Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch kinh tế diễn ra ngày càng
sôi động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với sự phát triển đó thì nhu
cầu tất yếu là cần phải có một cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm cho việc thực hiện các
giao dịch này. Hợp đồng là một là một lựa chọn hàng đầu đối với các nhà đầu tư.
Hiện nay, đa số các giao dịch đều được cụ thể hóa dưới hình thức hợp đồng, nó là
căn cứ nhằm ràng buộc các bên vào những gì mà họ đã cam kết, để khi có tranh
chấp xảy ra thì đó là một trong các căn cứ quan trọng để xác định trách nhiệm của
các bên. Trong điều kiện nước ta mới gia nhập WTO, được hội nhập trong môi
trường kinh tế cạnh tranh công bằng và lành mạnh, mà ở đó sự bảo hộ của nhà nước
là gần như không tồn tại vì vậy các doanh nghiệp phải tự mình vận động để tồn tại
và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như ngày nay. Chính vì vậy vấn
đề pháp lí về hợp đồng được các bên đặc biệt chú ý, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ về
mặt nội dung và hình thức trong tất cả các giao dịch và đem lại hiệu quả kinh tế cao
nhất.
Hiện nay pháp luật về hợp đồng của nước ta đã hình thành và ngày càng
hoàn thiện đồng thời cũng đang được điều chỉnh cho phù hợp với pháp luật hợp
đồng của thế giới có như vậy mới bảo đảm khả năng hội nhập với nền kinh tế thế
giới. Hiện nay các hợp đồng về mua bán hàng hóa, dịch vụ chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng số các loại hợp đồng mà các doanh nghiệp thực hiện, vì trên thực tế hiện
nay thì nền kinh tế dịch vụ và mua bán hàng hóa mang lại một doanh thu khổng lồ
cho nền kinh tế quốc dân các nước. Với một khối lượng hàng hóa dịch vụ khổng lồ
lưu thông trên thị trường mà không có hợp đồng thì rất dễ gây ra sự hỗn loạn trong
nền kinh tế. Trên thực tế thì vai trò của hợp đồng là không thể phủ nhận nhưng còn
rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện hành lang pháp lý.
Trong công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên Thăng Long GTC hàng năm đàm phán và kí kết một khối lượng hợp đồng tương đối lớn, đặc
biệt là các hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ.
Các hợp đồng này hàng năm đem lại cho công ty những khoản thu rất lớn vì
SVTH: Nguyễn Thị Yến
1
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
đây là một công ty nhà nước mà hoạt động chủ yếu là dịch vụ. Trong đó các hợp
đồng về dịch vụ du lịch chiếm tỷ trọng không nhỏ,gồm cả hợp đồng du lịch mang
bản chất là dân sự và cả hợp đồng du lịch mang tính chất kinh doanh thương mại.
Do hoạt động du lịch của Công ty TNNHH Nhà nước một thành viên Thăng Long
GTC là tương đối rộng nên trong phạm vi hạn hẹp của bài báo cáo chuyên đề này
tôi chỉ đề cập đến
Những hợp đồng dịch vụ du lịch mang bản chất là
hợp đồng dân sự ( tức là những hợp đồng du lịch được ký kết giữa cá nhân
khách du lịch ( người tiêu dùng dịch vụ du lịch) với một bên là đại diện Công ty
TNHH Nhà nước Thăng Long GTC
Nội dung chuyên đề: “PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ DU LỊCH
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH
VIÊN THĂNG LONG -GTC”
Bài viết được chia làm 3 phần lớn là :
Chương I. Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch.
Chương II. Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ du lịch tại
Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC.
Chương III. Nhận xét và một số kiến nghị.
Để bài viết được thành công tôi rất hi vọng nhận được sự giúp đỡ của cán bộ
công ty và giáo viên hướng dẫn thực tập chuyên đề.
SVTH: Nguyễn Thị Yến
2
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
CHƯƠNG I. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG.
Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí giữa các cá nhân tổ chức có năng lực chủ thể
để từ đó làm xuất hiện những quyền và nghĩa vụ nhất định. Như vậy hợp đồng là sự
cụ thể hóa ý chí của các bên trong quan hệ giao dịch, và là căn cứ để từ đó làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ.
1.1.1. Vai trò của hợp đồng trong đời sống xã hội.
Quan hệ trao đổi hàng hoá là quan hệ kinh tế giữa những người có hàng hoá
được thiết lập trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên mà hình thức thể hiện của nó
là bản giao kèo. Bản giao kèo này là hợp đồng. Quan hệ trao đổi sản phẩm hàng
hoá trở thành quan hệ pháp luật khi được pháp luật điều chỉnh và hợp đồng trở
thành hình thức pháp lý của nó. Sự ra đời của hợp đồng là đòi hỏi khách quan của
nền sản xuất hàng hoá. Đã có sản xuất hàng hoá tất yếu phải có hợp đồng để trao
đổi sản phẩm hàng hoá. Sau đó cùng với sự phát triển của xã hội, hợp đồng phát
triển cả ngoài phạm vi trao đổi hàng hoá. Người ta có thể thoả thuận thống nhất ý
chí với nhau về việc làm một việc gì hoặc không làm một việc gì đó thì cũng là hợp
đồng.
Hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc quản lý nền kinh tế quốc dân, là
cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xác lập mối quan hệ hợp tác giữa các
bên ký kết hợp đồng.
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như tổ chức phải tham gia nhiều
quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó việc các bên thiết lập với nhau quan hệ, để qua
đó chuyển giao cho nhau lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu
dùng, đóng vai trò quan trọng, là một tất yếu đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên
việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó không phải tự nhiên hình thành bởi tài sản
( vốn là hiện thân của lợi ích vật chất) không thể tự tìm đến nhau để thiết lập các
quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của chủ
thể. Mác nói rằng:
SVTH: Nguyễn Thị Yến
3
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
“ Tự chúng hàng hoá không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau
được. Muốn cho những vật đó trao đổi được với nhau, thì những người giữ
chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong hiện vật
đó”.(1)
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các chủ
thể kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ có thể áp
dụng pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính
đáng của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chính đáng của các
chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích của toàn xã hội.
Hợp đồng là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của chính
các chủ thể kinh doanh, làm cho các kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ có thể được
thực hiện nếu người sản xuất mua được nguyên vật liệu và kí được hợp đồng tiêu
thụ sản phẩm của mình. Đồng thời hợp đồng cũng được cụ thể hoá, chi tiết hoá kế
hoạch sản xuất mua bán, giá cả, thời gian giao hàng… Như vậy nhu cầu sản xuất
kinh doanh là do người sản xuất kinh doanh quyết định và thỏa thuận với khách
hàng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh và thu lợi nhuận.
Thông qua việc đàm phán kí kết hợp đồng, người sản xuất có thể nắm bắt
được nhu cầu của thị trường về sản phẩm của mình và kiểm tra tính hiện thực của
kế hoạch sản xuất kinh doanh có phù hợp với nhu cầu thị trường hay qua quá trình
kí kết hợp đồng các doanh nghiệp chủ động cân nhắc tính toán chênh lệch giữa chi
phí và hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh.
Thông qua hợp đồng mà Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết các quan hệ
kinh tế, xã hội, hướng các quan hệ phát triển trong trật tự pháp luật. Khi hợp đồng
được kí kết đúng pháp luật thì đó là căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia ký kết và làm cơ sở để cơ quan tài phán giải quyết khi có
tranh chấp.
1.1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng.
Pháp luật đề cao nguyên tắc tự do kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh
tế thị trường. Nguyên tắc này được Hiến pháp thừa nhận. Tại Điều 15 hiến pháp
1992 nêu rõ: Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị
(1)(1) Các Mác: “Tư bản”, quyển 1, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1973, Tr.163
SVTH: Nguyễn Thị Yến
4
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.(1)
Tại Điều 57 Hiến pháp 1992 thừa nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công
dân: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (2). Như
vậy mọi cá nhân tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết
bất kỳ hợp đồng dân sự nào, nếu họ muốn mà không ai có quyền ngăn cản. Nhưng
bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo
đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội
Như vậy tự do kinh doanh không có nghĩa là muốn làm gì thì làm mà nó phải
đảm bảo sự tuân thủ pháp luật. Mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều bình đẳng
trước pháp luật, chịu sự quản lý của Nhà nước. Mặc dù, mọi chủ thể trong nền kinh
tế khi có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi ( khi thoả mãn những điều kiện
do pháp luật quy định) theo quy định của pháp luật thì đều có quyền tham gia giao
kết hợp đồng kinh tế nhằm mục đích nhất định mà không ai có quyền ngăn cản.
Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết những hợp đồng đã được
pháp luật quy định cụ thể cũng như những hợp đồng khác mà pháp luật chưa có quy
định. Khi tham gia vào quá trình ký kết hợp đồng các chủ thể được tự do thể hiện ý
chí của mình, tự do đưa vào hợp đồng những nội dung, điều khoản có lợi nhất cho
mình để đảm bảo khả năng thực hiện hợp đồng và giành được ưu thế khi có tranh
chấp xảy ra
Hơn nữa tại Điều 50 Bộ luật dân sự 2005 cũng đã ghi nhận quyền tự do kinh
doanh:
“Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cá
nhân có quyền lựa chọn lĩnh vực, hình thức, ngành nghề kinh doanh, lập doanh
nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy
(1)(1) Điều 15 Hiến pháp 1992
(2)(2) Điều 57 Hiến pháp 1992
SVTH: Nguyễn Thị Yến
5
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
định của pháp luật”(1).
Trong quá trình giao kết hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi của mình các bên có
thể đưa vào hợp đồng những điều khoản nội dung trái pháp luật xâm hại đến quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, lợi ích công cộng và lợi ích của toàn xã toàn
xã hội.
Trong đời sống xã hội hiện nay yếu tố thoả thuận trong giao kết hợp đồng
ngày càng được đề cao. Tất cả các hợp đồng đều là sự thoả thuận. Tuy nhiên không
thể suy luận ngược lại là mọi thoả thuận đều là hợp đồng.
Những thoả thuận được coi là hợp đồng nếu nó phù hợp với ý chí của các
bên, tức là sự ưng thuận đích thực của các bên. Hợp đồng phải là giao dịch hợp
pháp, do vậy sự ưng thuận ở đây phải hợp lẽ công bằng, hợp đạo đức và pháp luật.
Các hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức hoặc mua
chuộc không có sự ưng thuận đích thực, tức là có sự vô hiệu của hợp đồng. Như
vậy, một sự thoả thuận không thể hiện ý chí đích thực của các bên thì không phát
sinh quyền và nghiã vụ pháp lý của các bên. Vì vậy, Nhà nước buộc các bên khi tiến
hành giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo đức xã hội, pháp luật, trật tự xã hội, trật
tự công cộng.
Để hạn chế sự tự do thái quá của các chủ thể khi tham gia vào quá trình giao
kết thực hiện hợp đồng thì cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật trong quan
hệ hợp đồng. Vì sự tự do nào cũng phải nằm trong khuôn khổ nhất định. Pháp luật
là sự cụ thể hoá ý chí của Nhà nước. Bên cạnh chú ý đến quyền lợi của mình, các
chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi
ích của toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải “ không trái pháp luật và
đạo đức xã hội”. Nằm trong mối quan hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi
chủ thể vừa “có quyền tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp
luật và đạo đức xã hội.
Lợi ích cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi
là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi chủ thể trong việc giao kết hợp đồng.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho
phép tất cả các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng thành
(1)(1) Điều 50 Bộ Luật dân sự 2005
SVTH: Nguyễn Thị Yến
6
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
phương tiện bóc lột.
Vì vậy, để bảo đảm cho một nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định và đặc
biệt là hiện nay khi nước ta đã ra nhập WTO thì cần phải có một hành lang pháp lý
thông thoáng và đủ mạnh để làm kim chỉ nam cho việc giao kết và thực hiện hợp
đồng nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước
nhưng đồng thời cũng ngăn chặn được các hành vi lợi dụng sức mạnh của doanh
nghiệp nước ngoài nhằm chèn ép các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, hầu hết
các quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua hợp đồng nên việc ban hành pháp
luật về hợp đồng là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng các yêu
cầu khách quan của nền sản xuất hàng hoá, vì khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá
phát triển thì nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các tổ chức sản xuất, kinh doanh với
nhau ngày càng gia tăng. Điều này không tránh khỏi việc cần phải có hình thức,
biện pháp để ghi nhận, bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia vào việc trao đổi
những hàng hoá đó. Chính vì vậy việc ban hành pháp luật về hợp đồng trong đó nêu
rõ những thoả thuận của các bên phải thực hiện và việc giải quyết nếu có những
hành vi vi phạm các thoả thuận đó.
1.1.3. Nguyên tắc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hợp đồng.
Trong quan hệ hợp đồng, khi giao kết các bên tham gia có vai trò quan trọng
trong việc xác định xem hợp đồng đó áp dụng luật nào để điều chỉnh.
Nguyên tắc điều chỉnh đối với các quan hệ hợp đồng có thể do các bên tự
thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi tham gia vào quan hệ hợp đồng
các bên chủ thể đều có vị trí ngang hàng nhau không bên nào được đe dọa bên nào
nhằm mục đích cưỡng chế bên kia giao kết thực hiện hợp đồng. Vì vậy trong quá
trình đàm phán để đi đến ký kết hợp đồng các bên phải đảm bảo nguyên tắc tự
nguyện bình đẳng, hợp tác đôi bên cùng có lợi. Tuy nhiên tự do giao kết hợp đồng
không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Đối với hợp đồng thì căn cứ để ràng buộc các bên là những gì các bên đã
cam kết, và các văn bản pháp luật có liên quan. Việc lựa chọn văn bản pháp luật nào
để điều chỉnh quan hệ hợp đồng phải căn cứ vào sự lựa chọn và tính chất của hợp
đồng đó. Ngoài việc áp dụng luật chung là Bộ Luật dân sự thì đối với từng loại hợp
đồng cụ thể còn có những văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh.Vì vậy đối với
SVTH: Nguyễn Thị Yến
7
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
từng loại hợp đồng nguyên tắc áp dụng pháp luật theo thứ tự ưu tiên như sau: Nếu
có luật chuyên ngành điều chỉnh thì áp dụng luật chuyên ngành, nếu luật chuyên
ngành và các lĩnh vực pháp luật khác có quy định mâu thuẫn thì áp dụng luật
chuyên ngành, nếu luật chuyên ngành không có quy định thì áp dụng Bộ luật dân sự
2005. Trong trường hợp có điều ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên có quy
định áp dụng điều ước quốc tế thì áp dụng điều ước quốc tế đó, mặc dù nó trái với
pháp luật trong nước.
Ngoài ra các bên có thể áp dụng các tập quán và các quy định tương tự của
pháp luật nếu pháp lụât không có quy định và các bên không có thỏa thuận (Điều 3
Luật dân sự).
Trong phạm vi Chuyên đề tốt nghiệp này tôi chỉ đế cập đến mảng hợp đồng
dịch vụ du lịch với tư cách là một hợp đồng dân sự nên pháp luật áp dụng cho hợp
đồng dịch vụ du lịch là Bộ luật dân sự 2005, ngoài ra hoạt động du lịch còn chịu sự
điều chỉnh của Luật du lịch 2005. Nếu có những hoạt động du lịch nào mà Bộ lụât
dân sự 2005 không quy định hoặc quy định trái với văn bản của chuyên ngành du
lịch thì áp dụng Luật du lịch 2005, Ngoài ra hoạt động du lịch còn liên quan đến
hoạt đồng xuất nhập cảnh của người và hành lý nên hợp đồng dịch vụ du lịch còn
chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh xuất nhập cảnh năm 2000.
1.2. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG.
1.2.1. Hợp đồng dân sự.
1.2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng dân sự.
1.2.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về hợp đồng dân sự.
Hợp đồng ra đời từ nhu cầu thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh và lưu
thông hàng hoá, nó có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Hợp đồng bảo đảm cho việc duy trì một nền kinh tế thị trường vận hành đúng
quy luật. Trong nền kinh tế hàng - tiền thì mọi thoả thuận giữa các bên trong quan
hệ kinh tế đều phải hết sức rõ ràng và minh bạch có như vậy mới bảo đảm cho việc
thực hiện hợp đồng và là căn cứ cho việc xác định trách nhiệm của các bên khi xảy
ra tranh chấp liên quan đến hợp đồng.
Từ vai trò quan trọng đó của hợp đồng thì ở mọi Nhà nước đều có những
quy định về hợp đồng nhằm đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng , tránh tình
trạng các bên tuỳ tiện đưa vào hợp đồng những nội dung vi phạm pháp luật và trái
SVTH: Nguyễn Thị Yến
8
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
với nguyên tắc hoạt động của Nhà nước.
Theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005, tại điều 388 hợp đồng được
hiểu như sau: “ Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về viêc xác lập,
thay đổi chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”(1). Hợp đồng dân sự là một loại hợp
đồng nói chung và được hiểu theo nghĩa rộng. Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các
bên, tức là sự thống nhất về mặt ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp
đồng. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia chấp
nhận cũng không thể hình thành mối quan hệ hợp đồng để qua đó thực hiện việc
chuyển giao tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau được. Vì vậy, chỉ khi nào
có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên, thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất
mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là quan hệ hợp đồng dân sự.
Như vậy cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng dân sự là việc thoả thuận
bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật
( tức là được pháp luật bảo vệ ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà
nước. Các bên được tự do thoả thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng sự tự do đó được
đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và lợi ích
công cộng.
Khái niệm hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều khía cạnh khác
nhau.Theo phương diện khách quan, thì hợp đồng dân sự là do các quy định của
Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà
trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận để cùng nhau
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định.
Như vậy hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thuận để một bên chuyển giao
tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thoả thuận để thay
đổi chấm dứt các nghĩ vụ đó. Hợp đồng dân sự và pháp luật về hợp đồng dân sự là
hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Hợp đồng dân sự theo nghĩa chủ quan là
một quan hệ được hình thành từ sự thoả thuận của các bên để thoả mãn nhu cầu trao
đổi trong giao lưu dân sự. Còn pháp luật về hợp đồng dân sự là sự thừa nhận, là yêu
cầu của Nhà nước đối với giao lưu dân sự đó.
a). Đặc điểm của hợp đồng dân sự.
(1)(1) Điều 388 BLDS 2005
SVTH: Nguyễn Thị Yến
9
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
- Chủ thể của hợp đồng dân sự: Chủ thể tham gia vào hợp đồng dân sự là
những người tham gia vào quan hệ đó. Vì hợp đồng dân sự chính là sự cụ thể hóa
của các quan hệ pháp luật dân sự. Nên chủ thể của hợp đồng dân sự là chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy chủ thể của hợp đồng dân sự gồm cá nhân, pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước cũng là một chủ thể của quan hệ hợp
đồng dân sự . Tuy nhiên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng dân sự các chủ thể này
độc lập với nhau về tổ chức và tài sản. Để tham gia vào quan hệ dân sự cụ thể thì
các chủ thể phải có tư cách chủ thể theo quy định của pháp luật.
Vì vậy chủ thể của hợp đồng dân sự là rất rộng nó bao gồm đại bộ phận dân
cư trong xã hội.
- Mục đích của hợp đồng dân sự: Là cái mà các bên khi tham gia quan hệ
hợp đồng nhằm hướng tới. Trong hợp đồng dân sự thì mục đích của các chủ thể khi
giao kết hợp đồng là phục vụ nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt hàng ngày.
- Hình thức của hợp đồng dân sự: Theo điều 401 Bô luật dân sự 2005 đã nêu
rõ: Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi
cụ thể. Trong trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được giao kết dưới hình
thức cụ thể thì các bên phải tuân theo hình thức đó. Tại Điều 401 Bộ luật dân sự quy
định:
1.
Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải
được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2.
Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải
tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, hình thức của hợp đồng dân sự khá đa dạng tạo điều kiện cho các
chủ thể ký kết thuận lợi. Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật đã quy định
buộc phải giao kết theo hình thức nhất định, thì các bên phải tuân theo hình thức đó.
Ngoài ra đối với những hợp đồng khác các bên có thể chọn một trong các hình thức
sau đây để giao kết:
+ Hình thức miệng ( bằng lời nói).
SVTH: Nguyễn Thị Yến
10
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
Thông qua hình thức này, các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thoả thuận
miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những
hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường áp dụng trong những trường
hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những trường hợp mà ngay
sau khi giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt.
+ Hình thức viết ( bằng văn bản).
Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có thể
ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản. Trong văn bản đó, các bên
phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng ký tên xác nhận vào
văn bản. Khi có tranh chấp xảy ra hợp đồng được giao kết bằng hình thức văn bản
tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức miệng. Nên đối với những
hợp đồng mà việc thực hiện không cùng lúc với việc giao kết thì các bên thường sử
dụng hình thức này.Thông thường hợp đồng được thành lập thành nhiều bản và
mỗi bên giữ một bản coi như đã có trong tay một bằng chứng chứng minh quyền
dân sự của mình.
+ Hình thức có chứng nhận chứng thực.
Đối với những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối
tượng của nó là những loại tài sản mà Nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát khi
chúng cần được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác thì các bên phải lập
văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước, chứng thực của Uỷ ban nhân dân
có thẩm quyền. Hợp đồng được lập ra dưới hình thức này có giá trị chứng thực cao
nhất. Nên những hợp đồng mà Nhà nước không yêu cầu phải lập theo hình thức này
nhưng để quyền lợi của mình được bảo đảm, các bên vẫn có thể chọn hình thức này
để giao kết hợp đồng.
1.2.1.1.2. Phân loại hợp đồng dân sự.
Hợp đồng được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Vì vậy, để phân loại
hợp đồng thì ta cần phải căn cứ theo các tiêu chí đó để đảm bảo tính khách quan và
phù hợp với điều kiện thực tế đối với mỗi quốc gia. Ở nước ta thì quan niệm về hợp
đồng được thể hiện trong Bộ luật dân sự và Luật thương mại có sự khác biệt do tính
chất của
quan hệ dân sự và quan hệ thương mại là khác nhau.
SVTH: Nguyễn Thị Yến
11
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
Hợp đồng dân sự là bản giao kèo để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ dân
sự giữa các bên. Trong sự đa dạng của các hợp đồng dân sự, có thể dựa vào các dấu
hiệu đặc trưng để phân chúng thành từng nhóm khác nhau.
* Nếu dựa vào hình thức của hợp đồng, thì hợp đồng dân sự được phân thành
hợp đồng miệng, hợp đồng văn bản, hợp đồng có công chứng chứng nhận, hợp
đồng mẫu…
* Nếu dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên, thì hợp
đồng được phân làm hai loại là hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ:
- Hợp đồng song vụ: Là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có nghĩa vụ. Hay
nói cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đống song vụ là người vừa có quyền lại
vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong loại hợp đồng này thì quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng là đối lập nhau.
- Hợp đồng đơn vụ: là hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ mà
không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền và không phải thực
hiện một nghĩa vụ nào.
* Nếu dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng thì hợp
đồng được phân làm hai loại theo khoản 3 Điều 406 BLDS 2005 thì hợp đồng gồm :
- Hợp đồng chính: là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng
khác. Vì vậy các hợp đồng chính khi đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp luật
quy định thì đương nhiên phát sinh hiệu lực và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên
từ thời điểm giao kết
- Hợp đồng phụ: là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính
( khoản 4 Điều 406 BLDS).
* Nếu dựa vào tính chất có đi có lại về các lơị ích của các chủ thể , hợp đồng
dân sự được phân thành:
- Hợp đồng có đền bù: là loại hợp đồng mà trong đó mỗi chủ thể sau khi đã
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng.
- Hợp đồng không có đền bù: là hợp đồng mà trong đó một bên nhận được từ
bên kia một lợi ích nhưng không phải giao lại một lợi ích nào.
* Nếu dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực thì hợp đồng dân sự được phân
thành:
SVTH: Nguyễn Thị Yến
12
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
- Hợp đồng ưng thuận: là hợp đồng mà theo quy định của pháp luật, quyền
và nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau khi các bên thoả thuận với nhau xong về
nội dung chủ yếu của hợp đồng.
- Hợp đồng thực tế: là những hợp đồng mà sau khi thoả thuận, hiệu lực của
nó chỉ phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của
hợp đồng.
Tóm lại. Việc phân chia hợp đồng dân sự thành các loại nói trên vừa dựa vào sự quy
định của BLDS, vừa dựa trên phương diện lý luận. Qua đó, nhằm xác định được
những đặc điểm chung và riêng của từng nhóm hợp đồng, góp phần nâng cao hiệu
quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng dân sự.
1.2.1.2. Nội dung hợp đồng dân sự.
Nội dung của hợp đồng là các điều khoản do các bên thoả thuận, thể hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng
càng chi tiết cụ thể bao nhiêu thì càng có lợi cho việc thực hiện hợp đồng bấy nhiêu.
Như vậy, nội dung của hợp đồng nó thể hiện ý chí của các bên trong quá trình
thương lượng. Yêu cầu đặt ra là nội dung của hợp đồng phải hợp pháp, có khả năng
thực hiện, các điều khoản phải rõ ràng cụ thể, ý chí của các bên không được mập
mờ và mâu thuẫn.
Bộ luật dân sự 2005 là luật chung, nên các quy định của nó về nội dung của
hợp đồng là những quy định mang tính chất mở, và dùng làm định hướng cho các
lĩnh vực luật chuyên ngành.
Tại Điều 402 BLDS 2005 quy định nội dung của hợp đồng như sau (1)
“ Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung
sau:
-
Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc
không được làm.
-
Số lượng, chất lượng.
-
Giá phương thức thanh toán.
-
Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng.
-
Quyền, nghĩa vụ của các bên.
-
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
-
Phạt vi phạm hợp đồng.
(1)(1) Điều
402 Bộ Luật dân sự 2005
SVTH: Nguyễn Thị Yến
13
Khoá luận tốt nghiệp
-
Khoa Luật kinh tế
Các nội dung khác.
1.2.2.Dịch vụ và hợp đồng dịch vụ.
1.2.2.1. Vai trò của ngành dịch vụ trong xã hội.
Ngày nay, dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân, ở nước tiên tiến tỷ trọng của dịch vụ chiếm trong GDP là 70%
- 75%, ở Việt Nam tỷ lệ này là 40% Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam
lần thứ 9 đã chỉ rõ: “Toàn bộ các giá trị dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp
độ tăng trưởng bình quân 7 -8% / năm và đến năm 2010 chiếm 42 – 43% GDP,
26 – 27% số lao động”(1). Mạng lưới dịch vụ hình thành từ nông thôn đến thành thị
và ngày càng phát triển mạnh mẽ để phục vụ nhu cầu của nhân dân. Điều đó chứng
tỏ nền kinh tế đang trên đà phát triển và nhu cầu khách quan hình thành các loại
hình dịch vụ. Chính vì dịch vụ có vai trò quan trọng như vậy cho nên việc nghiên
cứu các khái niệm về dịch vụ có ý nghĩa đặc biệt đối với việc nghiên cứu các các
hoạt động về dịch vụ du lịch và hợp đồng dịch vụ du lịch.
1.2.2.2. Khái niệm dịch vụ và hợp đồng dịch vụ.
a). Dịch vụ.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường
dịch vụ được coi là mọi thứ có giá trị, khác với hàng hoá vật chất, mà một người
hoặc một tổ chức cung cấp cho một người hoặc một tổ chức khác để đổi lấy một
cái gì đó(2). Khái niệm này chỉ ra các tương tác của con người hoặc một tổ chức
khác trong quá trình hình thành dịch vụ. Khái niệm này cũng thể hiện quan điểm
hướng tới khách hàng vì giá trị của dịch vụ do khách hàng quyết định.
Trong lý luận Marketing, Dịch vụ được coi như là một hoạt động của chủ
thể này cung cấp cho chủ thể kia, chúng có tính vô hình và không làm thay đổi
quyền sở hữu. Dịch vụ có thể được tiến hành nhưng không nhất thiết phải gắn
liền với quan hệ vật chất.( Nguồn Giáo trình kinh tế du lịch của Trường ĐHKTQD
trang 217)
Một khái niệm dịch vụ hiện được sử dụng rộng rãi là khái niệm dịch vụ theo
định nghĩa của ISO 9004: 1991 “Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động
tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động của
người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng”
( Nguồn Giáo trình Kinh tế du lịch của trường ĐHKTQD trang 278).
(2)(2) Giáo trình Kinh tế Du lịch Tr. 216, Tr. 217. Nxb Thống kê
SVTH: Nguyễn Thị Yến
14
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
►Như vậy, Dịch vụ là kết quả của những hoạt động không thể hiện bằng
sản phẩm vật chất, nhưng bằng tính hữu ích của chúng và có giá trị kinh tế.
b). Hợp đồng dịch vụ.
● Khái niệm hợp đồng dịch vụ.
Trong BLDS 2005, hợp đồng dịch vụ là một hợp đồng có những đặc điểm
riêng. Các quy phạm của hợp đồng dịch vụ điều chỉnh các loại dịch vụ cụ thể như:
Dịch vụ sửa chữa tài sản,dịch vụ pháp lý, dịch vụ cung cấp thông tin thương mại,
dịch vụ quảng cáo…
Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc cụ thể. Người cung ứng dịch vụ
bằng công sức, trí tuệ của mình để hoàn thành công việc đã nhận. Tuy nhiên, người
cung ứng dịch vụ có thể sử dụng người cộng sự giúp việc cho mình và phải chịu
trách nhiệm về những việc xảy ra do lỗi của người cộng sự. Tuy vậy, bên cung ứng
dịch vụ không được giao cho người khác làm thay công việc nếu không có sự đồng
ý của bên thuê dịch vụ. Khi thoả thuận về việc thực hiện công việc dịch vụ phải đưa
ra các yêu cầu của mình về chất lượng kỹ thuật các thông số khác… Từ đó các bên
có cơ sở thoả thuận các điều kiện cung ứng dịch vụ.
Theo Điều 518 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận
giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch
vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ”
● Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ.
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy hợp đồng dịch vụ có những đặc điểm sau
đây:
-
Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các hành vi pháp lý nhất định và
giao kết quả cho bên thuê dịch vụ. Tức là bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các
nghĩa vụ mà được bên thuê dịch vụ yêu cầu nhưng phải đảm bảo đúng quy định của
pháp luật, và khi thực hiện xong thì phải thông báo cho bên thuê dịch vụ đến nhận
hoặc giao trực tiếp cho bên thuê dịch vụ.
-
Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng có đền bù. Bên thuê dịch vụ phải trả
tiền công cho bên cung ứng dịch vụ, khi bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện công
việc và mang lại kết quả như đã thoả thuận.
-
Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ: Cả bên cung ứng dịch vụ và
SVTH: Nguyễn Thị Yến
15
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
bên thuê dịch vụ đều có nghĩa vụ đối với nhau. Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện
hành vi pháp lý theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ
tiếp nhận kết quả công việc và trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ.
● Đối tượng của hợp đồng dịch vụ.
Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được. Tức là
công việc ấy phải có thực, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội (Điều
519 BLDS 2005 ).
c). Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ.
*. Bên thuê dịch vụ.
Bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ trả tiền thù lao về kết quả công việc mà bên
cung ứng dịch vụ đã hoàn thành. Nếu đối tượng của hợp đồng dịch vụ yêu cầu phải
có thông tin từ bên thuê dịch vụ, thì bên thuê phải cung cấp tài liệu, thông tin đầy đủ
cho bên cung ứng dịch vụ ( dịch vụ pháp lý). Đối với những loại dịch vụ yêu cầu
phải có phương tiện để thực hiện, bên thuê phải cung cấp phương tiện đó. (Điều
520 BLDS 2005).
Trong quá trình thực hiện dịch vụ nếu có những sai sót từ bên cung ứng dịch
vụ, bên thuê dịch vụ có quyền sửa chữa những sai sót đó. Nếu sai sót nghiêm trọng
đòi hỏi phải chi phí thêm, bên thuê dịch vụ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bên thuê dịch vụ có quyền hủy hợp đồng nếu bên cung ứng dịch vụ hoàn
thành kết quả không như thỏa thuận. Hoặc hoàn thành công việc không đúng thời
gian mà công việc không còn ý nghĩa đối với bên thuê dịch vụ và yêu cầu bên cung
ứng dịch vụ bồi thường thiệt hại nếu có. (Điều 521 BLDS 2005).
Yêu cầu bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số
lượng, địa điểm và các thỏa thuận khác. Nếu bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ thì bên thuê dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ trả tiền công
cho bên cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận.
*. Bên cung ứng dịch vụ.
Bên cung ứng dịch vụ có thể là cá nhân tổ chức dùng công sức của mình để
hoàn thành, thực hiện công việc do bên thuê dịch vụ chỉ định. Trong thời gian thực
hiện hợp đồng phải tự mình tổ chức thực hiện công việc. Khi hết hạn của hợp đồng
SVTH: Nguyễn Thị Yến
16
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
phải giao lại kết quả của công việc mà mình đã thực hiện cho bên thuê dịch vụ.
Bên cung ứng dịch vụ có quyền bên thuê dịch vụ phải cung cấp thông tin, tài
liệu và phương tiện. Được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ,
mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ, nhưng phải báo cáo ngay
cho bên thuê dịch vụ. Yêu cầu bên thuê dịch vụ trả tiền công. Sau khi hoàn thành
công việc đúng kỳ hạn mà bên thuê dịch vụ không nhận kết quả của công việc, nếu
xảy ra rủi ro, bên cung ứng dịch vụ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại cho
bên thuê dịch vụ (Điều 523 BLDS).
Trong thời gian thực hiện dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ có thể thay đổi
những điều kiện dịch vụ, nếu việc thay đổi đó không làm phương hại đến lợi ích của
bên thuê dịch vụ. Trong quy trình thực hiện nghĩa vụ, bên cung ứng dịch vụ phải tự
mình chuẩn bị phương tiện. kỹ thuật và tổ chức thực hiện công việc mà mình đã
nhận. Do vậy, điều kiện của dịch vụ có thể thay đổi cho phù hợp với khả năng của
bên cung ứng dịch vụ.Khoản 2 Điều 523 BLDS 2005 “Được thay đổi điều kiện
dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ, mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của bên
thuê dịch vụ, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên thuê dịch vụ, nhưng phải
thông báo ngay cho bên thuê dịch vụ”(1)
Trong tình trạng bình thường, bên cung ứng dịch vụ không có quyền thay đổi
điều kiện của dịch vụ, nếu việc thay đổi đó không mang lại lợi ích cho bên thuê dịch
vụ. Trường hợp này cần phải thỏa thuận với bên thuê dịch vụ. Nhưng khi cung ứng
dịch vụ nếu không thay đổi điều kiện của dịch vụ sẽ gây thiệt hại cho bên thuê dịch
vụ, việc thay đổi này phải hoàn toàn xuất phát từ lợi ích của bên thuê dịch vụ. Trong
trường hợp này bên cung ứng dịch vụ được phép thay đổi điều kiện dịch vụ và phải
thông báo cho bên thuê dịch vụ. Khi thực hiện dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ
biết được việc tiếp tục làm dịch vụ sẽ có hại cho bên thuê dịch vụ thì bên cung ứng
dịch vụ có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng mặc dù bên thuê dịch vụ
không đồng ý. Bên thuê dịch vụ có thể không thấy hoặc không lường trước hết được
hậu quả xảy ra nếu tiếp tục thực hiện công việc. Bên cung ứng dịch vụ cần phải giải
thích cho bên thuê dịch vụ sự cần thiết phải chấm dứt hợp đồng nếu không sẽ gây
thiệt hại cho bên thuê dịch vụ. Trong trường hợp này bên thuê dịch vụ phải thanh
(1)(1) Khoản 2 Điều 523 Tr 239 BLDS 2005
SVTH: Nguyễn Thị Yến
17
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
toán chi phí cho bên cung ứng dịch vụ theo số lượng và chất lượng công việc mà họ
đã làm.
Khi hợp đồng thực hiện một công việc mà các bên không thỏa thuận về kết
quả công việc đó và nếu hết hạn của hợp đồng mà công việc chưa hoàn thành thì về
nguyên tắc hợp đồng chấm dứt và cần thanh lý hợp đồng. Nếu bên cung ứng dịch
vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng cho đến khi hoàn thành mà bên thuê dịch vụ không
có ý kiến gì về việc kéo dài thời gian đó thì hợp đồng khi đó được coi là kéo dài
thời hạn. Trong trường hợp này bên thuê dịch vụ phải thanh toán tiền công của thời
gian đã kéo dài sau khi hết hạn hợp đồng (Điều 526 BLDS 2005).
Trong tất cả các điều khoản nói trên, có những điều khoản mà ở hợp đồng
này không cần thoả thuận nhưng ở một hợp đồng khác các bên lại buộc phải thoả
thuận thì hợp đồng mới được coi là đã giao kết. Mặt khác ngoài nội dung cụ thể các
bên còn phải thoả thuận để xác định với nhau thêm một số nội dung khác.
Vì vậy, có thể phân chia các điều khoản trong nội dung của hợp đồng thành 3
loại như sau:
* Điều khoản cơ bản:
Các điều khoản cơ bản xác định nội dung cơ bản của hợp đồng. Đó là những
điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng. Nếu không thể thoả
thuận được những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được. Điều khoản
cơ bản có thể do tính chất của hợp đồng quyết định hoặc do pháp luật quyết định.
Có những điều khoản đương nhiên là điều khoản cơ bản vì nếu không thoả thuận tới
nó sẽ không hình thành hợp đồng. Chẳng hạn, điều khoản về đối tượng luôn là điều
khoản cơ bản trong hợp đồng mua bán tài sản. Nhưng có những điều khoản mà vốn
dĩ không phải là điều khoản cơ bản nhưng các bên thấy cần thiết phải thoả thuận
được điều khoản đó mới giao kết hợp đồng, thì những điều khoản đó cũng là những
điều khoản cơ bản của hợp đồng.
* Điều khoản thông thường:
Là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu khi giao kết hợp
đồng các bên không thoả thuận những điều khoản này, thì vẫn coi như hai bên đã
mặc nhiên thoả thuận và được thực hiện như pháp luật đã quy định. Khác với điều
khoản cơ bản, các điều khoản thông thường không làm ảnh hưởng đến quá trình
SVTH: Nguyễn Thị Yến
18
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
giao kết hợp đồng. Để giảm bớt sự phức tạp trong giao kết hợp đồng thì các bên có
thể không đưa các nội dung đó vào hợp đồng nhưng vẫn thực hiện các nội dung đó
trên thực tế.
* Điều khoản tuỳ nghi:
Ngoài những điều khoản phải thoả thuận vì tính chất của hợp đồng và những
điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng các bên có thể
thoả thuận để xác định thêm một số điều khoản khác nhằm làm cho nội dung của
hợp đồng được cụ thể thuận lợi cho các bên trong quá trình thực hiện. Điều khoản
tuỳ nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng tự ý lựa chọn
và thoả thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Thông
qua điều khoản tuỳ nghi bên có nghĩa vụ được phép lựa chọn một trong các cách
thức nhất định để thực hiện hợp đồng sao cho thuận lợi mà vẫn đảm bảo được yêu
cầu của bên kia.
►Như vậy, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể là điều
khoản cơ bản, có thể là điều khoản thông thường hoặc điều khoản tuỳ nghi.
1.2.3. DU LỊCH VÀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ DU LỊCH.
1.2.3.1. Khái niệm, đặc điểm về du lịch.
a). Khái niệm du lịch.
Theo khoản 1 Điều 4 Luật du lịch 2005: “ Du lịch là hoạt động có liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú của mình nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng, trong một khoảng thời gian nhất
định”(1)
Theo định nghĩa đó thì hợp đồng du lịch là một loại hợp đồng được giao kết
nhằm đáp ứng các nhu cầu đó của khách du lịch ( là người đi du lịch hoặc kết hợp đi
du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến)
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ. Sản phẩm của ngành du lịch chủ yếu là dịch
vụ, không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu kho lưu bãi, không chuyển quyền sở
hữu khi sử dụng. Do vậy nó cũng mang đặc trưng chung của dịch vụ. Chính vì thế,
trên cơ sở những khái niệm chung về dịch vụ, chúng ta có thể đưa ra khái niệm dịch
vụ du lịch như sau: Dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương
(1)(1) Khoản 1 Điều 4 Luật du lịch 2005
SVTH: Nguyễn Thị Yến
19
Khoá luận tốt nghiệp
Khoa Luật kinh tế
tác giữa những tổ chức cung ứng dịch vụ và khách du lịch và thông qua các hoạt
động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ
chức cung ứng dịch vụ du lịch.
Theo khoa học pháp lý, Tại khoản 11 Điều 4 Luật du lịch 2005: “ Dịch vụ
du lịch được hiểu là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú,
ăn uống, vui chơi, giải trí, thông tin hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch”(2)
Như vậy, hợp đồng du lịch chủ yếu đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng của
khách du lịch, người tiêu dùng dịch vụ cá nhân khi sử dụng dịch vụ du lịch do các
hãng lữ hành cung cấp không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu để thoả mãn
nhu cầu sinh hoạt của bản thân, nên thực chất hợp đồng du lịch mang yếu tố dân sự
nhiều hơn đối với khách du lịch, còn đối với nhà cung cấp dịch vụ thì thông qua
việc đáp ứng nhu cầu của khách du lịch để thu được lợi nhuận, nên mục đích
thương mại là rất rõ ràng. Do có sự xung đột về mục đích giữa người tiêu dùng dịch
vụ và nhà cung cấp dịch vụ như vậy nên việc áp dụng pháp luật đôi khi cũng gặp
những vấn đề khó khăn.
Còn đối với người sử dụng dịch vụ du lịch là một pháp nhân, mua chương
trình lữ hành cho cán bộ nhân viên Công ty mình thì đó lại là nhằm mục đích
thương mại, vì đó là chính sách hoạt động của Công ty, và cũng là chiến lược nhằm
nâng cao năng suất lao động cho cán bộ nhân viên Công ty mình.
Nếu khách du lịch sử dụng dịch vụ du lịch nhằm mục đích tiêu dùng thì khi
giao kết hợp đồng luật áp dụng sẽ là Luật dân sự hiện hành, nhưng nếu bên cung
ứng dịch vụ và bên tiêu dùng dịch vụ thống nhất là áp dụng luật thương mại thì
trong trường hợp đó Luật thương mại sẽ được dung làm căn cứ pháp lý khi giao kết
hợp đồng ( theo Điều 1 Luật thương mại 2005).
b). Đặc điểm của dịch vụ du lịch:
Cũng như dịch vụ nói chung, dịch vụ du lịch có những đặc trưng sau:
* Tính phi vật chất.
Đây là tính chất quan trọng nhất của sản xuất dịch vụ du lịch. Tính phi vật
chất đã làm cho du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm từ trước.
(2)(2) Khoản 11 Điều 4 Luật du lịch 2005
SVTH: Nguyễn Thị Yến
20
- Xem thêm -