Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong các chỉ tiêu tài chính, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được
coi là một chỉ tiêu đặc biệt quan trọng, nó luôn ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo
kết quả kinh doanh, cũng như ảnh hưởng rất lớn đến các chỉ tiêu trong Bảng cân đối
kế toán: Lợi nhuận chưa phân phối, thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp…Đồng
thời, nó luôn là nền tảng để các chủ danh nghiệp cũng như người quan tâm xem xét,
đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Kiểm toán khoản mục doanh thu
BH&CCDV là bước thiết yếu trong kiểm toán Báo cáo tài chính cho bất kỳ khách
hàng nào. Công ty kiểm toán Aticvietnam luôn chú trọng khoản mục doanh thu
BH&CCDV hơn so với các khoản mục khác. Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 14Kế toán doanh thu là một trong bốn chuẩn mực đầu tiên do Bộ tài chính ban hành.
Nhận thức được tầm quan trọng của công việc kiểm toán doanh thu BH&CCDV,
trong thời gian thực tập tại công ty kiểm toán Aticvietnam, dưới sự hướng dẫn tận
tình của cô giáo Ths. Bùi Thị Minh Hải và các anh chị KTV, em đã lựa chọn đề tài:
“ Hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ trong
kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty kiểm toán Aticvietnam thực hiện” làm
Khóa luận tốt nghiệp đại học cho mình.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong Khóa luận của mình, em chỉ đi sâu nghiên cứu kiểm toán khoản mục
doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong doanh nghiệp sản xuất mà chưa đi
sâu vào nghiên cứu toàn bộ các khoản mục khác của doanh thu như: Doanh thu nội
bộ, doanh thu hoạt động tài chính hay của loại hình doanh nghiệp khác như công ty
thương mại, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ...
Phƣơng pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp luận của phép biện chứng duy vật kết hợp với các
phương pháp toán học, logic…cùng với các kỹ thuật kế toán, kiểm toán và những
kiến thức mà em đã học, tích lũy được đã giúp em hoàn thành Khóa luận này.
Nội dung của Đề tài
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Phụ lục, nội dung Khóa luận gồm các phần
sau:
Phần I: Lý luận chung về kiểm toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch
vụ trong kiểm toán tài chính
Phần II: Thực trạng kiểm toán doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài
chính được thực hiện tại công ty Aticvietnam.
Phần III: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán khoản mục
doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty Aticvietnam.
Những đóng góp của Đề tài
Trong Khóa luận của mình, em đã đi nghiên cứu thực trạng kiểm toán khoản
mục doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, em có đưa ra những
nhận xét và kiến nghị đối với công ty nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa chương
trình kiểm toán khoản mục doanh thu BH&CCDV.
Do còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, cách diễn đạt ý nên Khóa luận này
không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của cô
giáo cùng những người quan tâm để Khóa luận của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của cô giáo
Ths.Bùi Thị Minh Hải đã giúp em hoàn thành Khóa luận này.
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN DOANH THU BÁN
HÀNG & CUNG CẤP DỊCH VỤ TRONG KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
1.1.Khái quát về kiểm toán tài chính
1.1.1.Khái niệm về kiểm toán tài chính
Kiểm toán là một hoạt động có từ rất lâu đời, tính từ thời mà các thông tin được
phê chuẩn bằng cách đọc lên trong một buổi họp công khai. Vì thế từ gốc của thuật
ngữ kiểm toán(Audit) theo tiếng La tinh là “Auditus” có nghĩa là “nghe”(1). Từ thời
Trung cổ, kiểm toán đã được thực hiện bởi các KTV nhà nước và KTV nội bộ để
thẩm tra về tính chính xác của các thông tin tài chính. Trong giai đoạn này, lĩnh vực
kiểm toán phát triển chủ yếu là kiểm toán tuân thủ. Sau này, với sự phát triển như
vũ bão của nền kinh tế toàn cầu, kiểm toán độc lập đã được ra đời và ngày càng
chiếm một tầm quan trọng lớn nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Thuật ngữ “kiểm toán” thực sự mới xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ hơn
một chục năm cuối thế kỷ XX. Chính vì thế, có rất nhiều quan điểm khác nhau về
kiểm toán. Nhìn chung có thể khái quát thành ba quan điểm chính sau:
Quan điểm 1: đó là đồng nhất giữa kiểm toán và kiểm tra kế toán. Tuy nhiên,
kiểm tra kế toán không phải là một hoạt động độc lập mà nó gắn liền với hoạt động
của kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán và nằm ngay trong hoạt động của kế
toán. Trong khi đó, kiểm toán luôn là một hoạt động độc lập với kế toán. Quan điểm
này mang tính truyền thống, đồng thời nó chỉ tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung.
Quan điểm 2: kiểm toán được hiểu theo đúng thời cuộc của nó, đó là phát sinh
cùng thời với cơ chế thị trường. Theo quan điểm này, người ta thường dẫn ra quan
niệm của các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ hay của Vương quốc Anh: “Kiểm toán
là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí
nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo
đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”(2).
Quan điểm 3: là một quan điểm hiện đại về kiểm toán. Theo quan điểm này,
phạm vi kiểm toán rất rộng, bao gồm bốn lĩnh vực: kiểm toán thông tin(Information
audit), kiểm toán quy tắc( Regularity audit), kiểm toán hiệu quả( Efficiency audit),
(1)
(2)
Theo Webster’s Seventh New Collegiate Dictionary, 1965
Lời mở đầu”Giải thích về các chuẩn mực kiểm toán”
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
kiểm toán hiệu năng( Effectiveness audit)..
1.1.2. Bản chất của kiểm toán tài chính
Các quan điểm nói trên không hoàn toàn đối lập, mâu thuẫn và khác nhau mà là
phản ánh quá trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán. Cũng như
nguyên lý về sự phát triển trong triết học khẳng định: “Phát triển là một phạm trù
triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật”(3).
Có thể đi đến kết luận rằng, bản chất của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến
về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật
của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình
độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
1.1.3.Đối tượng và cách tiếp cận trong kiểm toán tài chính
* Đối tượng kiểm toán tài chính
Đối tượng kiểm toán là các hoạt động cần kiểm toán. Để xác minh tính trung
thực, hợp lý của các khoản mục trên Báo cáo tài chính thì kiểm toán viên nhất thiết
phải tiến hành đối chiếu các số dư tài khoản, thậm chí cả các chứng từ kế toán. Do
đó đối tượng kiểm toán trước hết là các tài liệu kế toán. Cuối thế kỷ XX, ngoài lĩnh
vực tài chính kế toán, kiểm toán còn quan tâm tới các lĩnh vực khác của quản lý như
hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực: vốn, lao động, tài nguyên cũng như hiệu
năng của các chương trình, dự án, nghiệp vụ, mục tiêu…
Như vậy, các yếu tố cấu thành cơ bản của đối tượng kiểm toán là:
Thực trạng hoạt động tài chính – đối tượng chung của kiểm toán;
Thực trạng Tài sản và Nghiệp vụ tài chính – đối tượng cụ thể của kiểm
toán;
Tài liệu kế toán – đối tượng cụ thể của kiểm toán;
Hiệu quả, hiệu năng – đối tượng cụ thể của kiểm toán.
Đối tượng kiểm toán rất rộng được thể hiện trên nhiều khách thể khác nhau. Do
đó muốn thực hiện tốt chức năng kiểm toán nhất thiết yêu cầu các KTV phải có
nghệ thuật trong việc tổ chức thực hiện kiểm toán.
* Cách tiếp cận kiểm toán tài chính
Trong kiểm toán tài chính, thường có hai cách cơ bản để tiếp cận kiểm toán tài
chính. Đó là phân theo khoản mục và phân theo chu trình.
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Phân theo khoản mục: là cách phân chia máy móc theo từng khoản mục hay
nhóm các khoản mục vào một phần hành. Cách phân chia này đơn giản, giảm thời
gian, chi phí nhưng hiệu quả không cao do tách những khoản mục ở vị trí khác nhau
nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Từ đó dẫn đến cái nhìn hạn chế của các KTV
về sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các chu trình. VD như hàng tồn kho với giá
vốn hàng bán, doanh thu với nghĩa vụ phải nộp ngân sách nhà nước(thuế)…
Phân theo chu trình: Là cách phân chia dựa theo mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau
giữa các khoản mục, các quá trình cấu thành các yếu tố trong một chu trình chung
của hoạt động tài chính. Cách phân chia này hiệu quả hơn do được xuất phát từ mối
quan hệ vốn có của các nghiệp vụ. Theo cách tiếp cận này, các phần hành cơ bản
của kiểm toán tài chính gồm:
Kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
Kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán
Kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên
Kiểm toán tiền
Kiểm toán hàng tồn kho
Kiểm toán tiếp nhận và hoàn trả vốn.
1.1.4.Chức năng của kiểm toán
Từ bản chất của kiểm toán, người ta thấy được rằng: kiểm toán có chức năng
nền tảng là xác minh và bày tỏ ý kiến.
* Với chức năng xác minh: Chức năng này nhằm khẳng định tính trung thực của
các tài liệu( thông tin), tính pháp lý trong việc thực hiện các nghiệp vụ cũng như lập
các Báo cáo tài chính. Chức năng này được biểu hiện thành hai mặt:
Xác minh độ tin cậy của các con số.
Xác minh việc tuân thủ các quy định và tính hợp thức, hợp pháp của các
biểu mẫu kế toán(gọi là xác minh quy tắc).
* Với chức năng bày tỏ ý kiến: Chức năng này có thể được hiểu rộng với nghĩa
cả kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Nó được
biểu hiện dưới hình thức tư vấn mà sản phẩm của hình thức này là thư quản lý
(managerment letter).
(3)
Giáo trình Triết học Mác-Lênin, NXB Chính trị Quốc gia năm 2006, Hà Nội, tr 187
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
1.1.5.Mục tiêu kiểm toán tài chính
Là một loại hình kiểm toán, kiểm toán tài chính cũng thực hiện chức năng xác
minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán. Đối tượng kiểm toán thì luôn chứa
đựng những mối quan hệ về kinh tế và pháp lý phong phú, đa dạng. Do đó nên chức
năng xác minh và bày tỏ ý kiến cấn được xác minh thật khoa học. Mặt khác, ý kiến
hay kết luận kiểm toán không chỉ phục vụ cho người lập hay người xác minh mà
còn phục vụ cho người quan tâm đến tính trung thực, hợp pháp của BCTC. Chính vì
vậy, kết luận này phải dựa trên bằng chứng đầy đủ, có hiệu lực voiứ chi phí kiểm
toán thấp nhất. Để thực hiện cuộc kiểm toán đúng hướng và có hiệu quả cao, việc
xác định hệ thống mục tiêu kiểm toán khoa học trên cơ sở các mối quan hệ sẵn có
của đối tượng và của khách thể kiểm toán là thực sự cần thiết. Tầm quan trọng của
nó đã được thể hiện rất cụ thể trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200(Mục
tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán BCTC). Chuẩn mực xác định: “Mục
tiêu của kiểm toán BCTC là giúp cho KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác
nhận rằng BCTC có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành
hoặc được chấp nhận, có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và
hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không.
Mục tiêu kiểm toán tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những
tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn
vị”.
Đối với KTV hay các công ty kiểm toán, việc xác minh không chỉ dừng ở các
mục tiêu chung mà phải cụ thể vào từng phần hành kiểm toán( hay chính là mục
tiêu đặc thù). Do đó, hệ thống mục tiêu kiểm toán bao gồm cả những mục tiêu đặc
thù. Mục tiêu kiểm toán chung được chia thành hai loại là: mục tiêu hợp lý chung
và mục tiêu chung khác. Còn mục tiêu kiểm toán đặc thù được xác định trên cơ sở
mục tiêu chung và đặc điểm của khoản mục hay phần hành, cùng với hệ thống kế
toán, hệ thống kiểm soát nội bộ theo dõi chúng. Nhìn chung, hệ thống mục tiêu
kiểm toán đặc thù thường được đặt ra là:
Mục tiêu hiệu lực
Mục tiêu trọn vẹn
Mục tiêu quyền và nghĩa vụ
Mục tiêu định giá
Mục tiêu phân loại và trình bày
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Mục tiêu chính xác cơ học
1.1.6. Phương pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
1.1.6.1. Đặc điểm của kiểm toán tài chính với phương pháp kiểm toán
Như chúng ta đã biết, mỗi loại kiểm toán khác nhau sẽ có những chức năng, đối
tượng cụ thể khác nhau và quan hệ chủ thể, khách thể kiểm toán khác nhau. Chính
vì thế, cách thức kết hợp các phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài
chứng từ trong kiểm toán tài chính cũng có những điểm đặc thù.
Trước hết, xét về chức năng của kiểm toán, kiểm toán tài chính hướng tới việc
bày tỏ ý kiến trên cơ sở các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và phù hợp. Để đạt được
các bằng chứng này, kiểm toán tài chính cần thực hiện các phương pháp cơ bản theo
từng trường hợp cụ thể. Thông thường, nó thường được triển khai theo hướng kết
hợp hoặc chi tiết thành các cách kiểm toán cụ thể, điều đó tùy vào tính huống cụ thể
trong suốt quá trình kiểm toán.
Đối tượng của kiểm toán tài chính là các báo cáo kế toán và các bảng tổng hợp
tài chính khác. Các bảng này vừa chứa đựng những mối quan hệ kinh tế tổng quát,
vừa phản ánh cụ thể từng loại tài sản, nguồn vốn…Do đó, kiểm toán tài chính
thường là kiểm toán liên kết và hình thành những thủ tục với việc sử dụng liên hoàn
các phương pháp kiểm toán cơ bản để đưa ra ý kiến đúng đắn, trung thực về các báo
cáo và bảng này.
Tác động đến kỹ thuật kiểm toán tài chính còn có mối liên hệ giữa nội kiểm và
ngoại kiểm trên quan điểm hiệu quả. Để đảm bảo tính hiệu quả trong kiểm toán tài
chính thì trình tự phổ biến được thực hiện là tiến hành kiểm toán theo trình tự ngược
với trình tự kế toán.
1.1.6.2.Các trắc nghiệm trong kiểm toán tài chính
Trước hết, chúng ta cần hiểu trắc nghiệm là gì?. Trong kiểm toán tài chính,
người ta thường hiểu trắc nghiệm: “Trắc nghiệm được hiểu là các cách thức xác
định trong việc vận dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ
vào xác minh các nghiệp vụ, các số dư tài khoản hoặc các khoản mục cấu thành
bảng khai tài chính”(4).
Từ các cách thức vận dụng đó hình thành nên các loại trắc nghiệm khác nhau,
mà cụ thể là hình thành ba loại trắc nghiệm cơ bản: trắc nghiệm công việc, trắc
(4)
GS.TS Nguyễn Quang Quynh-TS Ngô Trí Tuệ, Giáo trình Kiểm toán tài chính, NXB Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội 2006, tr 19
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
nghiệm trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích.
1.2.Đặc điểm khoản mục doanh thu bán hàng& cung cấp dịch vụ ảnh hƣởng
đến vấn đề kiểm toán Báo cáo tài chính
1.2.1.Những vấn đề chung về doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ
1.2.1.1.Khái niệm và phân loại doanh thu
1.2.1.1.1. Khái niệm doanh thu
Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp của ba yếu tố: lao động, tư
liệu lao động và đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm cần thiết phục vụ nhu
cầu của con người. Sản phẩm đó để bán tiêu dùng hoặc là đầu vào của quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp khác. Qua tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp sẽ
ghi nhận doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ. Như vậy, khâu tiêu thụ là khâu cuối
cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những chỉ tiêu thể hiện rõ
nét khả năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Kết quả của khâu
này được thể hiện trên Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể ở chỉ
tiêu doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ và doanh thu thuần.
Trong cuốn Lý thuyết kinh tế học của David Begg, ông đã đưa ra một cách nhìn
cụ thể về vai trò của doanh thu đối với các quyết định kinh tế của doanh nghiệp
cũng như những người quan tâm. Ông đã đưa ra một khái niệm rất đơn giản, ngắn
gọn mà súc tích về doanh thu. Đó là: “Doanh thu của một hãng là số tiền mà nó
kiếm được qua việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ trong một giai đoạn nhất
định ví như trong một năm”(5).
Trong cuốn Tư bản của Mác, Người cho rằng sản phẩm không chỉ là hàng hóa,
mà là hàng hóa mang trong mình một giá trị thặng dư. Giá trị của nó bao gồm tư
liệu sản xuất và sức lao động hao phí cộng với giá trị thặng dư do tư bản sản xuất đẻ
ra, hay chính là C+V+M. Khi nhà tư bản tiêu thụ hàng hóa thì nhà tư bản thu được
doanh thu. Như vậy, “Doanh thu là kết quả của quá trình tiêu thụ, đó là quá trình
thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Qua tiêu thụ, sản phẩm chuyển từ
hình thái hiện vật sang hình thái giá trị”(6).
Theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 14 - Doanh thu và thu nhập khác thì:
“Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế
toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh
(5)
(6)
Lý thuyết kinh tế học của David Begg, NXB Giáo dục, 1998
Tư bản của Mác- NXB Giáo dục 1995
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu”.
Thuật ngữ Doanh thu được sử dụng chỉ bao gồm tổng giá trị các lợi ích kinh tế
doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được. Các khoản thu hộ không phải là nguồn
lợi ích kinh tế, không làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ không được coi
là doanh thu (Ví dụ: Đại lý thu hộ tiền bán hàng cho đơn vị gửu đại lý, thì doanh thu
của người nhận đại lý chỉ là tiền hoa hồng đại lý được hưởng và hạch toán vào tài
khoản 511 của bên đại lý). Các khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu làm
tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng không là doanh thu.
Khái niệm trên đã cho ta thấy rõ quan niệm về doanh thu theo cả lý luận và thực
tiễn hoạt động kế toán, kiểm toán. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được
xác định bằng giá trị hợp lý của các khoản đã thu hoặc sẽ thu được sau khi trừ các
khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại.
1.2.1.1.2. Phân loại doanh thu
Để hiểu rõ hơn nữa về doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ thì cần có sự
phân loại một cách cụ thể. Phân loại doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ giúp
cho việc xác định doanh thu của từng loại được nhìn nhận và tính toán một cách
chính xác. Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14, Doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận sau:
* Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ(Kế toán sử dụng TK 511-Doanh thu
bán hàng và cung cấp dịch vụ): Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được phản
ánh từ các giao dịch và các nghiệp vụ sau:
Bán hàng: Bán các sản phẩm, thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra và bán
hàng hóa mua vào
Cung cấp dịch vụ: Thực hiện công việc đã thỏa thuận theo hợp đồng trong một
hoặc nhiều kỳ kế toán như cung cấp dịch vụ vận chuyển, đi lại, dịch vụ vệ sinh công
nghiệp, dịch vụ chăm sóc cỏ…
Doanh thu BH&CCDV là toàn bộ lợi ích thu được hoặc sẽ thu được từ các giao
dịch hay nghiệp vụ phát sinh doanh thu như bán sản phẩm, thành phẩm, hàng hóa,
cung cấp dịch vụ cho khách hàng gồm cả những khoản phụ thu và phí thu thêm
ngoài giá bán(nếu có).
Nếu doanh nghiệp áp dụng việc tính thuế GTGT phải nộp theo
phương pháp khấu trừ thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là doanh
thu chưa có thuế, đồng thời doanh nghiệp sử dụng “Hóa đơn GTGT”.
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Nếu doanh nghiệp áp dụng việc tính thuế GTGT phải nộp theo
phương pháp trực tiếp thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là doanh
thu có tính thuế, đồng thời doanh nghiệp sử dụng “Hóa đơn bán hàng”.
Đối với sản phẩm, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt,
hoặc thuế xuất nhập khẩu thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng
giá thanh toán.
Doanh thu BH&CCDV mà doanh nghiệp thực hiện trong kỳ kế toán có thể thấp
hơn doanh thu BH&CCDV ghi nhận ban đầu do các nguyên nhân như: Chiết khấu
thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại hoặc nộp thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế xuất khẩu, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp được tính trên doanh thu
BH&CCDV thực tế thực hiện.
Nếu doanh nghiệp có doanh thu BH&CCDV bằng ngoại tệ thì phải quy đổi
ngoại tệ ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ hoặc tỷ giá thực tế tại thời điểm
phát sinh nghiệp vụ.
* Doanh thu tiêu thụ nội bộ(512): Tài khoản này phản ánh doanh thu của sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trong một kỳ kế toán của số lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ
tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty, tổng công ty…
* Các khoản giảm trừ doanh thu
Chiết khấu thương mại: là số tiền mà doanh nghiệp giảm giá niêm yết cho khách
hàng mua với khối lượng lớn.
Giảm giá hàng bán: là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hóa đơn hay hợp
đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất,
không đúng quy cách, giao hàng không đúng thời gian, địa điểm trong hợp đồng…
Hàng bán bị trả lại: là số hàng đã được tính là tiêu thụ nhưng bị người mua trả
lại, từ chối do làm không đúng quy cách, phẩm chất…như đã quy định điều khoản
ở trong hợp đồng hay như đã thỏa thuận.
Ngoài ra còn có những khoản được ghi nhận là các khoản giảm trừ doanh thu như:
thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.
1.2.1.2.Nguyên tắc ghi nhận doanh thu
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là chỉ tiêu đặc biệt quan trọng bởi lẽ: nó
ảnh hưởng rất lớn tới các chỉ tiêu khác trên bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
kinh doanh như: thuế, lợi nhuận chưa phân phối, phải thu khách hàng, lãi từ hoạt
động sản xuất kinh doanh…, cũng như ảnh hưởng rất lớn đến những người quan
tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do tầm quan trọng của chỉ tiêu này
nên việc việc ghi nhận doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ cần phải tuân theo
một số quy định sau:
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14-Doanh thu và Thu nhập khác thì :
* Doanh thu bán hàng chỉ ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn năm điều kiện như sau:
Doanh nghiệp chuyển giao phần lớn rủi ro, lợi ích gắn liền với quyền sở
hữu sản phẩm cho người mua.
Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý, quyền kiểm soát sản
phẩm hàng hóa.
Doanh thu xác định tương đối chắc chắn.
Doanh nghiệp đã thu được hay sẽ thu được lợi ích kinh tế từ bán hàng.
Xác định được chi phí liên quan đến bán hàng.
* Doanh thu về cung cấp dịch vụ được ghi nhận khi kết quả của giao dịch đó
được xác định một cách đáng tin cậy.
Trường hợp cung cấp dịch vụ liên quan đến nhiều kỳ kế toán thì doanh thu được
ghi nhận trong kỳ theo phần công việc đã hoàn thành tại ngày lập Bảng cân đối kế
toán của kỳ kế toán đó. Doanh thu cung cấp dịch vụ được xác định khi thỏa mãn
bốn điều kiện sau:
Doanh thu xác định tương đối chắc chắn.
Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ cung cấp dịch vụ đó.
Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng Cân đối
kế toán.
Xác định được chi phí phát sinh và chi phí để hoàn thành việc cung cấp
dịch vụ đó.
Chu trình ghi nhận doanh thu có thể được tóm tắt như sau:
Doanh nghiệp bắt đầu xử lý đơn đặt hàng, phiếu yêu cầu mua hàng của người
mua, sau đó là ký hợp đồng về mua bán hàng hóa dịch vụ…Trên cơ sở pháp lý này,
người bán có thể xem xét đưa ra quyết định bán qua phiếu tiêu thụ và lập hóa đơn
bán hàng. Ngay sau khi quyết định bán, cần xem xét và quyết định bán chịu một
phần hoặc toàn bộ hàng hóa. Sau chức năng duyệt bán là chức năng chuyển giao
hàng. Vào lúc giao hàng, các chứng từ vận chuyển cũng được lập(hóa đơn vận
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
chuyển hay vận đơn). Đây cũng là thời điểm chấp nhận được ghi sổ bán hàng, một
số trường hợp thì hóa đơn bán hàng được lập đồng thời với vận đơn hoặc kiêm chức
năng chứng từ vận chuyển. Tiếp theo là gửi hóa đơn tính tiền cho người mua và ghi
rõ nghiệp vụ bán hàng. Hóa đơn được lập thành ba liên, là phương thức chỉ rõ cho
khách hàng về số tiền và thời hạn thanh toán của từng nghiệp vụ, vừa là căn cứ ghi
sổ Nhật ký bán hàng, theo dõi các khoản phải thu, lúc này doanh thu được ghi nhận.
Sau khi thực hiện các chức năng vè bán hàng cùng ghi sổ kế toán các nghiệp vụ, cần
thực hiện tiếp các chức năng thu tiền cả trong điều kiện bình thường và không bình
thường. Trong trường hợp phát sinh các khoản giảm trừ doanh thu, tùy thuộc vào
nguyên nhân mà kế toán ghi vào Nhật ký giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại hay
chiết khấu thương mại. Bước cuối cùng là sau khi thẩm định, kế toán cần xóa sổ
các khoản phải thu không thu được và lập dự phòng nợ khó đòi.
1.2.1.3.Tài khoản sử dụng và chứng từ sổ sách kế toán trong hạch toán doanh thu
1.2.1.3.1.Tài khoản sử dụng
TK 511: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
Nội dung phản ánh trên TK 511 như sau:
TK 511: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
*Các khoản giảm trừ doanh thu theo
*Doanh thu bán sản phẩm,
chế độ( Chiết khấu thương mại, Giảm hàng hóa, và cung cấp dịch vụ
giá hàng bán, Hàng bán bị trả lại, thuế trong kỳ.
tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu,
thuế VAT trực tiếp.
*Kết chuyển doanh thu thuần vào TK
911-Xác định kết quả kinh doanh.
TK 511 cuối kỳ không có số dư và được chia thành bốn tài khoản cấp hai:TK
5111: Doanh thu bán hàng hóa: Phản ánh doanh thu và doanh thu thuần của lượng
hàng hóa tiêu thụ trong kỳ của doanh nghiệp.
TK 5112: Doanh thu bán thành phẩm: Phản ánh doanh thu và doanh thu thuần
của thành phẩm tiêu thụ trong kỳ của doanh nghiệp.
TK 5113: Doanh thu cung cấp dịch vụ” Phản ánh doanh thu và doanh thu thuần
của dịch vụ cung cấp trong kỳ của doanh nghiệp.
TK 5114: Doanh thu trợ cấp, trợ giá: Phản ánh các khoản trợ cấp, trợ giá của nhà
nước khi cung cấp các sản phẩm được nhà nước trợ cấp.
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
TK 512: Doanh thu nội bộ
Nội dung phản ánh trên TK 512 như sau:
TK 512: Doanh thu nội bộ
*Thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp,
*Tổng doanh thu nội bộ trongkỳ.
Hàng bán bị trả lại, Giảm giá hàng bán.
*Kết chuyển doanh thu thuần vào
TK 911: Xác định kết quả kinh doanh.
TK 512 cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành ba tài khoản cấp hai như sau:
TK 5121: Doanh thu bán hàng hóa: Phản ánh doanh thu của khối lượng hàng hóa đã
được xác định là tiêu thụ nội bộ. TK 5121 chủ yếu dùng cho các công ty thương mại.
TK 5122: Doanh thu bán thành phẩm: Phản ánh doanh thu của khối lượng thành
phẩm cung cấp giữa các đơn vị thành viên trong một công ty hay tổng công ty. TK
5122 chủ yếu dùng cho các doanh nghiệp sản xuất.
TK 5123: Doanh thu cung cấp dịch vụ: Phản ánh doanh thu của khối lượng cung
cấp dịch vụ hoàn thành cho các đơn vị thành viên trong công ty hay tổng công ty.
TK 5123 chủ yếu sử dụng trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ.
Khi sử dụng TK 512 cần để ý rằng: TK này chỉ sử dụng cho các đơn vị thành
viên hạch toán phụ thuộc trong một công ty hay một tổng công ty. Nếu doanh thu
bán hàng cho các doanh nghiệp không trực thuộc công ty hay tổng công ty thì
không hạch toán vào TK này.
TK 521: Chiết khấu thương mại
Bên Nợ: Số chiết khấu thương mại phát sinh trong kỳ.
Bên Có: Kết chuyển số chiết khấu thương mại để ghi giảm doanh thu trong kỳ.
TK 521 không có số dư cuối kỳ và có ba tài khoản cấp hai như sau:
TK 5211: Chiết khấu hàng hóa
TK 5212: Chiết khấu thành phẩm
TK 5213: Chiết khấu dịch vụ
TK 532: Giảm giá hàng bán
Bên Nợ: Tất cả các khoản giảm giá đã chấp thuận cho khách hàng.
Bên Có: Kết chuyển giảm giá hàng bán để điều chỉnh giảm doanh thu.
TK 532 không có số dư cuối kỳ.
TK 531: Hàng bán bị trả lại
Bên Nợ: Phản ánh doanh thu của số hàng bán bị trả lại phát sinh trong kỳ.
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Bên Có: Kết chuyển để điểu chỉnh giảm doanh thu lúc cuối kỳ.
TK 531 không có số dư cuối kỳ.
1.2.1.3.2.Chứng từ sổ sách kế toán
Để hạch toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, kế toán thường sử dụng
các chứng từ và sổ sách sau:
Đơn đặt hàng của người mua: Nó thể hiện yêu cầu về hàng hóa, dịch vụ cần
cung cấp.
Chứng từ vận chuyển: Là chứng từ được lập vào lúc giao hàng, vận chuyển.
Hóa đơn bán hàng: Theo quy định hiện hành thì doanh nghiệp phải sử dụng một
trong các loại hóa đơn sau:
Hóa đơn GTGT( Mẫu 01-GTKL-3LL): dùng cho các doanh nghiệp nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ. Khi bán hàng cần ghi đủ các yếu tố quy định
trên hóa đơn như giá bán chưa có thuế GTGT, thuế GTGT, tổng giá thanh toán…
Hóa đơn bán hàng( Mẫu 02-GTGT): dùng trong các doanh nghiệp nộp thuế
GTGT theo phương pháp trực tiếp hay nộp thuế tiêu thụ đặc biệt. Trên hóa đơn
cũng phải ghi đủ những yếu tố cần thiết.
Nếu doanh nghiệp đề nghị và được Bộ Tài chính chấp thuận thì doanh nghiệp có
thể sử dụng hóa đơn đặc thù. Trên háo đơn cũng phải ghi đủ những yếu tố cần thiết
như giá bán chưa thuế GTGT, thuế GTGT phải nộp…
Sổ Nhật ký bán hàng: Dùng để ghi chép các nghiệp vụ bán hàng phát sinh.
Sổ chi tiết doanh thu: Sổ này ghi chép doanh thu phát sinh, chi tiết theo từng mặt
hàng của doanh nghiệp.
Sổ cái doanh thu: Được ghi vào cuối kỳ, phản ánh tổng hợp TK 511 của doanh
nghiệp trong kỳ kế toán.
Ngoài ra, khi hạch toán chi tiết tiêu thụ, doanh nghiệp còn sử dụng các bảng kê
bán lẻ hàng hóa, dịch vụ, bảng thanh toán bán hàng đại lý…
1.2.1.4.Nguyên tắc hạch toán doanh thu
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14, kế toán doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ của doanh nghiệp được thực hiện theo một số nguyên tắc sau:
Nếu doanh nghiệp nhận gia công vật tư, hàng hóa thì doanh thu là số tiền gia
công thực tế được hưởng; không bao gồm giá trị vật tư, hàng hóa nhận gia công.
Với hàng hóa nhận đại lý, ký gửi thì doanh thu là phần hoa hồng bán hàng mà
doanh nghiệp được hưởng.
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Nếu bán hàng theo phương pháp trả chậm, trả góp thì doanh thu ghi nhận theo
giá bán trả tiền ngay.
Những sản phẩm được xác định là tiêu thụ nhưng vì lý do về chất lượng, về quy
cách kỹ thuât…người mua trả lại và từ chối thanh toán thì tùy trường hợp mà hạch toán
vào các khoản giảm trừ doanh thu như tài khoản 531: Hàng bán bị trả lại, TK 532:
Giảm giá hàng bán, 521: Chiết khấu thương mại nếu người mua với khối lượng lớn.
Nếu doanh nghiệp đã viết hóa đơn bán hàng và đã thu tiền bán hàng nhưng đến
cuối kỳ kế toán vẫn chưa giao hàng thì số hàng này không được coi là tiêu thụ và
không ghi vào tài khoản 511: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, mà chỉ hạch
toán vào bên Có TK 131: Phải thu khách hàng về khoản tiền đã thu. Đến khi nào
giao hàng thì kế toán sẽ hạch toán vào TK 511 về trị giá hàng đã giao, phù hợp với
nguyên tắc ghi nhận doanh thu.
Với trường hợp cho thuê tài sản, nhận tiền trước cho thuê của nhiều năm thì
doanh thu cung cấp dịch vụ của năm tài chính được ghi nhận là tổng số tiền cho
thuê chia cho số năm cho thuê tài sản.
Với doanh nghiệp được nhà nước trợ cấp, trợ giá thì doanh thu là số tiền được
nhà nước chính thức trợ cấp, trợ giá. Nó được phản ánh trên TK 5114: Doanh thu
trợ cấp trợ giá.
Sơ đồ 1: Hạch toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
TK911
TK511,512
TK 111,112,131…
Hoa hồng được hưởng
TK 521,531,532
TK 331
Bán hàng Tổng tiền
Khoản giảm trừ
Doanh thu
đại lý
thu được
TK 3331
Thuế GTGT
Doanh thu thuần
về BH&CCDV
Thuế GTGT
TK 3387
Số lãi Số tiền bán
trả chậm
trả chậm
Doanh thu bán hàng
trả ngay
1.2.1.5.Kiểm soát nội bộ chủ yếu với doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
Đây là những thủ tục kiếm soát do doanh nghiệp thiết lập nhằm ngăn chặn
những gian lận và sai sót xẩy ra đối với doanh thu. Doanh thu bán hàng và cung cấp
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
dịch vụ gắn liền với chu trình bán hàng-thu tiền nên công việc kiểm soát nội bộ với
doanh thu cũng chính là công việc kiểm soát nội bộ với chu trình bán hàng-thu tiền.
Quá trình bán hàng-thu tiền là quá trình chuyển quyền sở hữu hàng-tiền, là quá trình
gắn liền với lợi ích kinh tế và trách nhiệm pháp lý của mỗi bên. Chính vì thế, công
việc kiểm soát nội bộ càng cần được thực hiện chặt chẽ hơn với chu trình này.
Những công việc kiểm soát nội bộ chủ yếu đối với doanh thu thường là:
Sự đồng bộ của sổ sách: Đòi hỏi hệ thống kế toán từ chứng từ đến sổ sách kế
toán có tác dụng kiểm soát tối đa các nghiệp vụ. Chính vì thế, các trình tự kế toán
phải có trước khi đặt ra các mục tiêu kiểm soát nội bộ. Khung pháp lý về kế toán là
như nhau và được quy định trước nhưng mỗi đơn vị lại có thể lựa chọn các hình
thức kế tóan khác nhau, trình tự kế toán khác nhau. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp
cần có những trình tự kế toán cụ thể với hệ thống sổ sách nhất định để tạo thành yếu
tố kiểm soát có hiệu quả.
Đánh số thứ tự liên tục các chứng từ: Có tác dụng ngăn chặn bỏ sót, trùng lắp
các khoản ghi sổ bán hàng, khoản phải thu…
Lập bảng cân đối thanh toán tiền hàng và gửi cho người mua: Lập và xác
nhận các bảng cân đối hàng, tiền và phải thu là công việc kiểm soát nội bộ hữu hiệu.
Bảng cân đối được lập hàng tháng và được phân công cho người không có liên quan
đến thu tiền hàng, ghi sổ bán hàng…lập ra và gửi qua bưu điện để người mua dễ
dàng trả lời ngay cả khi có sai sót.
Xét duyệt nghiệp vụ bán hàng: Là công việc kiểm soát nội bộ hữu hiệu trong
việc phát hiện và ngăn ngừa các gian lận, sai sót. Nó thường tập trung vào ba điểm
chính sau:
Xét duyệt bán chịu phải được duyệt thận trọng.
Hàng bán chỉ được vận chuyển sau khi duyệt với đầy đủ tài khoản, con
dấu, chữ ký…
Giá bán được duyệt cẩn trọng.
Phân cách nhiệm vụ đầy đủ trong tổ chức công tác tài chính kế toán: Là công
việc cực kỳ quan trọng.
Người kiểm tra-kiểm soát cần độc lập: Đây là yếu tố chủ yếu trong việc phát
huy hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát nội bộ. Người kiểm tra, kiểm soát ở đây
thường là các KTV nội bộ. KTV sẽ kiểm tra các dấu hiệu của kiểm toán nội bộ như
chữ ký tắt, nháy, quy ước đã kiểm tra của kiểm toán nội bộ…
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
1.2.2.Kiểm toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong kiểm toán Báo
cáo tài chính
1.2.2.1.Ý nghĩa kiểm toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong kiểm toán
Báo cáo tài chính
Kiểm toán Báo cáo tài chính là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về tính
trung thực, hợp lý của các Báo cáo tài chính, gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo
kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh Báo cáo tài chính.
Giữa Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và Bảng cân đối kế toán
của doanh nghiệp có mối quan hệ rất chặt chẽ, biện chứng với nhau. Hiểu biết được
mối quan hệ này sẽ giúp cho các nhà kiểm toán có được sự bố trí khoa học, hợp lý
trong quá trình kiểm toán, đảm bảo cho công việc của các kiểm toán viên không bị
chồng chéo, trùng lắp, vừa đảm bảo cho nội dung của cuộc kiểm toán được thực
hiện đầy đủ, không bị bỏ sót.
Chúng ta thấy được rằng: doanh thu là một chỉ tiêu đặc biệt quan trọng trên Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh, nó có mối quan hệ cũng như tác động qua lại mật
thiết với các báo cáo khác, đặc biệt là Bảng cân đối kế toán. Chính vì vậy, doanh
thu là vấn đề được các kiểm toán viên quan tâm hàng đầu trong các cuộc kiểm toán
Báo cáo tài chính. Sở dĩ doanh thu có vai trò, ý nghĩa quan trọng như vậy là bởi các
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Doanh thu có liên quan đến chu trình bán hàng-thu tiền, đến hoạt
động tài chính của các doanh nghiệp. Do đó, nó liên quan chặt chẽ đến nhiều chỉ
tiêu trọng yếu trên Bảng cân đối kế tóan và Báo cáo kết quả kinh doanh. Ví dụ như
doanh thu thuần sẽ ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận chưa phân phối trên Báo cáo
kết quả kinh doanh và từ đó cũng ảnh hưởng đến chỉ tiêu về thuế và các nghĩa vụ
đối với nhà nước trên Bảng cân đối kế toán.
Thứ hai, Chỉ tiêu doanh thu gắn bó chặt chẽ với các chỉ tiêu như: tiền mặt, tiền
gửi ngân hàng, xuất vật tư, thành phẩm, hàng hóa…Đây là những nhân tố rất nhạy
cảm, hay biến động và khả năng xẩy ra gian lận cao. Chính vì thế, thông qua việc
kiểm tra doanh thu có thể phát hiện ra những sai sót, gian lận trong việc hạch toán
cac chỉ tiêu liên quan và ngược lại, thông qua việc kiểm tra các chỉ tiêu trên Bảng
cân đối kế toán: tiền, phải thu…có thể phát hiện ra những sai sót, gian lận về doanh
thu.
Thứ ba, doanh thu là cơ sở nhằm xác định các chỉ tiêu như lợi nhuận, thuế thu
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
nhập doanh nghiệp…Chính vì thế, doanh thu là một chỉ tiêu rất linh hoạt với các
gian lận, sai sót trong việc xác định mức lợi nhuận, thuế thu nhập doanh nghiệp và
các nghĩa vụ khác đối với nhà nước của doanh nghiệp. Do đó, thông qua việc kiểm
tra, đối chiếu, thực hiện các thủ tục kiểm táon đối với chỉ tiêu doanh thu có thể phát
hiện ra những sai sót trong việc xác định các chỉ tiêu đó.
Thứ tư, do khoản mục doanh thu gắn chặt chẽ với mục đích của việc lập Báo
cáo tài chính nên khoản mục doanh thu có rủi ro tương đối cao. Ví dụ như khi lập
báo cáo tính thuế thì có xu hướng khai giảm doanh thu, khi vay vốn ngân hàng hay
phát hành thêm cổ phiếu…thì có xu hướng khai tăng doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ khi lập báo cáo.
1.2.2.2. Mục tiêu kiểm toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
Dựa trên cơ sở pháp lý thực hiện kiểm toán doanh thu như: Chuẩn mực Kế toán
Việt nam số 14, Thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002 hướng dẫn kế toán
thực hiện bốn chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định trên, Nghị định số
105/2004/NĐ-CP ngày 30/03/2004 về Kiểm toán độc lập và các thông tư hướng dẫn
thi hành Nghị định này...; công ty kiểm toán và các KTV thiết lập các mục tiêu
kiểm toán phù hợp với các chuẩn mực, luật định liên quan.
Mục tiêu chung của kiểm toán là thu thập bằng chứng để đưa ra kết luận phù
hợp về tính trung thực, hợp lý, hợp pháp về Báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Chính vì thế, mục tiêu chung của kiểm toán bao gồm mục tiêu hợp lý chung và các
mục tiêu chung khác. Mục tiêu hợp lý chung là việc xem xét, đánh giá tổng quát về
các số liệu trên Báo cáo tài chính dựa trên cơ sở cam kết chung, xác nhận của nhà
quản lý cũng như thông tin thu thập được qua khảo sát thực tế tại đơn vị được kiểm
toán. Để đạt được hiệu quả của việc đánh giá mục tiêu hợp lý chung, các KTV cần
có sự nhạy bén, khả năng phán đoán cũng như tính hoài nghi mang tính nghề
nghiệp...Nếu mục tiêu hợp lý chung không đạt được như mong muốn, các KTV cần
kết hợp với các mục tiêu chung khác. Các mục tiêu chung khác bao gồm: mục tiêu
hiệu lực, mục tiêu trọn vẹn, mục tiêu tính giá, mục tiêu quyền và nghĩa vụ, mục tiêu
chính xác số học, mục tiêu phân loại và trình bày.
Mục tiêu đặc thù được xác định trên cơ sở mục tiêu chung và đặc điểm của
khoản mục hay phần hành kiểm toán, cũng như cách thức theo dõi trong hệ thống
kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ. Các mục tiêu chung được cụ thể hoá vào từng
khoản mục, phần hành kiểm toán thành các mục tiêu đặc thù. Kiểm toán khoản mục
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, mục tiêu kiểm toán sẽ được thể hiện cụ thể
thông qua bảng sau:
Bảng 1: Mục tiêu kiểm toán doanh thu
Mục tiêu kiểm toán
Mục tiêu kiểm toán doanh thu
Mục tiêu kiểm toán tài chính
Mục tiêu hợp lý chung
Việc ghi nhận doanh thu là có căn cứ hợp lý.
Mục tiêu hiện hữu
Doanh thu được ghi nhận là doanh thu thực tế có
phát sinh và được ghi nhận tương ứng với số tiền
mà khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh
toán cho doanh nghiệp. Hàng hoá được chấp nhận
là tiêu thụ và chuyển giao cho khách hàng là có
thật, không tồn tại các khoản doanh thu được ghi
nhận trong khi hàng hoá chưa được chuyển giao
cho khách hàng.
Mục tiêu trọn vẹn
Mọi nghiệp vụ doanh thu bán hàng và cung cấp
dịch vụ được ghi sổ đầy đủ, không bị bỏ sót khi đủ
điều kiện ghi nhận. Mục tiêu này chú trọng tới việc
ghi chép đầy đủ các nghiệp vụ bán hàng phát sinh
trong kỳ kế toán.
Mục tiêu chính xác số học
Các khoản doanh thu và giảm trừ doanh thu được
tính toán chính xác dựa trên số lượng và đơn giá
của từng nghiệp vụ. Mục tiêu này nhằm hướng các
nghiệp vụ hạch toán doanh thu vào việc ghi sổ chi
tiết, sổ tổng hợp khớp đúng với số tổng trên báo cáo
kế toán cuối kỳ của doanh nghiệp.
Mục tiêu quyền và nghĩa vụ
Hàng hoá đã bán thuộc sở hữu của doanh nghiệp và
doanh thu ghi nhận tương ứng với số hàng hoá đã
bán trong kỳ thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Hàng
hoá ở đây không là hàng hoá nhận đại lý, ký gửi
hay tài sản nhận giữ hộ...
Mục tiêu tính giá
Các khoản doanh thu mà doanh nghiệp thu được
trong kỳ cần kèm theo hoá đơn ghi giá bán hay
bảng thông báo giá. Trường hợp với các khoản
giảm trừ doanh thu thì cần có chứng từ chứng minh
cho các khoản giảm trừ đó như hoá đơn...
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Mục tiêu phân loại và trình bày Các nghiệp vụ doanh thu được ghi nhận đúng vào
các tài khoản và được phân loại rõ ràng như: các
khoản doanh thu từ bán hàng hoá và cung cấp ra
bên ngoài với doanh thu nội bộ doanh nghiệp....
Mục tiêu kiểm toán nghiệp
vụ
Mục tiêu cho phép
Các nghiệp vụ ghi nhận doanh thu, ghi giảm doanh
thu được phê chuẩn và tuân thủ theo đúng chế độ kế
toán hiện hành.
Mục tiêu kịp thời
Doanh thu được ghi nhận đúng thời gian phát sinh
theo quy định của chuẩn mực, luật hiện hành.
1.2.2.3. Các sai phạm thường gặp trong kiểm toán doanh thu bán hàng và cung cấp
dịch vụ
Doanh thu là khoản mục khá nhạy cảm trong tất cả các khoản mục của doanh
nghiệp. Do đó việc xem xét các sai phạm, rủi ro đối với khoản mục này luôn được
các KTV chú ý. Các sai phạm thường gặp với khoản mục doanh thu bán hàng và
cung cấp dịch vụ thường là:
Thứ nhất, Doanh thu phản ánh trên sổ sách, báo cáo kế toán cao hơn doanh
thu thực tế: Sai phạm này được hiểu là kế toán đã hạch toán vào doanh thu những
khoản thu chưa đủ các yếu tố xác định là doanh thu như quy định, hay số doanh thu
đã phản ánh trên sổ sách cao hơn so với doanh thu trên các chứng từ kế toán: hoá
đơn, bảng báo giá sản phẩm...Các sai phạm trong trường hợp này có thể là do những
nguyên nhân sau: số liệu tính toán và ghi sổ sai đã làm tăng doanh thu so với số liệu
phản ánh trên chứng từ kế toán; ghi khống doanh thu; hạch toán trùng doanh thu;
ghi nhận doanh thu khi doanh nghiệp chưa xuất hàng hoặc chưa cung cấp dịch vụ
nhưng người mua đã ứng trước tiền cho doanh nghiệp; ghi nhận doanh thu của hàng
gửi bán; chuyển doanh thu từ doanh thu bán buôn sang bán lẻ; ghi doanh thu
3387(doanh thu chưa thực hiện) vào doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ...
Thứ hai, Doanh thu phản ánh trên sổ sách, báo cáo kế toán thấp hơn so với
doanh thu thực tế: Sai phạm này được hiểu là kế toán chưa hạch toán vào doanh
thu hết các khoản thu đã đủ điều kiện để xác định là doanh thu như quy định, hay số
doanh thu phản ánh trên sổ sách, báo cáo kế toán thấp hơn so với doanh thu trên các
chứng từ kế toán: hóa đơn, bảng báo giá sản phẩm...Sai phạm này có thể do những
Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A
20