doanh cho phù hợp với
những quy định mới. Bên cạnh đó, phải phân tích và dự báo xu hướng thay đổi của
môi trường luật pháp cũng như xu hướng toàn cầu hóa thị trường tài chính ngân
hàng sẽ tác động đến cách thức điều tiết, kiểm soát của ngân hàng trung ương đối
với các ngân hàng thương mại và các quy định của các tổ chức tài chính thương mại
quốc tế có những liên quan đến hoạt động của ngân hàng như AFTA, WTO…
4.2.2. Môi trường văn hóa-xã hội
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng cũng bị chi phối khá nhiều bởi các yếu tố văn
hóa. Mỗi đất nước, mỗi vùng, mỗi miền có môi trường văn hóa khác nhau. Nó có
ảnh hưởng đến nhu cầu của khách hàng trong việc sử dụng các sản phẩm của ngân
hàng. Do vậy, môi trường văn hóa là một trong những yếu tố được các nhà kinh
doanh ngân hàng nghiên cứu kỹ lưỡng trong việc ra các quyết định kinh doanh của
mình.
III
Văn hóa được định nghĩa là một hệ thống giá trị, quan điểm, niềm tin, truyền thống
và các chuẩn mực hành vi đơn nhất với một nhóm người cụ thẻ nào đó được chia sẻ
một cách cụ thể. Ví dụ như thói quen sử dụng và cất giữ tiền tệ, sự hiểu biết của dân
chúng về hoạt động ngân hàng. Văn hóa bao gồm rất nhiều các yếu tố như trình độ
văn hóa, thói quen tiêu dùng của người dân, vấn đề tâm lý…
Vấn đề tâm lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng của
người dân. Ví dụ, nếu người dân có tâm lý không tin tưởng vào ngân hàng thì họ sẽ
không gửi tiền vào ngân hàng mà cất giữ dưới dạng tiền mặt, vàng bạc, đá quý;
hoặc có thể rút tiền một cách ồ ạt nếu có thông tin không tốt về ngân hàng.
Trình độ văn hóa của người dân cũng ảnh hưởng tới nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân
hàng của họ. Những người có trình độ văn hóa cao sẽ hiểu được những tiện ích của
việc giao dịch với ngân hàng, còn những người có trình độ văn hóa thấp họ sẽ
không tin tưởng ngân hàng và thay vào đó là cất giữ tiền ở nhà.
Tập quán, thói quen của người dân sẽ ảnh hưởng lớn tới hành vi và nhu cầu sản
phẩm dịch vụ ngân hàng. Ví dụ, ở Việt Nam, người dân có thói quen tiêu tiền mặt,
do vậy việc phát hành các loại hình thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng
trong dân cư gặp nhiều khó khăn. Hoặc những người có thói quen ngại đến ngân
hàng gửi tiền, điều này cũng làm giảm nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng.
Văn hóa là rào cản rất lớn khi ngân hàng muốn thâm nhập vào thị trường mới. Việc
nghiên cứu các yếu tố thuộc môi trường văn hóa không những để xác định rõ các
tác động của chúng tới hành vi sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và lựa chọn
ngân hàng của khách hàng, mà còn giúp các nhà quản trị ngân hàng chủ động trong
việc thiết kế mô hình tổ chức phù hợp với đặc điểm văn hóa từng vừng, từng khu
vực thị trường trong cả nước và quốc tế, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngân hàng.
4.2.3. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến sức mua và cơ cấu chi tiêu
của người tiêu dùng. Chúng chịu tác động bởi các yếu tố sau đây: thu nhập hiện tại
(mức thay đổi, tỷ lệ thay đổi và xu thế thay đổi của nó), tỷ lệ xuất nhập khẩu, tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc dân, tỷ lệ lạm phát, sự ổn định về kinh tế,
chính sách đầu tư, tiết kiệm của Chính phủ…
III
Xu hướng thắt chặt tiền tệ thế giới đã có một số tác động đối với Việt Nam trong
điều kiện hiện nay. Xu hướng thắt chặt tiền tệ của các nước phát triển có ảnh hưởng
đáng kể đối với các nước mới nổi và đang phát triển. Theo nghiên cứu của một số
chuyên gia kinh tế thì sự chậm trễ của các nước đang phát triển trước xu hướng thắt
chặt tiền tệ của các nước phát triển có nhiều khả năng dẫn đến một số hậu quả như
lạm phát tăng cao, đồng bản tệ mất giá, qua đó có thể dẫn đến mất cân đối kinh tế vĩ
mô. Xu hướng thắt chặt tiền tệ trên thế giới có tác động nhất định đối với Việt Nam
thông qua ảnh hưởng đến lãi suất và tỷ giá, qua đó ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu, diễn biến luồng vốn vào, ra Việt Nam... Điều này đòi hỏi chính sách vĩ mô
nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng phải có sự điều chỉnh và phản ứng kịp thời,
phù hợp với bối cảnh kinh tế.
Ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu
Những lo ngại về sức ép lạm phát gia tăng ở Mỹ, thâm hụt thương mại của Mỹ cũng
có dấu hiệu gia tăng, trong khi từ quý II/2006, kinh tế Mỹ có dấu hiệu tăng trưởng
chậm lại là những nguyên nhân chủ yếu khiến cho đồng USD đứng trước nguy cơ
giảm giá mạnh. Trên thực tế, đồng USD đã giảm giá so với hầu hết các đồng tiền
chủ chốt trên thế giới (đến cuối tháng 9/2006, giảm gần 8,99% so với GBP, khoảng
7,25% so với EUR và giảm khoảng 0,26% so với JPY...).
Đối với trường hợp của Việt Nam, từ năm 2004 đến nay, do ảnh hưởng của tăng giá
dầu và các sản phẩm đầu vào trên thị trường thế giới, lạm phát trong nước gia tăng
mạnh. Nếu như các yếu tố khác không thay đổi thì đồng Việt Nam có nhiều khả
năng bị giảm giá mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế, đồng đô la Mỹ mất giá mạnh so với
các đồng tiền chủ chốt; Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và
luồng ngoại tệ vào Việt Nam tiếp tục gia tăng mạnh do hội nhập và cải thiện môi
trường đầu tư. Do vậy, đồng Việt Nam chỉ giảm giá nhẹ so với đồng USD.
Theo một số nghiên cứu, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là gạo, dầu thô,
hàng may mặc... Việc mở rộng xuất khẩu các mặt hàng này chủ yếu phụ thuộc vào
giá cả trên thị trường quốc tế, khả năng mở rộng thị trường hơn là phụ thuộc vào
ảnh hưởng của tỷ giá.
Trên thực tế, trong năm 2006, xuất khẩu của Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng. Trong
6 tháng đầu năm, Việt Nam đã đạt thặng dư cán cân thương mại 195 triệu USD.
Trong nửa cuối năm 2006, nhu cầu nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết
bị phục vụ sản xuất tăng cao hơn những tháng đầu năm, nên cán cân thương mại đã
chuyển sang thâm hụt. Song với việc tiếp tục mở rộng hoạt động xuất khẩu với các
III
- Xem thêm -