Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm 1990, tốc độ toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh
tế đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng gây ra sự lo ngại rộng rãi
trong nền kinh tế thế giới. Đây là những đặc điểm quan trọng nhất của
sự phát triển của xã hội loài người trong thế kỷ 20, một xu hướng không
thể đảo ngược vào thế kỷ 21. Những đặc điểm này dẫn tới những mối
quan hệ gần gũi hơn giữa tất cả các nước và khu vực cũng như sự phụ
thuộc lẫn nhau và cạnh tranh lớn hơn trên quy mô toàn cầu. Vì vậy, liệu
một nước có thể duy trì được tăng trưởng kinh tế liên tục và lành mạnh
hay không được quyết định bởi việc nước này có thể đối phó lại với xu
hướng phát triển kinh tế thế giới đúng lúc và điều chỉnh hướng phát triển
của mình.
Trong bối cảnh sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng sâu sắc ở
tầm khu vực và toàn cầu và việc các nước ASEAN đã gần thực hiện
xong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), câu hỏi đặt ra là liệu
ASEAN sẽ đi theo định hướng hội nhập khu vực nào sau AFTA. Trong
khi đó, mối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc ngày càng
phát triển, việc Trung Quốc gia nhập WTO, những gần gũi về địa lý và
văn hoá giữa ASEAN và Trung Quốc, thì sự lựa chọn thiết lập một Khu
vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc – ACFTA (ASEAN –
China Free Trade Area) có thể là một câu trả lời về một trong những
định hướng hợp tác phát triển kinh tế tiếp theo của ASEAN.
Thật vậy, ASEAN và Trung Quốc là những nước đang phát triển
và đang ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau song cùng đang
phải đối mặt với những cơ hội và thách thức trong một thế giới đang
thay đổi nhanh chóng. Việc thành lập một hiệp định thương mại tự do và
tăng cường quan hệ song phương là một quyết định sáng suốt của hai
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
-1
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
bên trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới. Trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại và nhiều năm suy thoái của
cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
- Trung Quốc sẽ đặc biệt có lợi đối với tiềm năng tăng trưởng kinh tế
của hai bên. Hơn nữa, điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng nhằm
bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu vực và cho phép ASEAN và Trung
Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thương mại quốc tế. Bên
cạnh những cơ hội đó, việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc trong vòng 10 năm tới chắc chắn sẽ tạo ra nhiều thách thức
lớn đối với các nước tham gia, đặc biệt đối với các thành viên mới của
ASEAN trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những cơ
hội và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là
một trong những vấn đề có tính thời sự và có ý nghĩa thiết thực trong bối
cảnh hiện nay để có thể giúp các nước thành viên, nhất là Việt Nam, có
thể chuẩn bị đầy đủ để tham gia có hiệu quả vào Khu vực mậu dịch tự
do này.
Do vậy, em mạnh dạn chọn đề tài "Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của
Việt Nam” với mong muốn đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ những
mảng sáng tối của bức tranh kinh tế các nước ASEAN nói chung và Việt
Nam nói riêng trong bối cảnh một khu vực mậu dịch tự do được thiết lập
giữa ASEAN và Trung Quốc, từ đó giúp Việt Nam hội nhập thành công
vào khu vực này.
Khoá luận sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu bao
gồm phương pháp lý luận biện chứng, phương pháp nghiên cứu tài liệu,
có sự tổng hợp, phân tích và so sánh, nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần
nghiên cứu.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
-2
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bố cục của khoá luận, ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài
liệu tham khảo và Phụ lục, bao gồm 3 chương chính:
Chương 1 phân tích những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và tóm tắt quá trình hình thành
khu vực này, đồng thời khái quát hoá những nội dung cơ bản nhất của
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc
(FAACCEC).
Chương 2 đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức nói chung
của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với các nước
thành viên.
Chương 3 là chương cuối cùng, tập trung vào những tác động của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với Việt Nam, từ đó
đưa ra một số kiến nghị để thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào Khu
vực mậu dịch tự do này.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu tài liệu và tiến hành tổng hợp, phân tích,
so sánh, khoá luận đã có những cố gắng nhất định nhằm đưa ra một cái
nhìn tổng quan về những cơ hội và thách thức đối với các nước thành
viên, đặc biệt là đối với Việt Nam, một khi Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc được thành lập, từ đó đưa ra một số đề xuất để
tăng cường sự hội nhập của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do này.
Tuy vậy, do tính mới mẻ của đề tài cũng như những hạn chế về
thời gian, kiến thức và tài liệu nghiên cứu, khoá luận không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của của
các thầy cô và các bạn. Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
cô giáo, Tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh, đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho
em trong suốt thời gian thực hiện khoá luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
-3
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
đến các cô, chú và anh, chị đang công tác tại Vụ hợp tác kinh tế đa
phương (Bộ Ngoại giao), Trung tâm thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Trung tâm thông tin tư liệu thuộc Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương (CIEM), và Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đã giúp đỡ em
hoàn thành khoá luận này.
Hà nội, tháng 12/ 2003
Sinh viên
Đinh Thị Việt Thu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
-4
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHU VỰC MẬU DỊCH
TỰ DO ASEAN - TRUNG QUỐC (ACFTA)
1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA)
trên toàn cầu
Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi chưa từng thấy trong
nửa cuối những năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã
được toàn cầu hoá mạnh mẽ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), sự sáp nhập và mua lại (M&As) xuyên biên giới và thông qua các
kênh giao dịch quốc tế khác nhau. Cùng với cuộc cách mạng công nghệ
thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã được thiết lập ở các lĩnh vực
như kiểm soát quản lý, quản lý công nghệ, nội địa hoá và mối quan hệ
giữa các hãng, tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài và sử dụng các chính
sách thương mại quốc tế.
Mục đích và nội dung của các thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA)
cũng đã thay đổi mạnh mẽ. Trong quá trình hình thành khu vực mậu
dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Liên minh Châu Âu (EU) vào nửa đầu
những năm 1990, cuộc thảo luận kinh tế về những quan điểm thuận và
chống PTA phần lớn chỉ giới hạn ở những đánh giá mang tính lý thuyết
và chiêm nghiệm về sức sáng tạo thương mại của J. Viner [1] và các tác
động méo mó của thương mại. Tuy nhiên, không khí xung quanh ý
tưởng chủ nghĩa khu vực đã thay đổi mạnh mẽ vào nửa cuối những năm
1990.
Một đối tác tích cực là EU. Sau khi hoàn thành sự hội nhập sâu sắc
giữa các nước thành viên, EU bắt đầu đàm phán một loạt khu vực mậu
dịch tự do (FTA – Free Trade Area) với một số thành viên của Hội đồng
thương mại tự do Châu Âu (EFTA), với các nước Đông Âu và các nước
ven Địa Trung Hải. Các đối tác tích cực khác là những nước tương đối
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
-5
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
nhỏ bao gồm Mehico, Chile và Singapore. Những nước này đã đàm
phán và ký kết một số FTA với cả những nước trong khu vực cũng như
những nước cách xa về địa lý. Bị kích thích bởi các bước phát triển này,
trong suốt những năm 80, Mỹ đã tích cực theo đuổi khả năng thành lập
khu vực mậu dịch tự do với các nước khác ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. Bước đi đầu tiên của nước này là việc đưa ra đề nghị thành
lập khu vực mậu dịch tự do với Australia. Năm 1987, Mike Mansfield đại sứ Mỹ tại Nhật Bản đã đưa ra đề nghị nghiên cứu khả năng thành lập
Khu vực mậu dịch tự do Mỹ – Nhật Bản. Năm 1989, báo cáo cuối cùng
về “Sáng kiến ASEAN – Mỹ” đã được cùng nghiên cứu và đưa ra kêu
gọi thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Mỹ. Gần đây
hơn, năm 1997, Mỹ đã đưa ra đề nghị thành lập khu vực mậu dịch tự do
P5 (Pacific 5 – nhóm 5 nước ở Thái Bình Dương, bao gồm Australia,
Chile, New Zealand, Singapore và Mỹ). Sang đến năm 2002, quá trình
thành lập các khu vực mậu dịch tự do đã được Mỹ đẩy mạnh. Ngoài
những FTA với Mehico, Canada, Jordan và Israel, trong năm 2003, Mỹ
đã ký FTA với Singapore, Chile và các hiệp định khung về thương mại
và đầu tư với Thái Lan, Philippines và Indonesia. Đầu tháng 6/ 2003,
Mỹ cũng bắt đầu thương thảo để ký FTA với Liên hiệp quan thuế miền
nam châu Phi (gồm các nước Nam Phi, Boswana, Lesotho, Namibia và
Swaziland). Ngoài ra, Mỹ cũng đang xem xét khả năng ký kết FTA với
Colombia và Bahrain (xem bảng 1).
Bảng 1: Các khu mậu dịch tự do lớn của 1 số nước
Các khu mậu dịch tự do đã ký kết
Singapore
Mehico
Chile
Mỹ và Canada
(NAFTA), EU,
Canada,
EFTA, Chile,Mehico,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
Mỹ
EC/ EU *
Malta, Cyprus,
Andora, Thổ Nhĩ
Kỳ, Thuỵ Sỹ,
-6
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Israel, Các nước
Trung Mỹ (Costa Canada và Liechtenstein,
New Zealand,
thuộc khối tam
Rica, El
Mehico
Ireland, Norway,
Nhật Bản, giác phía bắc Salvador,
(NAFTA), Séc, Hungary, Ba
EFTA
(El Salvador, Honduras,
Israel, JordanLan, Slovak,
Honduras, Guatamela,
Rumania, Bulgaria,
Nicaragoa), Nicaragoa),
Lithuania, Estonia,
Dominica, Venezuela,
Latvia, Faeroes,
Nicaragoa, Columbia,
Slovenia, Mehico,
Costa Rica, Equdor,
Chile, Palestine,
Bolivia, G3. MERCOSUR,
Tunisia, Israel,
Peru, Bolivia
Jordan
Các khu mậu dịch tự do đang đàm phán hay có kế hoạch bắt
đầu đàm phán
Mỹ, Mehico,
Canada,
Singapore
Australia
MERCOSUR,
Mỹ, EU, EFTA, Chile, FTAA,
Các nước khối
Hàn Quốc, Panama,
Singapore Andean (Bolivia,
Cuba, MERCOSUR
Columbia, Peru,
Venezuela)
Các khu mậu dịch tự do đang ở giai đoạn đề xuất
Chile, EU, Hàn
Nhật, New
Quốc, PacificZealand
5
Nhật, Singapore, Pacific 5
Pacific 5
Nguồn: Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI),
2001, http://www.meti.go.jp/policy/trade-policy/epa/html.
Theo Sách trắng về thương mại quốc tế của JETRO (Tổ chức xúc
tiến thương mại Nhật Bản), cho đến tháng 5/ 2003 đã có khoảng 250
hiệp định mậu dịch tự do (FTA) song phương và khu vực đã được thông
báo cho GATT/ WTO, trong đó có 130 hiệp định được thông báo sau
tháng 1/ 1995. Khoảng trên 170 FTA đang có hiệu lực và 70 FTA khác
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
-7
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
đã có hiệu lực mặc dù chưa được thông báo cho WTO. Dự kiến đến cuối
năm 2005, sẽ có 300 hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực
có hiệu lực [2]. Chính tổng giám đốc WTO Sapuchai Panitchpakdhi
cũng phải thừa nhận xu thế đàm phán hiệp định mậu dịch tự do song
phương và khu vực đã trở nên phổ biến, và nghi ngại rằng xu thế này có
thể phá vỡ các hoạt động đa phương trong khuôn khổ WTO [3].
Ở khu vực Đông Á, tính đến tháng 12/ 2002 chỉ có 4 khu vực như
vậy được ký kết (tham khảo Phụ lục 1), nhưng điều cần nói là xu hướng
này mới chỉ xuất hiện ở Đông Á từ năm 1999. Vào cuối năm 1998, Hàn
Quốc đã đề nghị Nhật Bản nghiên cứu khả năng thành lập khu vực mậu
dịch tự do giữa hai nước. Tháng 9/ 1999, Singapore đã nhất trí với New
Zealand về việc bắt đầu đàm phán thành lập khu vực mậu dịch tự do,
nước này cũng đưa ra đề nghị tương tự đối với các nước Chile, Mehico
và Hàn Quốc. Tháng 10 năm đó, Singapore đã đưa ra đề nghị thiết lập
quan hệ giữa Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với Hiệp định
quan hệ kinh tế gần gũi hơn giữa Australia và New Zealand (CER).
Tháng 11 năm đó, Singapore bắt đầu đàm phán với Chile và tháng 12,
nước này đề nghị đi đến một hiệp định với Nhật Bản.
Chỉ đến năm 1999 và 2000, các cuộc đàm phán và nghiên cứu ở
cấp chính phủ mới thật sự có được động lực, và đi tiên phong là
Singapore khi nước này đưa ra sáng kiến đàm phán và nghiên cứu về
khu vực mậu dịch tự do với một loạt các nước khác trong khu vực. Khái
niệm về khu vực mậu dịch tự do đại Đông Á (EAFTA) đã được đưa ra
thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 tổ chức vào tháng 12/
2000 và các nước đã đi đến nhất trí thành lập một nhóm nghiên cứu về
vấn đề này. Năm 2001, Singapore và New Zealand đã đạt được thoả
thuận và đó là khu vực mậu dịch tự do đầu tiên ở Đông Á phù hợp với
Điều 24 của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Tháng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
-8
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
11 năm đó, ASEAN và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận về nguyên tắc
đối với việc thành lập 1 khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN
và Trung Quốc trong vòng 10 năm.
Lý do khiến cho hàng loạt FTA nói trên được ký kết là bởi lẽ
thực tế đã cho thấy, ở một mức độ nhất định, nguồn lợi mà FTA
mang lại cho các quốc gia là rất lớn:
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, các FTA gần như bao gồm toàn
bộ các lĩnh vực trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên:
không chỉ thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu
tư liên quan đến thương mại, … mà cả các vấn đề khác như du lịch,
thương mại điện tử, doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát thanh truyền hình …
(tham khảo Phụ lục 2). Với phạm vi bao quát rộng như vậy, FTA sẽ đem
lại nhiều lợi ích như mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo công ăn việc làm,
xúc tiến đầu tư và chuyển giao công nghệ, tăng cường đàm phán đối với
một nước thứ ba. Hơn thế nữa, tự do thương mại thông qua FTA sẽ càng
làm tăng sức cạnh tranh của các nhà xuất khẩu và các tổ chức thương
mại của các nước thành viên, tạo điều kiện cho họ dễ dàng thành công
trong các vòng đàm phán đa phương. Với ý nghĩa như vậy, FTA chính là
cánh cửa để một nước hội nhập thương mại với thế giới, khởi đầu cho
quá trình tự do hoá cạnh tranh, từ đó các nước có nhiều cơ hội để lựa
chọn đối tác thích hợp.
Thứ hai, mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn rất nhiều so
với WTO, với những ưu đãi cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới tự
do hoá tối đa và triệt tiêu hoàn toàn những trở ngại đối với thương mại
hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, đặc biệt là vấn đề triệt tiêu thuế suất nhập
khẩu xuống 0% và các ưu đãi mở cửa thị trường đầu tư. Ngoài ra, bản
chất của các FTA không chỉ đơn thuần là việc tự do hoá thương mại, mà
còn bao gồm cả việc hợp tác trong tất cả các lĩnh vực ngoài thương mại,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
-9
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
ví dụ: hợp tác trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong
việc phát triển công nghệ thông tin, đơn giản hoá thủ tục hải quan, xúc
tiến thương mại và đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, … Nói
cách khác, do hầu hết các FTA, đặc biệt là những FTA mới được ký kết
gần đây, đã đa dạng hoá nội dung bên cạnh nội dung loại bỏ thuế quan
và tự do hoá khu vực dịch vụ nên mỗi khi con đường đa phương bị tắc
nghẽn hay cản trở, các nước liền tìm đến những dàn xếp song phương
hay khu vực.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là các FTA luôn đi ngược
lại với tiến trình của các vòng đàm phán đa phương, bởi cho đến nay vẫn
chưa có nghiên cứu nào chứng minh được các Khu vực mậu dịch tự do
hỗ trợ hay ngăn cản tự do hoá thương mại trên phạm vi toàn cầu. Nhưng
có thể thấy thành viên của hai khối mậu dịch tự do lớn nhất là EU và
NAFTA đều là thành viên của WTO mà nguyên tắc cơ bản của tổ chức
này là tối huệ quốc (không phân biệt đối xử) được nêu rõ ở điều khoản I,
nên khả năng các FTA ngăn cản tiến trình tự do hoá toàn cầu là khó xảy
ra.
Thật vậy, tuy GATT và WTO đề cao nguyên tắc không phân biệt
đối xử trong ngoại thương nhưng vẫn có những điều khoản cụ thể cho
phép các thành viên tham gia FTA, với điều kiện phải thông báo về
những FTA đó. Điều 24 của GATT quy định về việc thành lập và hoạt
động của FTA và liên hiệp thuế quan đối với trao đổi hàng hoá. Điều 5
của GATS (Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ) cho phép lập các
FTA về trao đổi dịch vụ. Ngoài ra còn có một điều khoản đặc biệt cho
phép ký kết FTA về trao đổi hàng hoá giữa các thành viên là nước đang
phát triển. Các quy định này có thể không bắt buộc trong các vụ giải
quyết tranh chấp nhưng có tác dụng như là nguyên tắc ứng xử ở một
chừng mực nào đó. Tuy nhiên, còn vượt xa phạm vi của những điều
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 10
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
khoản này là việc không tồn tại bất kỳ một quy định chính sách nào khác
được quốc tế thừa nhận. Vì thế, các thoả thuận khu vực có thể chứa
đựng hầu hết các vấn đề vượt xa thương mại hàng hoá và dịch vụ. Nói
cách khác, ở một mức độ nhất định, các FTA có tính bổ sung cho WTO
trong việc tự do hoá thương mại. Chính vì vậy, giới học giả Nhật cho
rằng các FTA nên theo mô hình WTO – cộng, nghĩa là bao gồm nhiều
lĩnh vực hơn và mức độ sâu rộng hơn. Tại Hội nghị thách thức và cơ hội
đối với việc hợp tác khu vực APEC ngày 16/ 5/ 2003 tại Tokyo (Nhật
Bản), Đại sứ Singapore tại Nhật Bản cũng nêu rõ: “Tự do hoá thương
mại theo WTO không có được nhiều bước tiến trong những năm gần đây
do WTO có quá nhiều thành viên. Trong bối cảnh như vậy, các hiệp
định tự do khu vực và song phương sẽ là cơ chế bổ sung tốt cho tiến
trình đa phương” [3]. Như vậy, FTA là cách tiếp cận tốt thứ nhì đối với
tự do hoá mậu dịch nhưng là giải pháp khả thi nhất trong một thế giới đa
dạng. Tuy nhiên, FTA chỉ trở thành những viên đá lát đường cho toàn
cầu hoá khi nó phải đảm bảo rằng ảnh hưởng do thương mại tăng lên
(trade creation) lớn hơn ảnh hưởng do thương mại giảm đi (trade
diversion) [1]. Đến khi đó, FTA sẽ có thể trở thành một đòn bẩy thúc
đẩy chủ nghĩa đa phương và tự do thương mại toàn cầu và cuối cùng,
chủ nghĩa khu vực mới sẽ đi vào liên kết kinh tế theo chiều sâu.
Một điểm lợi nữa của FTA là trong quá trình hình thành mạng lưới
các FTA, mối liên hệ với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cải cách
kinh tế trong nước đã đặc biệt được chú trọng. Các FTA được xem như
là các công cụ chính sách để giới hạn hay thúc đẩy cải cách trong nước
cũng như thu hút FDI hơn là trông chờ có được các tác động trực tiếp to
lớn của giảm thuế quan. Trên thực tế, Mehico đã được hưởng những tác
động tích cực rõ ràng của NAFTA đối với cả việc thu hút FDI và việc
giới hạn cải cách cơ cấu trong nước. Các nước Đông Âu đã cố gắng giới
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 11
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
hạn quá trình chuyển đổi mạnh mẽ các hệ thống kinh tế của họ và một số
nước trong số họ đã rất thành công trong việc thu hút FDI.
Thêm vào nữa, các nước đã bắt đầu cảm nhận được rằng cái giá
của việc không phải là thành viên của bất kỳ thoả thuận khu vực nào là
có thật. Giá ở đây gồm sự mất đi thế đàm phán trong các cuộc đàm phán
đa phương, bỏ lỡ các cơ hội hưởng lợi từ bên ngoài và sự chậm trễ nói
chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu hoá. Mehico, Chile
và Singapore muốn rằng họ trở thành trung tâm mạng lưới FTA và
hưởng lợi ích của sự kết nối. Một nước trung tâm có các lợi thế tiềm
năng đối với các nước khác ở đầu bên kia trong việc hình thành các
luồng thương mại và mạng lưới sản xuất thông qua FDI. Một tài sản
quan trọng của các thoả thuận FTA trong bối cảnh này là một nước (ví
dụ Mehico) có thể ký kết một FTA mới (ví dụ với EU) mà không cần
thay đổi bất cứ thoả thuận FTA cũ nào (ví dụ NAFTA).
Nói tóm lại, chính do những lợi điểm kể trên mà việc mở rộng liên
kết, thiết lập các Khu vực mậu dịch tự do đã trở thành hướng đi được
các nước chú trọng nhằm khai thác tốt nhất lợi thế so sánh của từng quốc
gia, tạo ra sân chơi hấp dẫn đầy tiềm năng đáp ứng lợi ích của tất cả các
bên có liên quan.
Tuy vậy, các FTA cũng đặt ra 1 số vấn đề đáng quan tâm:
Thứ nhất, các chính phủ hiện theo đuổi FTA như là 1 công cụ
trong chính sách thương mại gồm nhiều tầng nấc đan xen nhau, gồm cả
song phương, khu vực và đa phương. Đối với từng chính phủ, chính sách
này đòi hỏi rất nhiều nguồn lực, kể cả con người và vật chất, do đó có
thể trở thành gánh nặng, nhất là đối với các nước đang phát triển; còn
đối với WTO, quá nhiều FTA mà không có sự điều phối thoả đáng thì
điều này có thể đe dọa sẽ làm đổ vỡ tiến trình Doha. Chính vì vậy, Tổng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 12
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
giám đốc WTO, Tiến sĩ Sapuchai Panitchpakdhi, đã phải thừa nhận
rằng: “FTA là con dao hai lưỡi và là nguyên nhân làm chậm tiến trình
toàn cầu hoá” [4].
Thứ hai, hầu như tất cả các FTA hình thành trong thời gian gần
đây đều có nội dung toàn diện, không chỉ giải quyết các rào cản tại biên
giới quốc gia như các FTA truyền thống mà còn bao trùm các lĩnh vực
dịch vụ và sở hữu trí tuệ, đặc biệt cả đầu tư và thương mại điện tử, … là
những lĩnh vực chưa có quy định quốc tế chung. Câu hỏi đặt ra là liệu
các cam kết mang tính ràng buộc trong những lĩnh vực mới đó có thật sự
phù hợp và thuận lợi, hay trên thực tế chúng lại đặt ra những rào cản mới
cho các nước bên ngoài và tác động tiêu cực đến tiến trình đàm phán đa
phương về các lĩnh vực này. Ngoài ra, còn phải kể đến những vấn đề
truyền thống đặt ra cho FTA nói chung, nhất là về khả năng tác động
giảm bớt thương mại của các nước không tham gia FTA.
Thứ ba, nhiều nước tham gia FTA dường như chỉ nhằm mục đích
tự vệ để tránh bị gạt ra ngoài, chứ hoàn toàn không theo 1 chiến lược bài
bản, khiến tình hình FTA nói chung trên thế giới ngày càng phức tạp,
đặc biệt tại Đông Á. Nhật Bản và Malaysia cách đây không lâu còn rất
bàng quan, giờ đã trở thành những nước ráo riết tìm kiếm FTA song
phương, chủ yếu vì lo ngại các nước khác có FTA sẽ chiếm mất thị
trường truyền thống của họ.
Thứ tư, mặc dù các FTA song phương nhìn chung đều mang tính
mở cửa hơn so với WTO, song vẫn không giải quyết được những lĩnh
vực hoặc những ngành hàng nhạy cảm của từng nước. Nông – lâm – ngư
nghiệp của Nhật Bản là 1 thí dụ rõ rệt nhất. Nhật Bản đã chọn Singapore
làm đối tác đàm phán FTA đầu tiên vì quốc đảo Đông Nam Á này hầu
như không xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, vậy mà xuất khẩu cá
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 13
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
vàng (gold fish) của Singapore vẫn là một vấn đề lớn trong tiến trình
đàm phán giữa 2 nước. Liên quan đến vấn đề này, cũng cần chỉ ra rằng
vì các FTA song phương thường được thiết kế sao cho phù hợp với điều
kiện cụ thể của hai nước liên quan, cho nên chúng rất khó có thể mở cho
các nước khác cùng tham gia, trừ khi là phải xây dựng một hiệp định
mới.
Thứ năm, liên quan đến thương mại hàng hoá là lĩnh vực quan
trọng nhất song hầu hết các FTA quy định về xuất xứ trong các hiệp
định thường rất khác nhau. Nếu một nước tham gia nhiều FTA song
phương, mà quy tắc xuất xứ của một loại hàng hoá nào đó lại khác nhau
trong từng hiệp định, thì doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng đó chắc chắn
sẽ gặp nhiều khó khăn; về phía chính phủ, cơ quan hải quan cũng sẽ vất
vả.
Nói tóm lại, lợi ích của các FTA, ngay cả trong ngắn hạn, luôn gắn
liền với thương mại và đầu tư. Do đó, chừng nào lượng việc làm do đầu
tư nước ngoài tạo ra còn bù được cho những mất mát của các ngành
công nghiệp không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu thì tham gia
FTA vẫn có thể có ích cho toàn xã hội.
1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của khu
vực kinh tế năng động ASEAN.
Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hình
thành của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Tăng trưởng
kinh tế đã từng là thành tích đầy ấn tượng của Trung Quốc và phần lớn
các nước ASEAN trong 3 thập kỷ vừa qua. Cả Trung Quốc và ASEAN
đều theo đuổi chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu và đã đạt được
các tỷ lệ tăng trưởng cao hơn nhiều tỷ lệ trung bình của thế giới.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 14
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Kể từ khi mở cửa ra bên ngoài, tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc đạt hơn 10% hàng năm. Vào những năm 90, Trung Quốc tăng
trưởng ở mức cao nhất trên thế giới. Tổng tiết kiệm nội địa và tổng đầu
tư trong thập kỷ cuối đạt lần lượt hơn 40% và 34% GDP. Thành tích
trong khu vực đối ngoại cũng rất gây ấn tượng, xuất khẩu tăng ở mức
trung bình hàng năm hơn 15%, dự trữ quốc tế của Trung Quốc năm 1997
đạt hơn mức nhập khẩu tương đương của 12 tháng. Vốn nước ngoài chủ
yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã tăng 275 lần trong giai đoạn từ
năm 1983 đến 1986 [5]. Thâm hụt ngân sách và tỷ lệ lạm phát khá cao
trong nửa đầu những năm 90 do sự thịnh vượng kinh tế, đã dần hạ xuống
từ năm 1996. Các yếu tố vĩ mô cơ bản (xem bảng 2), cùng với việc
không quy đổi của đồng tiền đã lý giải tại sao Trung Quốc không bị tác
động trực tiếp của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997
giống như các nước châu Á khác.
Bảng 2: Một vài chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc
Đơn vị: %
Tỷ lệ
tăng
1990 1991 1992
trưởng
1993 1994 1995 1996 1997 1998*
GDP thực 3.84 9.19 14.24 13.49 12.66 10.55
9.54
8.80
Lạm phát 3.06 3.54
8.30
2.80 -0.90
6.34 14.60 24.20 16.90
Xuất khẩu19.20 14.36 18.07
7.80
8.76 35.56 24.91 17.93 20.91
Nhập khẩu
-13.28 18.47 28.32 34.06 10.38 15.52 19.52
3.73
*: cho đến tháng 11/ 1998
Nguồn: J.Lim, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và hệ luỵ của nó
đối với ASEAN” – Báo cáo nghiên cứu của Hệ thống các trung tâm
nghiên cứu APEC của Philippines (PASCN), 2001.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 15
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Từ bảng trên có thể thấy tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc
tăng khá đều qua các năm, bình quân đạt 7 – 8%/ năm, đặc biệt vào năm
1997 – 1998, trong khi các nước Châu Á đang điêu đứng vì khủng hoảng
thì Trung Quốc vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Xuất
khẩu và nhập khẩu đều có sự tăng trưởng theo hướng cán cân thương
mại ngày càng nghiêng về phía xuất khẩu. Cùng với sự tăng trưởng cao
của GDP và ngoại thương, tốc độ lạm phát cũng được điều tiết khá hiệu
quả, giảm dần qua các năm, cho thấy chính sách quản lý vĩ mô của
Trung Quốc rất tốt. Tính chung trong cả giai đoạn kể từ khi bắt đầu thực
hiện chính sách cải cách và mở cửa vào năm 1978 đến năm 2001, tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân của Trung Quốc là 9.3%/ năm, và tăng
trưởng thương mại đạt 15%/ năm. Nói cách khác, trong 23 năm qua,
GDP và ngoại thương của Trung Quốc đã tăng tương ứng 8 và 25 lần
[6]. Dự trữ ngoại tệ năm 2001 vượt 250 tỷ USD, đứng thứ hai trên thế
giới. Cơ cấu ngành nghề biến đổi nhanh: tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn
15% trong GDP, dịch vụ đã lên tới 33.6%; dự trữ lương thực, dầu thô
tăng đáng kể [7]. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ
7 thế giới tính theo tỷ giá hối đoái chính thức, và lớn thứ 2 nếu tính theo
sức mua [6]. Nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh, Trung Quốc đã giảm mạnh
được số người sống dưới ngưỡng nghèo đói. Đồng thời, Trung Quốc đã
không chỉ phát triển được nền kinh tế của mình mà còn có nhiều đóng
góp đối với các nền kinh tế Châu Á. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ Châu Á 1997, Trung Quốc đã không phá giá đồng NDT và
do vậy đã giúp các nước bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tránh được
tình trạng phá giá để cạnh tranh, phần nào giúp các nước nhanh chóng
phục hồi sau khủng hoảng.
Bước sang năm 2002, một năm sau khi Trung Quốc chính thức gia
nhập WTO, mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều nhân tố bất lợi cho
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 16
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
sự phát triển nhưng nền kinh tế Trung Quốc vẫn có một năm đầy sức
sống với những thay đổi tích cực của đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu
(xem biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng các chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung
Quốc năm 2002
Đơn vị: %
30.0
17.6
8.0
8.7
1.1
S¶n l îng
l ¬ng thùc
GDP
FDI
XuÊt khÈu
Dù tr÷
ngo¹i tÖ
Nguồn: Cục Thống kê Trung Quốc (NBS) [8].
Từ biểu đồ trên có thể thấy, mức tăng trưởng kinh tế Trung Quốc
năm 2002 đạt 8%, cao hơn so với mức dự báo đầu năm là 7% và mức
tăng 7.3% của năm 2001. Đặc điểm của sự tăng trưởng kinh tế Trung
Quốc năm 2002 là mức tăng trưởng GDP theo quý khá đều đặn: quý I
tăng 7.6%; quý II tăng 8%; quý III tăng 8.1%. Tổng GDP trong cả năm
đạt 10,000 tỷ NDT, tương đương 1,248 tỷ USD [8].
Cùng với sự tăng trưởng của GDP, kim ngạch ngoại thương của
Trung Quốc năm 2002 cũng tăng gấp khoảng 30 lần so với cách đây 24
năm, khi nước này bắt đầu cải cách và mở cửa. Năm 1978, kim ngạch
ngoại thương của Trung Quốc đạt 20.6 tỷ USD, đứng thứ 32 trong danh
sách ngoại thương toàn cầu. Năm 2001, với 509.8 tỷ USD, Trung Quốc
trở thành nước buôn bán lớn thứ 6 trên thế giới. Sau một năm gia nhập
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 17
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
WTO, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc năm 2002 tăng 22.3% so
với năm trước, đạt 325.57 tỷ USD, lần đầu tiên vượt ngưỡng 300 tỷ
USD. Tổng kim ngạch ngoại thương năm 2002 đạt 620.79 tỷ USD, tăng
17.6%, xếp hàng thứ 5 thế giới; trong đó thặng dư mậu dịch là 30.35 tỷ
USD, tăng 34.6 %, mức cao nhất trong 4 năm qua [9].
Thu hút vốn FDI tăng bình quân 14.2%/ năm, liên tục 9 năm liền
đứng hàng đầu các nước đang phát triển, đã có 400 trên tổng số 500
công ty hàng đầu thế giới đặt cơ sở tại Trung Quốc [7]. Trong những
năm 1980, FDI vào Trung Quốc chỉ là 2 – 3 tỷ USD/ năm. FDI chỉ bắt
đầu tăng mạnh từ những năm 1992 – 1993, Trung Quốc trở thành nước
tiếp nhận FDI lớn nhất trong số các nước đang phát triển (tham khảo
Phụ lục 3). Năm 2002, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8.7%, lần đầu
tiên vượt Mỹ, đạt mức kỷ lục 52.7 tỷ USD, Trung Quốc trở thành nước
tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất thế giới. Tính trung
bình cả giai đoạn, Trung Quốc thu hút khoảng 45 tỷ USD vốn/ năm,
đứng đầu trong các nước đang phát triển và đứng thứ hai thế giới, chỉ
sau Mỹ [6].
Sự tăng trưởng liên tục của xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã đem lại cho Trung Quốc một nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào.
Tính đến cuối năm 2002, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đạt 274 tỷ
USD, tương đương tổng giá trị nhập khẩu của cả nước trong 10 tháng,
tăng xấp xỉ 30% so với mức 212.1 tỷ USD vào cuối năm 2001 [8]. Tính
trung bình trong thời gian 5 năm (1997 – 2002), dự trữ ngoại tệ của
Trung Quốc đã tăng 104.7%, từ 139.9 tỷ USD lên tới 286.4 tỷ USD, đưa
nước này trở thành nước có mức dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới,
sau Nhật Bản [10]. Nguồn dữ trữ ngoại tệ lớn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với một quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, nhất là
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 18
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
trong thời điểm hiện nay, khi tỷ giá hối đoái của đồng NDT trên thị
trường thế giới rất thấp và không thể chuyển đổi thành vàng được.
Bên cạnh đó, nợ nước ngoài của Trung Quốc tiếp tục giảm. Tính
đến cuối tháng 6/ 2002, số dư nợ đứng ở mức 160 tỷ USD. Số tiền gửi
tiết kiệm của cư dân vào cuối tháng 10/ 2002 đạt 9,200 tỷ NDT (tương
đương 1,100 tỷ USD). Tiền gửi của cư dân tăng do thu nhập tăng nhanh:
mức GDP bình quân theo đầu người của Trung Quốc tăng từ 787 USD
năm 1999 lên 853 USD năm 2000 và đạt 961 USD năm 2002 (tăng 6%)
[8].
Cùng với Trung Quốc, các nước ASEAN cũng bắt đầu thực hiện
việc nới lỏng chính sách và các biện pháp tự do hoá trong những năm
1990. ASEAN là tổ chức đầu tiên tại Đông Á thực hiện các FTA khu
vực, đầu tiên là dưới hình thức PTA rồi sau đó là khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA) để đáp lại các thách thức của các thị trường đang
được toàn cầu hoá nhanh chóng. Tuy khá toàn diện hơn so với PTA,
song bản chất tự nguyện của AFTA tiếp tục gạt ra ngoài những khu vực
nhạy cảm về chính trị như nông nghiệp và ô tô. Không có bước tiến hay
mục tiêu cụ thể nào được đề ra để đạt được ranh giới thời gian 15 năm
của AFTA. So với những FTA khu vực khác, như thoả thuận dày hơn
1000 trang của NAFTA, AFTA chỉ có 15 trang. Một số những người chỉ
trích ban đầu hoài nghi chủ trương “Nhất trí trước, đàm phán sau”
(AFTA – Agree first, Talk after) sẽ có hiệu quả; chỉ có ít người hy vọng
vào thành công của AFTA.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, AFTA đã chứng tỏ rằng, tuy khởi
đầu uể oải, song nó đã có thể và sẵn sàng thích nghi với nền kinh tế thế
giới đang thay đổi liên tục cũng như những tình huống nội bộ. AFTA
trước tiên đã thay đổi tốc độ sau hai diễn biến quan trọng bên ngoài: việc
ký kết Thoả thuận chung về thuế quan và các vòng đàm phán mậu dịch
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 19
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Uragoay năm 1993 và Tuyên bố Bogor năm 1994 về cam kết tự do hoá
thương mại và đầu tư của các nước thành viên APEC, lần lượt vào năm
2010 và 2020, cho các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. ASEAN
đã đẩy nhanh mục tiêu thành lập AFTA từ ngày 1/ 1/ 2005 sang ngày 1/
1/ 2003. Sự thay đổi tiếp theo là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
năm 1997. Bất chấp những động cơ chính trị mạnh mẽ đòi đảo ngược
tiến trình tự do hoá, năm 1998, tổ chức đang phải vất vả để đối phó với
hậu khủng hoảng về kinh tế này vẫn thông qua một loạt biện pháp táo
bạo, trong đó có thoả thuận của 6 nước đầu tiên ký AFTA đẩy sớm lên
một năm nhiều khoản cắt giảm thuế quan trước đó đã được hoạch định
vào năm 2003. Hơn nữa, 5 nước ASEAN gồm Indonesia, Malaysia,
Philippines, Singapore và Thái Lan cùng ký kết Hiệp định công nghệ
thông tin (ITA) và vì thế có kế hoạch giảm thuế MFN đối với một số
mặt hàng có sự tăng trưởng nhanh nhất trong tổng thương mại của họ.
Như vậy, bức thông điệp của ASEAN gửi tới thế giới đầy quyết tâm và
rõ ràng: họ muốn thương mại tự do cả trong hoàn cảnh thuận lợi và khó
khăn.
Sự quyết tâm đó của ASEAN đã đem lại những kết quả đáng kể.
Mức thuế quan trung bình giữa các nước ASEAN được giảm từ 111.4%
năm 1993 xuống còn 3.2% năm 1998 [11]. Tổng số vốn đầu tư nước
ngoài ASEAN thu hút trong giai đoạn này đạt 132 tỷ USD. Đầu tư nước
ngoài vào ASEAN năm 2000 đã tăng 30% so với năm 1999, từ 21.8 tỷ
USD lên 28.4 tỷ USD [12] (tham khảo thêm Phụ lục 3).
Cùng với triển vọng về đầu tư bước đầu được cải thiện, thương mại
của ASEAN năm 2000 cũng tăng 19.9% với tổng kim ngạch xuất khẩu
đạt 423.6 tỷ USD so với 353.3 tỷ USD của năm 1999; tổng kim ngạch
nhập khẩu tăng 22.8%, đạt 360.1 tỷ USD so với 293.1 tỷ USD của năm
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 20
- Xem thêm -