TIỂU LUẬN:
Hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân
sách cấp quận, huyện cho giáo dục
(qua thực tế quận Hoàng Mai)
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cùng với sự đổi mới chung của đất nước và thực hiện chương trình tổng thể
về cải cách hành chính nhà nước, trong những năm qua quản lý ngân sách nhà
nước đã có những đổi mới, cải cách và đạt được những kết quả quan trọng, đặc
biệt là từ khi Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khoá XI thông qua ngày
16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004 với mục tiêu và ý nghĩa
quan trọng trong việc quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, phát triển kinh tế xã
hội, tăng cường tiềm lực tài chính đất nước, quản lý thống nhất nền tài chính quốc
gia, xây dựng ngân sách nhà nước lành mạnh, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và tài
sản nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Sự nghiệp giáo dục của nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Giáo dục chính là nền tảng văn hoá, là cơ
sở hình thành nhân cách, phẩm chất và ý thức của mỗi cá nhân trong xã hội. Nhân
tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế chính là con người, là nguồn nhân lực. Chình vì vậy phải đầu tư cho con
người ngay từ khi con người được hình thành bào thai mẹ, các cấp tiểu học trung
học cơ sở, đây chính là giai đoạn nền tảng quan trọng tạo lập cho con người cả về
chất và lượng để chuẩn bị lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của đất
nước.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH-HĐH trong những năm qua chi ngân sách cho
hoạt động giáo dục nói chung, chi ngân sách cho giáo dục quận Hoàng Mai, thành
phố Hà Nội nói riêng đã không ngừng tăng lên theo từng năm đã góp phần quan
trọng vào quá trình phát triển giáo dục của thành phố Hà Nội. Tuy nhiên thực trạng
hiện nay công tác quản lý chi ngân sách nhà nước của quận Hoàng Mai còn nhiều
hạn chế đặc biệt là vấn đề chi ngân sách cho giáo dục, định mức phân bổ vẫn chưa
thật sự gắn liền với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, đội ngũ giáo viên, cơ
sở vật chất. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài
chính của các trường tiểu học và THCS của quận Hoàng Mai còn hạn chế, các
trường không thể tiết kiệm để tăng thêm thu nhập cho giáo viên và tăng cường cơ sở
vật chất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Xuất phát từ những yêu cầu, hạn chế nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Hoàn
thiện cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục (qua thực tế
quận Hoàng Mai).
2. Tình hình nghiên cứu:
Hiện đã có rất nhiều những đề tài đã nghiên cứu liên quan đến quản lý ngân
sách đối với giáo dục như:
- Đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý tài chính đối với hoạt động giáo dục
phổ thông trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” (2006). Luận án thạc sỹ của Phạm Thị
Minh Việt (2006).
- Đề tài “Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập trên
địa bàn tỉnh Hưng Yên, thực trạng và giải pháp” (2009). Luận án thạc sỹ kinh tế
của Đặng Thị Hạnh.
- Đề tài “ Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường trung học
phổ thông công lập ở tỉnh Ninh Bình” (2010) Luận án thạc sỹ kinh tế của Đỗ Thị
Phương Thảo.
-Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục ở
tỉnh Nghệ An” (2011). Luận án thạc sỹ kinh tế của Hồ Thị Xuân
- Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách cấp huyện ở Việt Nam (lấy ví
dụ ở huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh)”.
- Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của các trường Đại học và cao đẳng ở Việt Nam (2007). Luận án thạc sỹ kinh
tế của Học viện Tài chính.
- Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của các trường Đại học và Cao đẳng ở Việt Nam”. Luận văn thạc sỹ của
Nguyễn Thị Ngân Hà, - học viện Tài chính
- Đề tài “Đổi mới cơ chế chính sách tài chính trong quá trình xã hội hoá hoạt
động giáo dục đại học tại Việt Nam”. Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Quốc Huy,
trường Đại học Kinh tế quốc dân..
…
Nhưng tất các các đề tài trên chưa có đề tài nào nghiên cứu về quản lý cơ chế
chi ngân sách cho giáo dục cấp quận, huyện dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy
đề tài vẫn có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích:
Vận dụng lý luận về ngân sách nhà nước và quản lý ngân sách nhà nước, chi
ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo, tầm quan trọng của giáo dục nói chung
đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó đi sâu phân tích, đánh giá thực
trạng và hạn chế của cơ chế chi ngân sách đối với hoạt động giáo dục của quận
Hoàng Mai trong những năm qua.
Nhiệm vụ:
+ Khái quát lại những lý luận cơ bản về ngân sách, cơ chế quản lý chi ngân
sách cấp quận, huyện cho giáo dục đào tạo.
+ Khảo sát, phân tích thực trạng cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục
trên địa bàn quận Hoàng Mai từ năm 2006-2010.
+ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế
quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận,
huyện cho giáo dục
- Về không gian: quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
- Thời gian : Từ năm 2006-2010
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để phân tích
cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục đồng thời sử dụng kết
hợp các phương pháp điều tra, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát
hoá để làm rõ nội dung nghiên cứu.
6. Đóng góp về lý luận thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ chế quản lý chi
ngân sách nhà nước cho giáo dục. Đánh giá thực trạng cơ chế quản lý chi ngân
sách nhà nước cho giáo dục quận Hoàng Mai.
Với kết quả nghiên cứu đó, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh
đạo, điều hành quản lý chi ngân sách nói chung và cơ chế quản lý chi ngân sách
cho giáo dục nói riêng, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn quận Hoàng Mai.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được trình bày thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về hoàn thiện cơ chế quản
lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục .
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý chi NSNN cho giáo dục quận Hoàng
Mai, thành phố Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế quản
lý chi NSNN của quận Hoàng Mai cho giáo dục.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ HOÀN THIỆN CƠ
CHẾ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH CẤP QUẬN, HUYỆN CHO GIÁO DỤC,
ĐÀO TẠO
1.1. Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục,
đào tạo cấp quận, huyện
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước và chi ngân sách Nhà
nước cho giáo dục
1.1.1.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước (NSNN)
- NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao giờ cũng gắn liền với sự
xuất hiện, tồn tại của Nhà nước phát triển đến một trình độ nhất định. Sự xuất hiện
của Nhà nước trong lịch sử đòi hỏi phải có những nguồn lực tài chính để đáp ứng
chi tiêu nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
NSNN là dự toán thu - chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời
gian nhất định (thường là một năm). Như vậy, NSNN là một kế hoạch tài chính cơ
bản của quốc gia, trong đó gồm kế hoạch thu, kế hoạch chi và được lập theo
phương pháp cân đối (thu phải đủ chi, chi không vượt thu).
Theo Luật NSNN Việt Nam thì: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
- Về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi
bằng tiền của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường là một năm. Đạo luật
này được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành.
- Về bản chất kinh tế: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa
Nhà nước và xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các
nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Các quan hệ kinh tế này bao gồm:
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các đơn vị sự nghiệp công.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các hoạt động tài chính đối ngoại.
1.1.1.2. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục:
Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục gắn liền với cơ cấu, nhiệm vụ của
NSNN cho ngành giáo dục trong mỗi giai đoạn lịch sử và được xem xét ở các giác
độ khác nhau. Nó nằm trong mối quan hệ giữa NSNN với đơn vị sự nghiệp công.
Nội dung chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục gồm:
- Chi ngân sách cho hệ thống các trường học có:
+ Chi ngân sách cho hệ thống các trường mầm non và các trường phổ thông
+ Chi ngân sách cho các trường đại học, các học viện, các trường cao đẳng,
các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
+ Chi cho các trường Đảng, đoàn thể
- Chi ngân sách cho các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục - đào tạo như:
Bộ giáo dục đào tạo, Sở giáo dục, phòng giáo dục....
Theo cách phân loại chi NSNN theo yếu tố và phương thức quản lý các
khoản chi cho giáo dục bao gồm:
- Chi thường xuyên: Căn cứ vào đối tượng của việc sử dụng kinh phí NSNN
có thể chia thành 4 nhóm mục chi sau:
+ Các khoản chi cho con người: Chi lương, các khoản phụ cấp theo lương,
chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, chi phúc lợi tập thể cho
giáo viên, cán bộ nhân viên, chi học bổng và trợ cấp cho học sinh sinh viên, tiền
công....
+ Chi về quản lý hành chính, chi về công tác phí, công vụ phí, điện nước,
xăng xe, văn phòng phẩm, chi hội nghị về công tác quản lý.
+ Chi cho hoạt động chuyên môn: Chi mua tài liệu, đồ dùng giảng dạy và học
tập chi hội thảo, hội giảng, chi cho các lớp bồi dưỡng học sinh bồi dưỡng chuyên
môn, các hoạt động chuyên đề về chuyên môn.
+. Chi mua sắm, sửa chữa, xây dựng nhỏ phục vụ cho hoạt động chuyên
môn như: Mua sắm bàn ghế, bảng và các trang thiết bị khác, sửa chữa nhỏ trong
trường...
Ngoài ra ngân sách Nhà nước còn chi tiêu cho các đơn vị thực hiện các
chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục như chương trình phổ cập giáo dục
tiểu học và chống mù chữ, chương trình tăng cường cơ sở vật chất trường học,
chương trình công nghệ giáo dục... Hầu hết các chi khoản chi trên là những khoản
chi phát sinh thường xuyên, tương đối ổn định và có thể định mức được. Do vậy
trong công tác quản lý các khoản chi này phải lấy định mức làm cơ sở, riêng các
khoản mua sắm sửa chữa nhỏ không phát sinh thường xuyên nên phải căn cứ vào
thực trạng nhà cửa trang thiết bị, chế độ chính sách của Nhà nước trong từng thời
kỳ và đặc biệt là khả năng nguồn vốn của NSNN để cấp phát và chi tiêu.
- Chi đầu tư XDCB: Tuỳ theo yêu cầu quản lý nội dung chi đầu tư XDCB
được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Xét theo hình thức tái sản xuất
TSCĐ, chi đầu tư XDCB cho giáo dục đào tạo được phân thành:
- Chi đầu tư xây dựng mới các TSCĐ phục vụ cho giáo dục đào tạo như các
trường học, thư viện, phòng thí nghiệm…
- Chi cải tạo, nâng cấp mở rộng các TSCĐ hiện có nhằm tăng thêm công suất
và hiện đại hoá TSCĐ như nâng cấp trường học, thư viện, xây thêm các lớp học…
1.1.1.3. Vai trò của chi NSNN đối với giáo dục đào tạo
Giáo dục là hoạt động hết sức cần thiết đối với phát triển xã hội và tăng
cường kinh tế. Không thể có một xã hội phát triển ở trình độ cao mà không có một
nguồn lực phát triển cả về thể chất và trí tuệ. Sản phầm của giáo dục là con người,
con người là yếu tố sản xuất hết sức quan trọng. Kỹ năng của con người có tác
động đến năng suất lao động, trình độ quản lý và muốn hình thành kỹ năng thì
phải có giáo dục. Đặc biệt là trong bối cảnh thế giới bước sang thời đại mới - thời
đại trí tuệ và trong môi trường toàn cầu hóa, trong đó, các yếu tố tri thức và thông
tin trở thành những yếu tố hàng đầu và là nguồn tài nguyên giá trị nhất thì giáo dục
trở thành đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy, đầu tư cho giáo dục
chính là đầu tư cho tương lai, đầu tư hiệu quả nhất.
Đầu tư tài chính giữ vai trò như một trong những yếu tố có tính chất quyết
định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân từ
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, đào tạo công nhân, trung học chuyên
nghiệp, đại học đến đào tạo sau đại học. Thông qua quan hệ tín dụng, tài chính có
thể huy động các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi để đầu tư cho giáo dục trong việc
nâng cấp trang thiết bị, đầu tư cho đội ngũ giáo viên và cho học sinh vay để tiếp
tục sự nghiệp giáo dục. Trong số các nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục đào
tạo thì chi từ NSNN là quan trọng, đóng vai trò chủ đạo trong việc nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục bởi:
- Thứ nhất: Trong hệ thống tài chính nước ta thì tài chính Nhà nước chiếm
một tỷ trọng lớn. Mà trong tài chính Nhà nước bao gồm NSNN và tín dụng Nhà
nước thì NSNN có tỷ trọng lớn nhất. NSNN đảm bảo nhu cầu tiêu dùng xã hội
theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, trong đó nhu cầu giáo dục đào
tạo đứng hàng đầu. Mặt khác, giáo dục đào tạo là dịch vụ công cộng, tạo ra những
ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đầu tư từ NSNN
cho giáo dục nhằm đảm bảo điều kiện tài chính cần thiết để giải quyết vấn đề phát
triển của hệ thống giáo dục quốc dân ở tầm vĩ mô như về phát triển rộng khắp
mạng lưới các cơ sở giáo dục, xây dựng các cơ sở giáo dục trọng điểm quốc gia,
điều chỉnh quy mô và cơ cấu, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Bởi vậy,
NSNN là nguồn tài chính cơ bản, to lớn nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo
dục quốc dân theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
- Thứ hai, chi NSNN có tác dụng hướng dẫn, huy động các nguồn vốn khác
đầu tư cho giáo dục đào tạo vì giáo dục là dịch vụ công cộng, tạo ra những ngoại
ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực – nhân tố
quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Chi NSNN cho giáo dục
như một cú huých ban đầu để khuyến khích nhân dân đóng góp xây dựng và sửa
chữa trường lớp, thu hút các nguồn từ lao động sản xuất, từ hợp đồng NCKH của
các trường, đóng góp của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm
thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo phát triển sự nghiệp
giáo dục đào tạo”, đồng thời là nguồn chính để phát huy nguồn viện trợ và vay của
nước ngoài để đầu tư cho giáo dục đào tạo. Lợi ích của việc đầu tư vào giáo dục
đem lại không chỉ cho những người trực tiếp được hưởng giáo dục mà còn cho cả
xã hội nói chung. Tuy nhiên, trong thực tế các cá nhân hầu như không tính đến tác
động này trong việc lựa chọn quyết định có nên đầu tư vào giáo dục hay không.
Trong một số trường hợp, họ có thể không biết đến tác động ngoại ứng tích cực
của giáo dục. Trong trường hợp khác, họ biết tác động đó song thiếu sự khuyến
khích và tạo điều kiện của Nhà nước để đi đến quyết định đầu tư. Như vậy, nếu
không có chi từ NSNN để hỗ trợ và khuyến khích thì mức đầu tư của tư nhân cho
sự phát triển giáo dục sẽ thấp hơn khả năng sẵn có.
- Thứ ba, NSNN chi cho giáo dục đào tạo sẽ đảm bảo từng bước ổn định đời
sống của đội ngũ cán bộ giảng dạy. Tuy đời sống của giáo viên còn chưa cao
nhưng NSNN đã đảm bảo tiền lương chính cho đội ngũ cán bộ giảng dạy toàn
ngành. Ngoài ra còn dành một phần NSNN để ưu đãi riêng cho ngành giáo dục
đào tạo như phụ cấp giảng dạy, phụ cấp thâm niên, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp
dạy thêm giờ, thêm lớp…
- Thứ tư, NSNN có vai trò điều phối cơ cấu giáo dục toàn ngành. Thông qua
định mức chi ngân sách giáo dục đào tạo hàng năm đã góp phần định hướng sắp
xếp cơ cấu các cấp học, mạng lưới trường. Tập trung NSNN cho những chương
trình mục tiêu quốc gia như chống mù chữ, phổ cập giáo dục, xây dựng hệ thống
trường dân tộc nội trú, khuyến khích phát triển giáo dục ở vùng núi và dân tộc ít
người, tăng cường cơ sở vật chất các trường học…
- Thứ năm, chi từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong
giáo dục. Ở các quốc gia không phải mọi công dân đều có khả năng chi trả các
khoản chi phí trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến việc trực tiếp hưởng thụ giáo
dục. Nếu giáo dục được cung cấp hoàn toàn theo cơ chế thị trường mà không có sự
đầu tư từ NSNN thì bộ phận dân cư không có khả năng chi trả các khoản chi phí
giáo dục sẽ không có cơ hội được học tập, từ đó dẫn đến mất công bằng xã hội
trong giáo dục. Hơn nữa, công bằng xã hội trong giáo dục còn là điều kiện quan
trọng để đạt đến công bằng xã hội nói chung.
- Thứ sáu, chi của Nhà nước cho giáo dục nhằm để khắc phục khiếm khuyết
của thị trường vốn. Nghiên cứu kinh tế học giáo dục, các nhà kinh tế đều cho rằng,
thị trường vốn cho việc đầu tư vào giáo dục là không hoàn hảo. Có nhiều rủi ro
cho cả người vay và người cho vay khi đầu tư vào giáo dục. Hầu như không có cơ
sở cho việc xác định khả năng chắc chắn có việc làm và có được mức thu nhập sau
khi đã kết thúc khóa học để có thể trả được các khoản nợ vay cho việc học tập của
các cá nhân. Do vậy, các chủ thể cho vay vốn không dễ dàng chấp nhận bỏ vốn để
cho vay đầu tư vào việc học tập của các cá nhân. Khắc phục khiếm khuyết của thị
trường vốn cần thiết phải có sự can thiệp và đầu tư của Nhà nước cho giáo dục.
1.1.2. Cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo
1.1.2.1 Quan niệm về cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục,
đào tạo
- Khái niệm: Cơ chế là thuật ngữ chỉ phương thức hoạt động của một hệ
thống, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành của hệ
thống nhờ đó mà hệ thống có thể tồn tại, vận hành và phát triển.
Quản lý là yêu cầu tất yếu để đảm bảo sự hoạt động bình thường của mọi quá
trình và hệ thống kinh tế - xã hội. Thực chất của quản lý là thiết lập và thực hiện
hệ thống các phương pháp và biện pháp khác nhau, tác động một cách có ý thức
tới đối tượng của quản lý nhằm đạt được kết quả nhất định.
Cơ chế quản lý được hiểu là hệ thống các hình thức, phương pháp, biện pháp
tác động vào các hoạt động kinh tế theo hướng phù hợp với qui luật khách quan và
thực tiễn khách quan để đạt được những mục tiêu đã định trước.
Mục tiêu của cơ chế quản lý chi ngân sách là nhằm tổ chức định hướng, điều
chỉnh cơ chế tồn tại, vận động và phát triển của hoạt động chi ngân sách nhà nước
nhằm phù hợp với các qui luật khách quan và thực tiễn khách quan của môi trường
tự nhiên, kinh tế xã hội để đạt được mục tiêu. Những bất cập của cơ chế chi ngân
sách hiện tại luôn đặt ra yêu cầu phải không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý chi
ngân sách. Hoàn thiện cơ chế quản lý chi NS là hoàn thiện các các hình thức,
phương pháp, biện pháp tác động có tính chủ quan của con người đến các cơ chế
chi ngân sách nhằm điều chỉnh cơ chế tồn tại, vận động và phát triển của các hoạt
động tài chính để đạt được kết quả đã đặt ra.
Như vậy, cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục là hệ thống bao gồm bộ
máy quản lý cùng với các hình thức, phương pháp, biện pháp để tổ chức, điều
chỉnh quá trình tạo lập và sử dụng các khoản chi ngân sách theo các chương
trình, mục tiêu quốc gia về giáo dục trong từng thời kỳ.
Cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục có tác động đến quyết định
phương thức tồn tại và vận động của các hoạt động tiễn chính trong quá trình thực
hiện các hoạt động giáo dục đào tạo. Sự tác động đó diễn ra theo 2 hướng: tích tực
và tiêu cực. Theo hướng tích cực có nghĩa là cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo
dục là hợp lực của các hình thức, phương pháp, biện pháp có tác động cùng chiều,
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong quá trình thực hiện giáo dục và
đào tạo, thúc đẩy nền giáo dục quốc dân phát triển cả về qui mô, hiệu quả chất
lượng.
Theo hướng tiêu cực có nghĩa là cơ chế quản lý đó là hợp lực của các hình
thức, phương thức, biện pháp có tác động ngược chiều nhau, cản trở lẫn nhau và
nảy sinh các mặt tiêu cực trong quá trình thực hiện các hoạt động đào tạo, kìm
hãm sự phát triển của nền giáo dục.
- Vai trò cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục:
+ Cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục có vai trò cân đối giữa việc tạo
lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu phát triển nền
giáo dục quốc dân nói chung. Cơ chế chi ngân sách cho giáo dục có tác dụng khơi
dậy và huy động các nguồn tài chính trong xã hội, ngân sách nhà nước và ngoài
NSNN đầu tư vào phát triển giáo dục. Do đó các trường chủ động thu hút, khai
thác, tạo lập nguồn NSNN và ngoài NSNN, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài
chính đầu tư cho nhà trường.
+ Cơ chế quản lý chi ngân sách cho giáo dục tác động đến quá trình chi tiêu
ngân quỹ quốc gia, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ của
đơn vị vì vậy các trường chịu sự kiểm tra giám sát tài chính của các cơ quan chủ
quản cấp trên, cơ quan tài chính trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các
nguồn tài chính, đảm bảo tuân thủ theo qui định của Nhà nước và điều chỉnh, ngăn
chặn các sai phạm, lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả các hoạt động tài chính
của các trường học.
+ Phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường trong việc tạo
lập, quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính đầu tư từ ngân sách nhà nước và ngoài
NSNN cho nhà trường một cách tiết kiệm và hiệu quả, lành mạnh hoá các hoạt
động tài chính nhằm đảm bảo các nguồn kinh phí được đầu tư, được sử dụng đúng
mục đích, ngăn chặn các hiện tượng tham nhũng về tài chính trong các trường học.
1.1.2.2. Cấu trúc của cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục,
đào tạo
Cấu trúc của hệ thống là hình thức cấu tạo bên trong của hệ thống, bao gồm
sự sắp xếp của các phần tử và các phân hệ có trong hệ thống cùng các mối quan hệ
tác động và ràng buộc với nhau. Cơ chế của hệ thống là phương thức hoạt động
phù hợp với qui luật khách quan vốn có của hệ thống. Nếu các bộ phận, các phần
tử của hệ thống chưa có quan hệ ràng buộc tới mức tạo thành cơ cấu hợp lý thì
khái niệm cơ chế chưa có ý nghĩa. Cơ chế còn gồm 1 hệ thống qui tắc ràng buộc
hành vi của các phần tử, các bộ phận, các phân hệ của chúng.
Pháp luật, chính sách và các qui định liên quan đến quản lý chi ngân sách
cho giáo dục:
Đây là cơ sở pháp lý để quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao
tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý
và sử dụng NSNN cho giáo dục, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả ngân sách và tài sản của nhà nước, tăng tích luỹ nhằm phát triển nền giáo
dục của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yếu cầu phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần nhân dân, bảo đảm an ninh
quốc phòng, đối ngoại.
Cơ sở pháp lý này có thể được xây dựng dựa trên hiến pháp hoặc các đạo luật
tổ chức hành chính, từ đó định ra hành lang pháp lý cho việc chuyển giao các thẩm
quyền gắn với các trách nhiệm tương ứng với quyền lực đã được phân cấp. Qua
phân cấp quản lý ngân sách nhà nước cần phải xác định rõ những vấn đề sau: Cơ
quan nhà nước nào có thẩm quyền ban hành các chế độ, chính sách, định mức, tiêu
chuẩn thu, chi và đó là những loại chế độ nào?
Về nguyên tắc những chế độ do trung ương quy định thì các cấp chính quyền
địa phương tuyệt đối không được tự điều chỉnh hoặc vi phạm. Ngược lại trung
ương cũng phải tôn trọng thẩm quyền của địa phương tránh can thiệp làm mất đi
tính tự chủ của họ.
Bộ máy tổ chức quản lý chi ngân sách cho giáo dục.
Là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, mang tính độc lập tương
đối, bao gồm các cơ quan nhà nước thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về
chi ngân sách cho giáo dục từ Trung ương đến địa phương. Bộ máy đó tuân thủ
những nguyên tắc của khoa học tổ chức nói chung và cả những nguyên tắc chính
trị- xã hội phản ánh đặc trưng riêng của mỗi Nhà nước.
Không có cách duy nhất để xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về chi
NSNN cho giáo dục. Ngược lại mô hình được lựa chọn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng của bộ máy quản lý không ngăn cản việc sử
dụng một quy trình thống nhất cho việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu bộ máy
quản lý nhà nước về chi NSNN.
Bộ máy quản lý chi NSNN cho giáo dục theo điều 52 của Nghị định số
60/2003/NĐ-CP ngày 06/06/2003 của Chính phủ đã qui định trách nhiệm của các
cơ quan và cá nhân trong việc quản lý chi NSNN, cụ thể như sau:
- Cơ quan tài chính:
+ Thẩm tra việc phân bổ dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân
sách giáo dục.
+ Bố trí nguồn để đáp ứng các nhu cầu chi, trường hợp các đơn vị sử dụng
ngân sách giáo dục chi vượt quá khả năng thu và huy động của quỹ ngân sách thì
cơ quan tài chính phải chủ động thực hiện các biện pháp vay tạm thời theo qui
định để đảm bảo nguồn.
+ Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi tiêu và sử dụng ngân sách ở các cơ
quan chức năng, đơn vị sử dụng ngân sách giáo dục.
+ Trường hợp phát hiện các khoản chi vượt nguồn cho phép, sai chính sách
chế độ hoặc đơn vị không chấp hành báo cáo thì có quyền yêu cầu kho bạc nhà
nước tạm dừng thanh toán. Trường hợp phát hiện việc chấp hành ảnh hưởng kết
quả nhiệm vụ thì có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước và các đơn vị dự toán
cấp trên có giải pháp kịp thời hoặc điều chỉnh nhiệm vụ, dự toán chi của các cơ
quan, đơn vị trực thuộc để đảm bảo thực hiện ngân sách theo mục tiêu và tiến độ
qui định.
- Kho bạc Nhà nước:
+ Thực hiện việc thanh toán, chi trả các khoản chi NSNN cho giáo dục căn
cứ vào dự toán được giao, quyết định chi của Thủ trưởng đơn vị sử dụng
ngân sách nhà nước và tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ thanh toán theo
đúng qui định tại các văn bản pháp luật.
+ Có quyền từ chối các khoản chi ngân sách cho giáo dục không đủ điều
kiện chi hoặc tạm dừng thanh toán theo yêu cầu của cơ quan tài chính.
- Thủ trưởng các đơn vị sử dụng ngân sách giáo dục:
+ Quyết định chi đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức và trong phạm vi
dự toán được cấp có thẩm quyền giao.
+ Quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước theo đúng chế độ,
tiêu chuẩn, định mức, đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả. Trường hợp vi
phạm, tuỳ theo tính chất và mức độ sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo qui định của pháp luật.
-
Kế toán các đơn vị:
Thực hiện đúng chế độ quản lý tài chính, ngân sách, chế độ kế toán nhà
nước, chế độ kiểm tra nội bộ và có trách nhiệm ngăn ngừa, phát hiện và kiến nghị
thủ trưởng đơn vị, cơ quan tài chính cùng cấp xử lý đối với những trường hợp vi
phạm.
Các công cụ quản lý chi ngân sách cho giáo dục đào tạo:
Công cụ quản lý chi ngân sách cho giáo dục là tổng thể những phương tiện
hữu hình và vô hình mà nhà nước sử dụng để tác động lên mọi cơ sở, mọi tổ chức
giáo dục trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đã định. Chính nhờ đó công cụ
quản lý chi NSNN cho giáo dục với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của
nhà nước mà nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức
và cơ sở giáo dục, nó có những qui định và chất lượng khác với đòn bẩy kinh tế và
các công cụ quản lý khác, chủ yếu là: tính chủ thể, tính mục đích và tính hệ thống.
Công cụ quản lý chi ngân sách cho giáo dục chủ yếu là hệ thống chế độ tài
chính, kế toán do Nhà nước ban hành và hệ thống số sách báo cáo tài chính, chứng
từ … phản ánh các hoạt động thu, chi của các tổ chức, cơ sở giáo dục sử dụng
ngân sách Nhà nước. Nó ràng buộc và tạo môi trường tài chính cho tất cả hoạt
động giáo dục trong trật tự kỷ cương, luật pháp. Nhà nước vận dụng các đòn bẩy
ngân sách, các chính sách để kích thích, tác động thông qua lợi ích riêng của các
cơ sở và tổ chức giáo dục, đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội.
Phương pháp quản lý chi NSNN cho giáo dục:
Con người là nhân tố trung tâm của bộ máy quản lý, là khâu trọng yếu trong
việc xử lý các thông tin để đề ra các quyết định quản lý. Trình độ cán bộ quản lý là
nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến tính kịp thời, chính xác của các quyết định
quản lý, do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động của bộ máy quản
lý, quyết định sự thành bại của công tác quản lý nói chung cũng như công tác quản
lý NSNN cho giáo dục nói riêng.
Đối với cơ quan quản lý cấp trên, nếu cán bộ quản lý tài chính có kinh
nghiệm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ sẽ đưa ra được những biện pháp quản
lý phù hợp, xử lý thông tin quản lý kịp thời, chính xác làm cho hoạt động quản lý
ngày càng đạt kết quả tốt.
Đối với các cơ sở và tổ chức giáo dục, một đội ngũ cán bộ kế toán tài chính
có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm công tác là một điều kiện hết
sức cần thiết để đưa công tác quản lý tài chính kế toán của các cơ sở giáo dục ngày
càng đi vào nề nếp, tuân thủ các chế độ quy định về tài chính kế toán của Nhà
nước, góp phần vào hiệu quả của công tác quản lý tài chính trong toàn ngành giáo
dục.
Như vậy, trình độ và phương pháp quản lý có tác động rất lớn đến hiệu quả
của công tác quản lý nói chung và quản lý NSNN cho giáo dục nói riêng. Nếu
trình độ quản lý tốt và phương pháp quản lý khoa học thì hiệu quả quản lý sẽ rất
cao và ngược lại.
1.1.3. Cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục, đào
tạo
1.1.3.1. Những vấn đề chung về ngân sách cấp quận, huyện.
Khái niệm và lịch sử hình thành ngân sách cấp quận, huyện
Trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, NSNN của nước ta tổ
chức thành hai cấp: Ngân sách Trung ương và Ngân sách tỉnh, thành phố. Việc
phân cấp là phù hợp với nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền trong việc huy động
tối đa nguồn lực tài chính. Ở thời kì này ngân sách quận, huyện chỉ đóng vai trò là
một cấp dự toán.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN. Cùng với sự đổi mới
của nền kinh tế đất nước, Ngân sách quận, huyện cũng được xác định lại vai trò,
nhiệm vụ của mình. Cụ thể là ngày 27/11/1989 Hội đồng bộ trưởng đã ra Nghị
quyết số 186/ HĐBT về phân cấp quản lý ngân sách địa phương trong đó có ngân
sách quận, huyện. Ngày 16/02/1992 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết số
186/HĐBT sửa đổi bổ sung cho Nghị quyết 186/HĐBT ngày 27/11/1989.
Kỳ họp Quốc hội khóa IX đã khẳng định: “Quận, huyện là một cấp chính
quyền có Ngân sách, ngân sách quận, huyện là một bộ phận hợp thành ngân sách
địa phương thuộc hệ thống NSNN “.
Như vậy ngân sách quận, huyện là một cấp ngân sách thực hiện vai trò chức
năng, nhiệm vụ của NSNN trên phạm vi địa bàn quận, huyện.
Tìm hiểu qúa trình hình thành ngân sách quận, huyện ta có thể thấy ngân sách
quận, huyện từ một cấp dự toán đã trở thành một cấp ngân sách có nguồn thu và
nhiệm vụ chi riêng. Đó là một hướng đi đúng đắn trong quá trình phát triển nền tài
chính quốc gia. Trước tiên nó giúp ngân sách cấp tỉnh, Trung ương giảm được
khối lượng công việc, bên cạnh đó nó cũng giúp các cấp chính quyền có thể nắm
bắt được tình hình kinh tế nói chung và tài chín nói riêng từ cơ sở.
Ngân sách quận, huyện mang bản chất của NSNN, đó là mối quan hệ giữa
ngân sách quận, huyện với các tổ chức, cá nhân trên địa bàn quận, huyện trong quá
trình phân bổ sử dụng các nguồn lực kinh tế của quận, huyện. Mối quan hệ đó
được điều chỉnh, điều tiết sao cho phù hợp với bản chất Nhà nước XHCN. Đó là
nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của công nhân và nhân dân lao động, bộ
phận chiếm tuyệt đối đại đa số trong xã hội. Do vậy lợi ích của Nhà nước XHCN
Việt Nam không có gì hơn ngoài mong muốn được phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân
dân.
Có thể nói việc ngân sách quận, huyện trở thành một cấp ngân sách đã làm
cho bộ mặt NSNN mang một diện mạo, sắc thái mới, nền tài chính quốc gia trở
nên lành mạnh hơn. Thực tế đã chứng minh trong những năm qua, xét ở cấp độ
quận, huyện tình hình kinh tế- kinh tế tài chính có những bước tiến đáng kể. Ngoài
ra, Ngân sách quận, huyện còn thể hiện bản chất chính trị của Nhà nước ta thông
qua việc thực hiện đúng đắn, hiệu quả, có sáng tạo các chủ trương chính sách cña
Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên bên cạnh những điểm đã phát huy được là một loạt
những hạn chế cần khắc phục kịp thời, đòi hỏi sự quan tâm, tâm huyết của các cá
nhân, ban, ngành phối hợp cùng giải quyết.
Vai trò của Ngân sách quận, huyện
Ngân sách quận, huyện có vai trò đảm bảo chức năng Nhà nước an ninhquốc phòng, thúc đẩy phát triển ổn định kinh tế xã hội, bù đắp những khiếm
khuyết của thị trường, giữ vững ổn định công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
* Ngân sách quận, huyện bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước, bảo vệ
an ninh trật tự cấp quận. huyện.
Cấp chính quyền quận, huyện cũng tổ chức ra cho mình một hệ thống các cơ
quan, đoàn thể hành chính nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Điều đó
cũng có nghĩa là để cho các cơ quan đoàn thể đó hoạt động cần phải có một quỹ tài
chính tập trung cho nó, ®ó chính là Ngân sách quận, huyện. Mặc dù không lớn
mạnh như ngân sách Trung ương nhưng ngân sách quận, huyện cũng tạo cho mình
một vị thế nhất định nhằm chủ động trong việc thực hiện chức năng Nhà nước ở
địa phương. Tùy theo phạm vi địa lý, tình hình kinh tế xã hội trên từng quận,
huyện mà nhu cầu được đảm bảo là khác nhau.
Để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước phải tốn một khoản ngân sách
khổng lồ. Mặc dù vậy trong khi Nhà nước đang chắt chiu trong chi tiêu và sử dụng
và NSNN thì ở một số đơn vị việc sử dụng ngân sách vẫn lãng phí và còn tồn tại
rất nhiều sai phạm bất cập. Do vậy, đòi hỏi Ngân sách quận, huyện với tư cách là
Ngân sách của các đơn vị cơ sở cần phải quản lý chặt chẽ, cấp phát đúng chính
sách, đúng chế độ và định mức giúp cho bộ máy Nhà nước hoạt động tốt mà vẫn
tiết kiệm, hiệu quả.
Trong các chức năng của Nhà Nước, chức năng đảm bảo an ninh trật tự, quốc
phòng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là công cụ quyền lực của Nhà nước
nhằm bảo vệ ý chí của Nhà nước, tạo điều kiện an toàn để quận, huyện phát triển
mọi mặt. Do vậy để có thể đảm bảo được chức năng này, Ngân sách quận, huyện
cần phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, có các khoản dự phòng hợp lý.
* Ngân sách quận, huyện – công cụ thúc đẩy phát triển ổn định kinh tế trên
địa bàn quận, huyên.
Để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế- tài chính của cấp trên thì quận,
huyện cần phải sử dụng các công cụ sẵn có của mình để điều tiết, định hướng. Một
trong những công cụ đắc lực là Ngân sách. Các quận, huyện phải căn cứ vào thế
mạnh của địa phương mình để định hướng phát triển, hình thành cơ cấu kinh tế,
kích thích phát triển. Đồng thời các quận, huyện phải cung cấp kinh phí, vốn đầu
tư, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt
động.
Quận, huyện phải xây dựng cho mình một tiềm lực kinh tế riêng. Đó là các
doanh nghiệp Nhà nước do cấp quận, huyện quản lý. Loại hình doanh nghiệp này
đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quận, huyện và cũng giúp quận, huyện chủ
động trong việc xây dựng và phát triển kinh tế.
* Ngân sách quận, huyện là phương tiện bù đắp khiếm khuyết thị trường
đảm bảo công bằng xã hội và các vấn đề môi trường rên địa bàn quận, huyện.
Đây là vai trò không thể thiếu đối với Ngân sách mỗi quốc gia. Nó có tác
dụng xoa dịu nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là
chạy theo lợi nhuận. Do vậy mà để lại một loạt các hậu quả như: Thất nghiệp,
phân cấp giàu nghèo, các vấn đề xã hội, đời sống của nhân dân không được quan
tâm, môi trường bị ô nhiễm … Những điều đó tạo ra cho nền kinh tế- xã hội một
vực thẳm phía trước. Cấp quận, huyện theo dõi các báo cáo tổng hợp từ cấp xã,
phường phải có biện pháp quản lý giải quyết cụ thể.
- Xem thêm -