Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm soát thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền ...

Tài liệu Kiểm soát thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do cục thuế thành phố đà nẵng thực hiện.

.PDF
96
25
107

Mô tả:

i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN BÙI CÔNG PHƯƠNG ii MỤC LỤC Đề tài: “ Kiểm soát thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện” đã tập trung làm rõ một số vấn đề sau: ....................................................................................86 iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TNCN TCCT KSNB NNT ĐTNT ĐTNN HCSN NN TNCT TNTT MST ĐKT KKT&KTT TTĐB XNK GTGT TNDN TBT NSNN SXKD TP UBND : Thu nhập cá nhân : Tổ chức chi trả : Kiểm soát nội bộ : Người nộp thuế : Đối tượng nộp thuế : Đầu tư nước ngoài : Hành chính sự nghiệp : Nhà nước : Thu nhập chịu thuế : Thu nhập tính thuế : Mã số thuế : Đăng ký thuế : Kê khai và kế toán thuế : Tiêu thụ đặc biệt : Xuất nhập khẩu : Giá trị gia tăng : Thu nhập doanh nghiệp : Thông báo thuế : Ngân sách nhà nước : Sản xuất kinh doanh : Thành phố : Uỷ Ban nhân dân iv DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Số hiệu hình vẽ 1.1 1.2 1.3 2.1 2.2 2.3 3.1 3.2 Tên hình vẽ Sơ đồ mối quan hệ công việc của Quy trình quản lý thuế Sơ đồ quy trình quản lý thuế TNCN Sơ đồ quy trình kiểm soát thuế TNCN Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của Cục Thuế TP Đà Nẵng Sơ đồ quy trình hoàn thuế Thu nhập cá nhân Sơ đồ một cuộc thanh tra, kiểm tra tại tổ chức chi trả Sơ đồ hoàn thiện quy trình kiểm tra thuế TNCN Sơ đồ hoàn thiện quy trình thanh tra thuế TNCN Trang 21 22 27 33 40 42 66 67 1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là một hình thức thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước (NSNN). Hiện nay, ở các nước phát triển tỷ trọng thu ngân sách của thuế TNCN chiếm rất cao từ 30% đến 40%, có nước lên đến 50% như Mỹ, Nhật, Canada…, các nước đang phát triển chiếm từ 15% - 30% như Thái Lan, Ma-lai-xia… Ở nước ta, Thuế TNCN bắt đầu được áp dụng từ năm 1991 với tên gọi là thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Để phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn lịch sử, từ đó đến nay Pháp lệnh đã nhiều lần được sửa đổi bổ sung. Và cụ thể nhất là tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XII, Luật thuế TNCN đã được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Số thu về thuế TNCN ở nước ta hiện nay chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu NSNN (khoảng 5%). Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế phát triển và hội nhập nhanh và mạnh như hiện nay, thu nhập của mọi người dân nói chung, các cá nhân làm công ăn lương nói riêng có xu hướng ngày càng tăng, điều đó cho phép chúng ta khẳng định rằng, tỷ trọng thuế TNCN trong tổng thu NSNN sẽ tăng lên trong tương lai là điều chắc chắn. Tại Cục Thuế TP Đà Nẵng, số thu về thuế TNCN có xu hướng tăng cao qua từng năm. Nếu năm 2007 thuế TNCN chiếm 1,2% tổng số thu ngân sách thì đến năm 2010 thuế TNCN chiếm tỷ trọng khoảng 4,67% trong tổng thu NSNN. Có thể thấy, đây là tỉ lệ không cao, trong khi tiềm năng của nguồn thu thuế TNCN trên địa bàn là đáng kể. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thất thu trong lĩnh vực này, đó là: Hiện tượng trốn thuế, lách thuế còn khá phổ biến đối với các cá nhân có nhiều nguồn thu nhập, các cá nhân hành nghề tự do, các cá nhân là những chuyên gia nước ngoài hoạt động tại các BQL dự án đầu tư trong nước và ngoài nước…; Công tác quản lý thuế nói chung, thuế 2 TNCN nói riêng còn nhiều bất cập, hiệu quả quản lý thuế còn yếu; Công tác tuyên truyền chính sách thuế đến mọi tầng lớp dân cư chưa kịp thời, thiếu đồng bộ; công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế (NNT) là công cụ chủ yếu để kiểm soát thuế chưa đạt hiệu quả như mong muốn; mặt khác, Thuế TNCN là sắc thuế còn khá mới mẻ, các thủ tục kiểm soát còn nhiều bất cập dẫn đến công tác kiểm soát thuế TNCN chưa thật sự hiệu quả. Xuất phát từ chức năng, vai trò của thuế TNCN cũng như tính cấp thiết của việc tăng cường công tác kiểm soát thuế TNCN tại TP Đà Nẵng, tác giả đã chọn đề tài:“ Kiểm soát thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện” làm đề tài nghiên cứu để viết luận văn tốt nghiệp cao học. 2. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Thuế TNCN là sắc thuế mới ban hành, diện điều chỉnh của sắc thuế này rất rộng, đối tượng điều chỉnh đa dạng và phức tạp, điều đó đặt ra cho nhà quản lý hàng loạt các câu hỏi, đó là: quản lý đối tượng nộp thuế ra sao? Theo dõi và quản lý thu nhập như thế nào? kiểm soát việc giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc của các cá nhân có thu nhập bằng cách nào? Làm gì để mọi tầng lớp dân cư trong xã hội với trình độ khác nhau có thể tiếp cận và thực hiệnchính sách thuế TNCN một cách dễ dàng nhất? Công tác thanh tra, kiểm tra giám sát như thế nào vừa gọn nhẹ vừa hiệu quả… Các vấn đề nêu trên được khá nhiều người quan tâm và trên thực tế đã có một số công trình nghiên cứu nhằm góp phần làm cho chính sách thuế TNCN hoàn thiện hơn, có thể nêu ra đây một số công trình nghiên cứu tiêu biểu mà tác giả đã có điều kiện đọc và tham khảo, đó là: 1. Công trình nghiên cứu với đề tài: “Tăng cường kiểm soát nguồn thu Thuế TNCN trên địa bàn Tỉnh Phú Yên” của tác giả Nguyễn Thị Kim Trọng - Đại học Đà Nẵng. 3 2. Công trình nghiên cứu với đề tài:“Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Long - Đại học Tài chính Hà Nội. Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích, đánh giá công tác kiểm soát nguồn thu thuế TNCN, Phân tích đánh giá tính tuân thủ của người nộp thuế trong điều kiện thực hiện chính sách thuế TNCN. Song để đi sâu nghiên cứu, phân tích đánh giá quá trình kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập thì chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu một cách cụ thể. Xuất phát từ tình hình trên, tác giả đi vào nghiên cứu công tác kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện, với mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện chính sách thuế TNCN trong thời gian tiếp theo. 3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Trên cơ sở lý luận về kiểm soát quản lý, kiểm soát thuế TNCN, luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng kiểm soát thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công, tăng cường chống thất thu NSNN về thuế TNCN trên địa bàn TP Đà Nẵng trong thời gian đến. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Công tác kiểm soát thuế TNCN của Cục Thuế TP Đà Nẵng đối với người nộp thuế TNCN là các cá nhân có thu nhập từ tiền lương tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện. Trong đó đi sâu nghiên cứu hoạt động kiểm soát của từng khâu trong quy trình quản lý, từ đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế đến quyết toán thuế, hoàn thuế và công tác thanh tra, kiểm tra… 4 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trên cơ sở Phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đối chiếu, so sánh, mô tả, thống kê trong quá trình nghiên cứu để khảo sát thực trạng công tác kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện. Bên cạnh đó luận văn đã sử dụng phương pháp phỏng vấn, khảo sát kinh nghiệm thực tế, cũng như nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn làm rõ ý nghĩa của công tác kiểm soát thuế TNCN nói chung, thuế thu nhập cá nhân từ tiền công, tiền lương nói riêng. Luận văn nêu lên thực trạng của hoạt động kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục thuế TP Đà Nẵng thực hiện, đồng thời đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này tại Cục Thuế TP Đà Nẵng. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng biểu và tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công. Chương 2: Thực trạng kiểm soát thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện. Chương 3: Giải pháp tăng cường kiểm soát thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục Thuế TP Đà Nẵng thực hiện. 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT THUẾ TNCN TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT THUẾ 1.1.1. Khái niệm về kiểm soát quản lý Hoạt động kiểm soát là hoạt động cần thiết trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người, bên trong tổ chức cũng như trong toàn bộ xã hội. Kiểm soát là một chức năng của quản lý, do vậy để hiểu được khái niệm về kiểm soát, chúng ta cần phải tìm hiểu về quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng. Quản lý là một quá trình công việc bao gồm hướng dẫn một nhóm, một tổ chức hoàn thành một mục tiêu xác định. Quản lý không chỉ đảm bảo cho mọi hoạt động của tổ chức được tiến hành với hiệu suất cao mà còn đảm bảo cho các đối tượng đó hoạt động theo hướng các mục tiêu đề ra, theo chức năng được quy định và nhiệm vụ được giao. Như vậy, có thể hiểu quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Kiểm soát là hoạt động bao gồm các hoạt động giám sát quá trình thực hiện, so sánh với các tiêu chuẩn và chọn ra cách thức đúng. Bản chất cơ bản của kiểm soát còn được hiểu rõ hơn trong các giai đoạn chủ yếu của toàn bộ quá trình quản lý. Quá trình quản lý từ việc lập kế hoạch và xây dựng các mục tiêu có liên quan. Để đảm bảo các hoạt động, hành động mong muốn và ngăn ngừa những hành động không mong muốn thì việc kiểm soát là một chức năng không thể thiếu. Do vậy, kiểm soát không thể tồn tại nếu chúng ta không có các mục tiêu. Chức năng kiểm soát tồn tại như một “khâu” độc lập của quá trình quản lý nhưng đồng thời lại là một bộ phận chủ yếu của quá trình đó, 6 chức năng này được thể hiện khác nhau tùy thuộc vào cơ chế kinh tế, cấp quản lý và loại hình cụ thể. Tóm lại, Kiểm soát được hiểu là tổng hợp những phương pháp để nắm bắt và điều hành đối tượng quản lý. Với ý nghĩa đó, kiểm soát có thể hiểu theo nhiều cách: Cấp trên kiểm soát cấp dưới thông qua chính sách hoặc các biện pháp cụ thể; Đơn vị này kiểm soát đơn vị khác thông qua những chi phối đáng kể về quyền sở hữu và lợi ích tương ứng; Nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông qua quy chế và các thủ tục quản lý đã định sẵn. Quá trình kiểm soát: - Triển khai các mục tiêu: Xác định mục tiêu cần đạt được; - Đo lường các kết quả thực hiện theo những mục tiêu đã được xây dựng để có cơ sở đúng đắn so sánh và phân tích những gì đã thực hiện và có hành động quản lý phù hợp; - So sánh thành tích cụ thể với các mục tiêu; - Phân tích nguyên nhân chênh lệch để tính toán mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố. Cần phải xác định nguyên nhân trực tiếp và những nguyên nhân cơ bản, xác định ảnh hưởng cụ thể của những nhân tố cá biệt quan trọng. Đây là bước chủ yếu đã sử dụng những kết quả miêu tả trong 3 bước trước; - Xác định hành động quản lý thích hợp; - Triển khai và đảm bảo hành động được thực hiện như mong muốn; - Tiếp tục đánh giá lại: Đây là bước cuối cùng trong quá trình kiểm soát, và cũng chính là hoạt động kiểm tra tiếp sự đúng đắn của việc xác định hành động cần thiết trước đây và cách thức tiến hành những hành động đó. Bước này làm rõ sự liên kết giữa chu kỳ kiểm soát trước với chu kỳ kiểm soát sau, xác định hành động quản lý tiếp đó. Việc đánh giá sau là một hành động tiếp tục phản ánh những điều kiện thay đổi, để có thêm kinh nghiệm và biết rõ hơn tất cả các nhân tố. 7 Mối quan hệ giữa kiểm soát và quá trình quản lý tổng thể: Như đã đề cập ở trên, chức năng kiểm soát chủ yếu là xem xét tính hiệu quả của các hành động thực hiện mà nhờ đó các chiến lược được chuyển thành hành động để đạt các mục tiêu và kết quả đã đặt ra. Hệ thống tiêu chuẩn pháp lý và kỹ thuật của hoạt động kiểm soát, đó là những chuẩn mực mà người ta dùng để đối chiếu, xem xét kết quả hay quá trình tác nghiệp. Để đánh giá, đo lường mức độ thực hiện công việc, người ta thiết lập nhiều dạng tiêu chuẩn khác nhau như căn cứ vào chất lượng và số lượng công việc, căn cứ vào đánh giá của các chuyên gia hay của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, cho phép phát hiện sớm những sai lệch trong quá trình tác nghiệp, từ đó có thể kịp thời đưa ra những biện pháp chấn chỉnh thích hợp nhằm đạt được mục tiêu, định hướng đã đề ra. Dưới góc độ thông tin, kiểm soát là hệ thống phản hồi các thông tin đánh giá kết quả của quá trình thực thi nhiệm vụ đã đề ra với những người điều hành, để các nhà điều hành có các điều chỉnh cần thiết cho quá trình tác nghiệp, tuân thủ theo ý chí của mình hay mục tiêu của hệ thống. Tuy nhiên việc phản hồi này thực sự có hiệu quả hay không, nhiều khi còn phụ thuộc vào thời gian mà các thông tin này tới được nhà quản lý và điều hành. Trong hoạt động của một đơn vị nói riêng hay hoạt động của Nhà nước nói chung, kiểm soát được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp, mọi ngành, mọi cá nhân. Mặc dù quy mô và kỹ thuật kiểm soát phụ thuộc vào từng hoạt động, từng con người cụ thể, song các hoạt động này đều có quan hệ hữu cơ và hỗ trợ lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau đạt được mục đích đã đề ra. Kiểm soát trước hết là thông qua việc đối chiếu với hệ thống quy phạm tiêu chuẩn tác nghiệp, tiến đến là quy trình tác nghiệp, đánh giá mức độ khả thi của tác vụ; thứ hai là sự kiểm soát của các chức danh có nhiệm vụ kiểm soát trên một công đoạn nào đó của dây chuyền tác nghiệp. 8 Kiểm soát quản lý đó là việc thực hiện đối chiếu kết quả đạt được với những quy phạm, quy định chung, với kế hoạch để đánh giá, điều chỉnh làm cho quá trình tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý một cách có hiệu quả, hiệu lực hơn, nhằm đạt được mục tiêu định trước. 1.1.2. Phân loại hoạt động kiểm soát Hoạt động kiểm soát có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau, tùy theo các tiêu thức khác nhau mà chúng ta có thể phân loại các hoạt động kiểm soát, cụ thể: (1) Căn cứ theo nội dung của kiểm soát: kiểm soát hành chính và kiểm soát kế toán. - Kiểm soát hành chính: Là tập trung vào các thể thức kiểm tra, nhằm đảm bảo cho việc điều hành công tác ở đơn vị có nề nếp, nghiêm minh và hiệu quả. Các thao tác kiểm soát hành chính được thực hiện trên các lĩnh vực tổ chức và hành chính ở mọi cấp độ như: tuyển chọn nhân viên, xây dựng tác phong, quy trình làm việc, tổ chức thực hiện các công việc cùng với các thao tác kiểm soát quá trình chấp hành và mệnh lệnh ở đơn vị. - Kiểm soát kế toán: kiểm soát thực hiện mục tiêu bảo vệ tài sản và đảm bảo độ tin cậy của sổ sách tài chính kế toán, kiểm soát phải đảm bảo: + Các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể của quản lý. + Các nghiệp vụ được ghi sổ là cần thiết để giúp chuẩn bị các báo cáo tài chính đúng theo quy định và duy trì khả năng hạch toán của tài sản. + Các hoạt động đều được ghi nhận vào các thời điểm thích hợp, giúp cho việc thiết lập thông tin kinh tế tài chính phù hợp với các chuẩn mực kế toán, thể hiện chính xác, toàn diện nguồn lực hiện có của đơn vị và phải có sự điều chỉnh khi có những chênh lệch, thay đổi phát sinh. + Cung cấp căn cứ và đưa ra quyết định xử lý sai lệch, rủi ro có thể gặp phải. 9 Như vậy kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động tài chính của đơn vị được phản ánh trên các tài liệu kế toán. Trong khi đó kiểm soát quản lý yêu cầu một phạm vi rộng hơn của các đối tượng kiểm soát theo mục tiêu quản lý của toàn bộ tổ chức. Tuy nhiên kiểm soát kế toán lại có vai trò là cơ sở cho kiểm soát quản lý. Các chứng từ kế toán không chỉ là sự thông tin mà còn là minh chứng pháp lý cho sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế. Từ đó kiểm soát kế toán có thể hình thành phương pháp tự kiểm soát: đối ứng tài khoản không chỉ là phương pháp phân loại, phản ánh sự vận động của tài sản mà còn là phương pháp kiểm tra những quan hệ cân đối cụ thể; tổng hợp - cân đối kế toán không chỉ cung cấp những thông tin tổng hợp mà còn là phương pháp kiểm tra kết quả cân đối tổng quát trong thông tin kế toán. (2) Căn cứ vào mục tiêu của kiểm soát: Bao gồm các hình thức kiểm soát là: kiểm soát ngăn ngừa, kiểm soát phát hiện và kiểm soát điều chỉnh - Kiểm soát ngăn ngừa: Là kiểm soát tập trung vào việc ngăn chặn các sai phạm hoặc các điều kiện có thể dẫn đến sai phạm. Kiểm soát này thường được thực hiện trước khi nghiệp vụ xảy ra và thực hiện ngay trong công việc hàng ngày của nhân viên theo chức năng, phân chia trách nhiệm, giám sát, kiểm tra tính hợp lý, sự đầy đủ và chính xác. - Kiểm soát phát hiện: Là kiểm soát tập trung vào việc phát hiện các gian lận, sai sót, sai lầm và rủi ro trong quá trình tác nghiệp một cách nhanh chóng, giúp các cấp lãnh đạo có những quyết định xử lý kịp thời, hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra. Kiểm soát phát hiện và kiểm soát ngăn ngừa có quan hệ bổ sung cho nhau trong việc thực hiện các mục tiêu kiểm soát, do kiểm soát phát hiện thường được thực hiện sau khi quá trình tác nghiệp đã xảy ra giúp cho việc phát hiện các sai phạm “lọt lưới” kiểm soát phòng ngừa. Một ý nghĩa quan trọng của kiểm soát phát hiện là sự "răn đe" 10 giúp làm tăng trách nhiệm của nhân viên trong quá trình thực hiện kiểm soát phòng ngừa. - Kiểm soát điều chỉnh: Hoạt đông kiểm soát này hướng tới việc cung cấp những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định điều chỉnh các sai sót được phát hiện. (3) Căn cứ vào thời điểm thực hiện trong quá trình tác nghiệp: Bao gồm các hình thức kiểm soát là: Kiểm soát trước, kiểm soát hiện hành và kiểm soát sau. - Kiểm soát trước hay còn gọi là kiểm soát lường trước, kiểm soát hướng về tương lai. Mục đích của kiểm soát này là nhằm khắc phục độ trễ về thời gian trong kiểm soát thực hiện, nó tiên liệu những diễn biến có thể xảy ra trong quá trình tác nghiệp, đề phòng những rủi ro và các khó khăn tiềm ẩn. Hoạt động kiểm soát này đặc biệt quan trọng, tuy nhiên nó chưa phổ biến về mặt kỹ thuật và còn rất hạn chế do yêu cầu về con người thực hiện kiểm soát phải là những người thực sự có trình độ và có nhiều kinh nghiệm thực tế để có thể tiên liệu trước những rủi ro có thể xảy ra, mặt khác chi phí cho hoạt động này khá lớn. - Kiểm soát hiện hành hay còn gọi là kiểm soát tác nghiệp là hoạt động kiểm soát được tiến hành ngay trong quá trình tác nghiệp nhằm ngăn ngừa, phát hiện kịp thời những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình thực hiện các thao tác tác nghiệp. Do vậy nếu làm tốt công tác kiểm soát tác nghiệp thì mức độ rủi ro trong quá trình tác nghiệp sẽ giảm đi, đảm bảo được hiệu quả công việc ở mức tốt nhất. - Kiểm soát sau khi tác nghiệp hay còn gọi là kiểm soát thông tin phản hồi là hoạt động kiểm soát thông dụng nhất hiện nay. Mặc dù bị độ trễ thời gian song bù lại kiểm soát sau khi tác nghiệp lại có đầy đủ căn cứ đề đánh giá, đo lường kết quả tác nghiệp. 11 1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT THUẾ TNCN TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG 1.2.1. Những vấn đề cơ bản về thuế TNCN 1.2.1.1. Khái niệm về thuế và thuế TNCN * Khái niệm về thuế: Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đổi giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật. Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước. Tuỳ theo mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn mà cơ cấu và nội dung các chính sách thuế có khác nhau, cũng tùy thuộc vào yêu cầu của việc xem xét, đánh giá và phân loại các sắc thuế, người ta thường phân loại thuế theo hai cách sau đây: - Phân loại thuế theo đối tượng đánh thuế: + Thuế đánh vào hàng hóa như Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu, Thuế TTĐB, Thuế tài nguyên, … + Thuế đánh vào thu nhập như thuế TNDN, thuế TNCN,… + Thuế đánh vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế môn bài, … + Thuế đánh vào tài sản như thuế trước bạ, thuế tài sản, … - Căn cứ vào tính chất có thể dịch chuyển về thuế giữa người nộp thuế và người chịu thuế, người ta phân thuế làm hai loại sau: + Thuế gián thu: Là loại thuế được cộng vào giá trị, là bộ phận cấu thành của giá cả hàng hóa, như thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế XNK, thuế tài nguyên, … + Thuế trực thu: Là loại thuế trực tiếp đánh vào thu nhập của các tổ chức hoặc cá nhân, như thuế TNDN, thuế TNCN,… đối với loại thuế này thì 12 người chịu thuế đồng thời là người nộp thuế cho Nhà nước; Thuế này có tính chất công bằng hơn thuế gián thu vì phần đóng góp về thuế thường phù hợp với khả năng của từng đối tượng nộp thuế. * Khái niệm về thuế TNCN: Thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của từng cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm hoặc từng lần phát sinh. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế TNCN không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khoá sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế. Thuế TNCN đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng nộp thuế TNCN là mọi dân cư trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp cũng như địa vị xã hội. Ðồng thời, tùy theo tính chất của các khoản thu nhập cá nhân, người ta chia thu nhập làm hai loại: thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên để tính thuế cho phù hợp. Hiện nay trên thế giới có 02 phương pháp đánh thuế: Thứ nhất, có Quốc gia tính thuế vào từng khoản thu nhập thực tế của mỗi cá nhân; Thứ hai, có Quốc gia tính thuế trên tổng thu nhập của cả hộ gia đình: + Cách thứ nhất được áp dụng phổ biến ở Anh, Nhật, Thụy Ðiển, các nước Châu Phi, Liên Xô, Hunggari, Tiệp khắc ... Ưu điểm của cách này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào Ngân sách nhà nước (NSNN). Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế sao cho có hiệu quả, đáp ứng được sự công bằng xã hội, nhất là đối với những cá nhân có nhiều nhân khẩu ăn theo. + Cách thứ hai được áp dụng ở Pháp, Hà Lan ... Các chuyên gia cho rằng cách này công bằng hơn về mặt đạo đức xã hội nhưng không kịp thời vì 13 mỗi gia đình đều có ít nhất hai người trở lên. Ðã có nhiều người thì sẽ có nhiều khoản thu nhập khác nhau, do đó phải mở sổ sách kế toán, theo dõi từng nguồn thu nhập và phải đối chiếu với nơi phát sinh thu nhập, vì có nhiều phức tạp nên rất ít quốc gia áp dụng cách này. Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh: Một là, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài; Hai là, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp Luật về thuế TNCN. Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế TNDN ở chỗ nó thường gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia cho dù quốc gia đó có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế, xây dựng một chính sách thuế có tính trung lập không nhằm nhiều mục tiêu khác nhau. Thể hiện, nó luôn quy định loại trừ một số khoản thu nhập trước khi tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp thuế, khoản chi mang tính nhân đạo xã hội… Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể, có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội, người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế. Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, pháp lệnh có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/04/1991. Ðể cho 14 phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ năm 1991 đến năm 2004 đã có 06 lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: Lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999, lần thứ năm vào ngày 13/6/2001( có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001) và lần thứ 6 là pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số 14/2004/PL-UBTVQH11 ban hành năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 đến 31/12/2008). Thông tư 81/2004/TT-BTC và thông tư số 12/2005/TT-BTC là những văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh này. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật số 04/2007/QH12 - Luật thuế thu nhập cá nhân. Luật này có hiệu lực thi hành chính thức từ ngày 01/01/2009. 1.2.1.2. Vai trò của công tác kiểm soát thuế TNCN từ tiền lương, tiền công - Thuế TNCN là một công cụ rất cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của các tầng lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để kiểm soát thu nhập dân cư đòi hỏi phải làm tốt công tác kiểm soát việc thực hiện chính sách thuế TNCN. Muốn vậy, Nhà nước phải sử dụng đồng thời cả hai cơ chế quản lý, đó là quản lý quỹ tiền lương, tiền công, chế độ báo cáo quyết toán kinh doanh…và cơ chế kê khai nộp thuế TNCN. - Trong giai đoạn mở cửa và hội nhập, thu nhập của mọi tầng lớp dân cư ngày càng tăng, công tác quản lý chặt chẽ nguồn thu nhập của mọi cá nhân là đòi hỏi bức thiết. Có quản lý chặt chẽ các nguồn thu nhập của mọi cá nhân trong xã hội thì mới có cơ sở hoạch định chính sách xã hội phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển. Do đó tăng cường kiểm soát trong khâu 15 quản lý đối tượng nộp thuế có vai trò hết sức quan trọng và quyết định sự thành công của việc triển khai chính sách thuế TNCN của mỗi quốc gia. - Song song với việc quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế thì công tác kiểm soát nguồn thu đóng vai trò hết sức quan trọng. Để làm tốt nội dung này cần phải thông qua công cụ kế toán tại các tổ chức chi trả. Bằng việc kiểm soát chặt chẽ công tác kế toán tại các tổ chức chi trả sẽ góp phần xác định đầy đủ, chính xác nguồn thu nhập tiền lương, tiền công của các cá nhân có thu nhập, chống thất thu NSNN. Trong giai đoạn đầu công tác kiểm soát tất yếu còn những hạn chế, nhưng kết quả của công tác kiểm soát sẽ là căn cứ quan trọng để thống kê thu nhập dân cư, phục vụ chương trình mục tiêu nghiên cứu quốc gia, hoạch định chính sách phát triển phù hợp khi tính tuân thủ pháp luật, pháp chế xã hội được nâng lên. Để làm tốt công tác kiểm soát cả về đối tượng nộp thuế và thu nhập chịu thuế đòi hỏi phải nắm chắc các thông tin về đối tượng và thu nhập thông qua công tác quản lý và công tác kế toán tại tổ chức chi trả thu nhập. 1.2.1.3. Đối tượng nộp thuế TNCN Luật thuế TNCN quy định đối tượng nộp thuế TNCN là các cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt nam và các cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt nam không phân biệt nơi chi trả thu nhập. (1) Cá nhân cư trú: Theo Luật Thuế TNCN là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: - Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam; - Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn. 16 (2) Cá nhân không cư trú: Là người không đáp ứng điều kiện quy định như cá nhân cư trú. Nắm chắc những quy định về đối tượng cư trú và không cư trú cho phép chúng ta thực hiện tốt hơn công tác kiểm soát việc quản lý đối tượng nộp thuế trong mỗi kỳ tính thuế. 1.2.1.4. Căn cứ tính thuế TNCN đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công * Thứ nhất, Đối với cá nhân cư trú: Căn cứ tính thuế TNCN là thu nhập tính thuế và thuế suất thuế TNCN. (1)Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công là tổng thu nhập chịu thuế trừ (-) Các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, các khoản giảm trừ. + Thu nhập từ tiền lương, tiền công, bao gồm: Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công; Các khoản phụ cấp, trợ cấp; Tiền thù lao dưới các hình thức; Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản lý và các tổ chức; Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc không bằng tiền; Tiền thưởng. + Các khoản giảm trừ: Bao gồm các khoản sau đây: Một là, Giảm trừ gia cảnh: là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công đối với người nộp thuế là cá nhân cư trú. Mức giảm trừ đối với người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm). Bên cạnh đó còn được giảm trừ cho người phụ thuộc với mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng (người phụ thuộc là người mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng).
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan