Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kltn_dinh thi tuoi_anh 2_k45...

Tài liệu Kltn_dinh thi tuoi_anh 2_k45

.PDF
80
196
121

Mô tả:

MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC BIỂU ĐỒ DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT LỜI CẢM ƠN LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐÔ-LA HOÁ ............................................ 3 1.1 Khái niệm đô-la hoá ............................................................................. 3 1.2 Phân loại đô-la hoá............................................................................... 4 1.2.1 Đô-la hoá không chính thức ............................................................. 4 1.2.2 Đô-la hoá bán chính thức ................................................................. 5 1.2.3 Đô-la hoá chính thức ........................................................................ 5 1.3 Nguyên nhân của tình trạng đô-la hoá ................................................ 6 1.4 Tác động của tình trạng đô-la hoá đến nền kinh tế ............................ 9 1.4.1 Những tác động tích cực của đô-la hoá ............................................ 9 1.4.2 Những tác động tiêu cực của đô-la hoá .......................................... 12 1.5 Kinh nghiệm quốc tế về đô-la hoá và bài học cho Việt Nam............ 20 1.5.1 Kinh nghiệm đô-la hoá ở Argentina ............................................... 20 1.5.2 Kinh nghiệm đô-la hoá ở Campuchia ............................................. 21 1.5.3 Bài học cho Việt Nam .................................................................... 23 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH ĐÔ-LA HOÁ TẠI VIỆT NAM............................................................................................................. 25 2.1 Diễn biến tình hình đô-la hoá tại Việt Nam trong thời gian qua ..... 25 2.2 Phân tích những tác động của tình trạng đô-la hoá tới nền kinh tế Việt Nam. .................................................................................................. 38 2.2.1 Tác động của đô-la hoá đến hệ thống Tài chính – Ngân hàng ........ 38 2.2.1.1 Đô-la hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng ......................... 38 2.2.1.2 Đô-la hoá cho vay .................................................................. 45 2.2.2 Tác động của đô-la hoá đến điều hành chính sách tiền tệ ............... 50 2.2.3 Tác động của đô-la hoá đến người dân ........................................... 51 2.3. Đánh giá chung về tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam ..................... 53 2.3.1 Đánh giá những tác động của đô-la hoá đến nền kinh tế Việt Nam 53 2.3.2 Đánh giá những biện pháp mà NHNN đã sử dụng nhằm hạn chế tình trạng đô-la hoá trong thời gian qua .................................................. 55 2.4 Nhận xét chung................................................................................... 58 CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG ĐÔ-LA HOÁ TẠI VIỆT NAM........................... 61 3.1 Định hướng nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam. ...... 61 3.1.1 Định hướng hình thành một đồng tiền chung khu vực ASEAN ...... 61 3.1.2 Định hướng về hoạt động của hệ thống ngân hàng ......................... 62 3.2 Một số giải pháp nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam64 3.2.1 Giải pháp về chính sách quản lý ngoại hối ..................................... 65 3.2.2 Giải pháp nhằm nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam ...... 67 3.2.3 Giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ ...................................................... 69 3.2.4 Thực hiện tốt chủ trương “trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng tiền Việt Nam”........................................................................................ 70 3.3 Một số đề xuất .................................................................................... 70 KẾT LUẬN .................................................................................................. 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 74 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát, 1991 - 1996 ...................... 26 Bảng 2: Lãi suất tiết kiệm USD và VND giai đoạn 1992 – 1996 .................. 27 Bảng 3: Lãi suất tiết kiệm USD & VND năm 1997 - 1998 ........................... 29 Bảng 4: Lãi suất tiết kiệm USD & VND, 1999 - 2001 .................................. 31 Bảng 5: Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 1990 – 2000 ............................ 32 Bảng 6: Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán ..... 40 Bảng 7: Khối lượng tiền gửi ngoại tệ (FCDs) trong hệ thống ngân hàng ...... 41 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1: Tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán giai đoạn 2000 – 2005 ........................................................................................ 42 Biểu đồ 2: Cơ cấu tiền gửi trong hệ thống ngân hàng từ 2004 - 2008 ........... 44 Biểu đồ 3: Cơ cấu cho vay nền kinh tế giai đoạn 2000 – 2004...................... 47 Biểu đồ 4: Cơ cấu cho vay giai đoạn 2005 - 2008 ........................................ 48 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CPI Chỉ số giá tiêu dùng CSTT Chính sách tiền tệ FCDs Tiền gửi ngoại tệ FED Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ GDP Tổng sản phẩm quốc nội IMF Quỹ tiền tệ quốc tế M2 Tổng phương tiện thanh toán NHTW Ngân hàng trung ương NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại TCTD Tổ chức tín dụng VND Đồng Việt Nam USD Đô-la Mỹ WTO Tổ chức Thương mại thế giới LỜI CẢM ƠN Đề tài kết quả của quá trình tìm hiểu và nghiên cứu của em trong một thời gian dài. Đề tài được hoàn thành với sự cố gắng, nỗ lực hết mình của bản thân và sự giúp đỡ tận tình của cô Trần Thị Lương Bình. Đầu tiên em muốn gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Trần Thị Lương Bình – giảng viên khoa Tài chính Ngân hàng Đại học Ngoại Thương, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong khoa Tài chính Ngân hàng – Đại học Ngoại Thương đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài này. Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy cô giáo. Kính chúc thầy cô mạnh khoẻ và hạnh phúc. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện tượng đô-la hoá là một hiện tượng không còn mới mẻ ở Việt Nam. Xét trên cả ba góc độ: việc sử dụng đô-la Mỹ trong xã hội, tỷ trọng tiền gửi và tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đồng đô-la Mỹ trong cơ cấu nguồn vốn huy động và dư nợ của hệ thống ngân hàng thương mại, phải thừa nhận thẳng thắn rằng nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng đô-la hoá. Đặc biệt tình trạng này càng trầm trọng khi chúng ta gia nhập WTO. Gần đây, khi có một số bài đăng tài trên báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng về tình trạng đô-la hoá thì hiện tượng này mới thực sự được chú ý. Vì vậy cần thiết phải có những nghiên cứu cụ thể để làm rõ một số vấn đề: Đô-la hoá là gì? Nó biểu hiện dưới các hình thức như thế nào? Đô-la hoá là tốt hay xấu, có nên loại bỏ hoàn toàn hiện tượng này khỏi nền kinh tế hay không? Nó có tác động thế nào đến nền kinh tế? Những chủ trương nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực mà tình trạng đô-la hoá mang lại cho nền kinh tế và cho đời sống xã hội? Để có một cái nhìn tổng quan hơn về tình trạng đô-la hoá, cũng như tìm ra được những giải pháp khắc phục tình trạng đô-la hoá ở Việt Nam vấn đề: “ Tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” được tác giả lựa chọn làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu của khoá luận Mục đích nghiên cứu của khoá luận nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản về đô-la hoá, đồng thời đánh giá tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó khoá luận đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam. 1 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là hiện tượng đô-la hoá trong nền kinh tế. Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam giai đoạn 1990 – những tháng đầu năm 2010. 4. Phương pháp nghiên cứu Khoá luận kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thu thập dữ liệu, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh nhằm làm rõ những vấn đề được nghiên cứu. 5. Kết cấu của khoá luận Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, nội dung của khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về đô-la hoá Chương II: Thực trạng tình hình đô-la hoá tại Việt Nam Chương III: Một số định hướng và giải pháp nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam. 2 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐÔ-LA HOÁ 1.1 Khái niệm đô-la hoá Ở Việt Nam khái niệm đô-la hoá được nhìn nhận là hiện tượng ngoại tệ (mà chủ yếu là đô-la Mỹ) được sử dụng rộng rãi để thay thế một hay nhiều chức năng của đồng nội tệ.① Theo Tyler Moroney, một nhà khoa học của Quỹ Fulbright thì đô-la hoá là quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và sử dụng đồng tiền của một nước có tính ổn định hơn làm phương tiện thanh toán hợp pháp. Mặc dù khái niệm này được gắn liền với đồng đô-la Mỹ (USD), nhưng việc chuyển đổi một đồng nội tệ ra bất kỳ đồng ngoại tệ nào có tính ổn định (ví dụ: đồng Euro, Yên Nhật…) đều được gọi là “đô-la hoá”.② Theo tiêu chí của IMF, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô-la hoá cao khi tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ vượt quá 30% trong tổng khối lượng tiền tệ cung ứng mở rộng M2, bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ. Dựa trên cơ sở đó, theo thống kê của IMF hiện nay có rất nhiều quốc gia ở châu Á, châu Mỹ, châu Phi được coi là có tình trạng đô-la hoá nền kinh tế. Đã có 3 nước chính thức tuyên bố đô-la hoá nền kinh tế là Panama, Elsanvaldo, Ecuardo. Theo luật của các nước này thì đồng đô-la được phép sử dụng lưu hành đồng thời với đồng nội tệ trong chi trả tiền lương, trợ cấp, phúc lợi xã hội,... Người dân được mua bán hàng hoá hoặc thực hiện các giao dịch thương mại, dịch vụ khác bằng đồng đô-la. Theo báo cáo của NHNN Việt Nam thì những năm gần đây tỷ trọng tiền gửi bằng đô-la Mỹ luôn ở mức cao. Điều này cho thấy mức độ đô-la hoá ① ② Thời báo kinh tế Việt Nam: http://www.vnecon.com/showthread.php?t=761 Tạp Kinh tế và dự báo, số 428, năm 2008 3 ở nước ta không phải là thấp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các quốc gia đã xuất hiện nhu cầu sử dụng tiền tệ mạnh để thực hiện các chức năng của tiền tệ song song với đồng nội tệ. Do đó hiện tượng đô-la hoá mặc nhiên được thừa nhận ở các nước này. Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh đó. 1.2 Phân loại đô-la hoá Dựa vào trạng thái của việc sử dụng ngoại tệ, đô-la hoá được chia ra làm ba loại: Đô-la hoá không chính thức, đô-la hoá bán chính thức và đô-la hoá chính thức. 1.2.1 Đô-la hoá không chính thức Là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Ở những nước có nền kinh tế bị đô-la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng đồng đô-la nhưng Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô-la, cấm dùng đô-la đối với hầu hết giao dịch trong nước. Thuật ngữ “đô-la hoá không chính thức” bao gồm các loại sau:  Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi ngoại tệ ở nước ngoài  Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài  Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước  Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi Đô-la hoá không chính thức được chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn đầu, các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tài sản”. Trong giai đoạn này người dân giữ trái phiếu, ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước ngoài như một phương tiện cất trữ nhằm tránh sự mất giá của tài sản do tác động của lạm phát trong nước. Giai đoạn thứ hai được các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tiền tệ”. Trong giai đoạn này người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong nước (nếu được 4 phép). Ngoại tệ vừa thực hiện chức năng là phương tiện thanh toán vừa thực hiện chức năng phương tiện cất trữ. Tiền lương, thuế hay những chi tiêu hàng ngày được thanh toán bằng nội tệ. Nhưng với những tài sản có giá trị lớn như ô tô, đất đai, nhà cửa,... thường được trả bằng ngoại tệ. Trong giai đoạn cuối cùng, giá cả hàng hoá được tính bằng nội tệ nhưng mọi người đều liên tưởng đến ngoại tệ thông qua tỷ giá hối đoái. Đô-la hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. 1.2.2 Đô-la hoá bán chính thức Hay còn gọi là đô-la hoá từng phần, là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, thậm chí còn có ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng. Nhưng nó đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Khác với các nước đô-la hoá chính thức, các nước trong tình trạng đô-la hoá bán chính thức vẫn duy trì Ngân hàng trung ương để thực hiện các chính sách tiền tệ của mình. Trên thế giới có khoảng 12 nước như Bhamas, Haiti, Liberia,... áp dụng đô-la hoá bán chính thức. 1.2.3 Đô-la hoá chính thức Hay còn gọi là đô-la hoá hoàn toàn, xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Đô-la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một loại ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên các nước đô-la hoá chính thức thường chọn một đồng ngoại tệ mạnh làm đồng tiền hợp pháp, chỉ có Andorra sử dụng cả Franc của Pháp và Peseta của Tây Ban Nha. Hầu hết ở các nước đô-la hoá 5 chính thức, các đối tác tư nhân được phép ký hợp đồng bằng bất kỳ đồng tiền nào mà họ thoả thuận. Một số vùng lãnh thổ như Virgin Islands, Greenland và một số quốc gia độc lập như Panama sử dụng USD hoặc đồng tiền nước khác làm đồng tiền chính thức, trong đó có nước không còn đồng nội tệ, có nước vẫn duy trì đồng nội tệ, nhưng đóng vai trò phụ thuộc. Điển hình là ngày 9/1/2000, Tổng thống Ecuado công bố quyết định lấy USD làm đồng tiền chính thức của nước này. Đến năm 2001 thì có thêm El Salvador công bố chính thức đô-la hoá nền kinh tế. Trên thực tế, các nước này chỉ áp dụng đô-la hoá chính thức sau khi thất bại trong việc thực thi các chính sách ổn định kinh tế. Lợi ích chủ yếu của đôla hoá chính thức là loại trừ rủi ro của việc phá giá tiền tệ. 1.3 Nguyên nhân của tình trạng đô-la hoá Nhìn ở nhiều khía cạnh khác nhau đô-la hoá bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân nhưng có thể nói rằng nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến tình trạng đô-la hoá là nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, giá trị đồng nội tệ giảm liên tục làm mất lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Từ đó người dân có xu hướng chuyển sang những ngoại tệ ổn định, có tính chuyển đổi cao để tiện cho việc giao dịch, cất giữ và tránh rủi ro khi đồng nội tệ bị mất giá. Bên cạnh đó xu thế hiện nay là toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại sẽ là cầu nối các quốc gia với nhau trên lĩnh vực kinh tế - tiền tệ. Vì vậy đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt là ngoại thương. Một khi quan hệ ngoại thương phát triển đòi hỏi phải có một đồng tiền chung để giao dịch. Sẵn với vai trò, vị trí của mình đồng đô-la Mỹ đã đảm nhiệm vai trò đó. Trong quan hệ đối ngoại nhất thiết đòi hỏi mỗi nước phải có một cơ chế quản lý ngoại hối để quản lý và kiểm soát các nguồn thu ngoại tệ nói chung và đồng đô-la Mỹ nói riêng. Khi việc xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối 6 còn chưa hoàn thiện và còn nhiều bất cập thì xu thế tất yếu sẽ xảy ra hiện tượng đô-la hoá. Mặt khác, các quốc gia có nền kinh tế mạnh và phát triển đặc biệt là Mỹ luôn tìm cách để tăng cường và áp đặt sức mạnh kinh tế - chính trị lên toàn thế giới và nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí của đồng tiền nước mình trong hệ thống kinh tế - tiền tệ thế giới. Do đó ảnh hưởng của đô-la Mỹ đối với nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng là điều không thể tránh khỏi. Mức độ đô-la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí, tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ,... Những yếu tố trên ở mức độ càng thấp thì tình trạng đô-la hoá của quốc gia đó càng cao. Đối với Việt Nam, ngoài những yếu tố trên chúng ta cần để cập đến một số nguyên nhân quan trọng khác góp phần gia tăng tình trạng đô-la hoá ở nước ta trong những năm gần đây. Đầu tiên, phải kể đến nguyên nhân mang tính lịch sử đó là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997 – 1998. Mặc dù cuộc khủng hoảng này không tác động trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam, nhưng đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý của người dân Việt Nam. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ngày một tăng nhanh khiến người dân không mấy mặn mà trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VND. Người ta thích dùng đô-la Mỹ không chỉ vì tính ổn định mà còn vì tính gọn nhẹ, tiện lợi của nó. Thêm vào đó nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta ngày càng tăng nhanh, đặc biệt là USD bởi vì chúng ta có rất nhiều nguồn huy động:  Nguồn kiều hối ngày càng có xu hướng tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD, chưa kể 7 đến lượng ngoại hối được chuyển ngoài luồng, ngoại tệ tiền mặt mà Việt kiều mang theo người khi nhập cảnh.  Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng nhanh cùng với lượng du khách quốc tế đến Việt Nam.  Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ.  Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập v.v... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác.  Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước.  Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp đang không ngừng tăng lên trong những năm gần đây.  Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế  Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý được. Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ vào buộc Việt Nam phải đối mặt với tình trạng đô-la hoá nền kinh tế ngày càng trầm trọng. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, xu hướng biến đổi tỷ giá VND/USD là nguyên nhân quan trọng của xu hướng tích trữ 8 và gửi tiền bằng USD. Giai đoạn từ 1999 – 2008 lãi suất tiền gửi bằng USD luôn ở mức cao, thậm chí có lúc lên tới 6,5%/năm. Điều này càng khiến người dân và các doanh nghiệp sử dụng USD nhiều hơn trong việc cất trữ, gửi tiết kiệm. Việc người dân và các doanh nghiệp ưa chuộng USD hơn tiền đồng còn vì tính gọn nhẹ của nó. Đồng tiền Việt Nam mệnh giá còn nhỏ, cao nhất là tờ 500.000 đồng mới được đưa vào lưu thông năm 2003. Trong khi đó tờ 100 USD hiện nay lại có trị giá gần 2 triệu đồng. Bởi vậy trong các giao dịch mang giá trị lớn như mua bán nhà cửa, đất đai, ô tô,... USD vẫn chiếm lợi thế hơn. 1.4 Tác động của tình trạng đô-la hoá đến nền kinh tế Có quan điểm cho rằng đô-la hoá là một căn bệnh hiểm nghèo, cần phải triệt tận gốc, nhưng cũng có ý kiến lại cho rằng đô-la hoá là phương thuốc màu nhiệm đối với các quốc gia đang và chậm phát triển. Cả hai quan điểm này đều chưa hoàn toàn đúng. Bởi vì đô-la hoá có những mặt tích cực nhưng cũng có những mặt tiêu cực. Chúng ta phải nhìn nhận rõ mặt lợi, mặt hại để có hướng phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của tình trạng này đối với nền kinh tế. 1.4.1 Những tác động tích cực của đô-la hoá (i) Việc sử dụng đồng đô-la sẽ tạo cho nền kinh tế một cái “van giảm áp" của những mất cân đối, kết quả của tính không hiệu quả dưới cơ chế kế hoạch hoá tập trung, đồng thời cung cấp cho các tác nhân kinh tế một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và phương tiện để mua hàng hoá trên thị trường phi chính thức cũng như phương tiện thanh toán hiệu quả. Từ những năm 80, USD đã xuất hiện và được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Sau thất bại của "cuộc cải cách" và sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng. Lạm phát không ổn định và gia tăng ở mức cao kéo theo VND cũng bất ổn và mất giá, đánh mất lòng tin của công chúng làm cho đô-la hoá tăng cao. Một 9 mặt, đô-la hoá cao hơn là hậu quả của những yếu kém và mất cân đối kinh tế vĩ mô. Mặt khác, đô-la hoá lại được xem như "một cái van" nhằm giảm áp lực đối với những mất cân đối này. Khi sử dụng USD thay thế cho VND, các cá nhân và tổ chức kinh tế đã hạn chế được rủi ro giảm giá trị tài sản do lạm phát cao và thường xuyên biến động. Ngoài ra, USD được sử dụng công khai như một phương tiện thanh toán hiệu quả trên thị trường tự do, đặc biệt là đối với những động sản cá nhân nhập khẩu có giá trị cao như ôtô, tủ lạnh, máy vi tính và những linh kiện khác. Ở các nước đô-la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này Ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát. Đồng thời ngân sách Nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách sẽ được thắt chặt. Do vậy các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn. (ii) Đô-la hoá tiền gửi giúp ngân hàng có được khoản lớn ngoại tệ để mở rộng các hoạt động đối ngoại, tạo công cụ liên kết thị trường nội địa với thị trường thế giới. Khi đó, ngân hàng sẽ có thêm điều kiện thuận lợi để thực hiện cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế, như thế sẽ hạn chế được vay nợ nước ngoài và cũng tăng được tầm kiểm soát luồng ngoại tệ của NHTW. Nếu các NHTM không huy động được vốn ngoại tệ sẽ gây khó khăn cho các đề án hiện thời đòi hỏi vốn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, nguyên liệu đầu vào chiến lược . Khi vay vốn ngoại tệ từ các NHTM trong nước, lãi suất tương đối thấp (bằng lãi suất SIBOR 6 tháng cộng chênh lệch 0,8 - 1,2%/ năm).① ① Tạp chí Kinh Tế, số 78, năm 2005 10 Sở dĩ NHTM có thể cho vay với lãi suất thấp như vậy là vì nó có khả năng huy động vốn ngoại tệ lãi suất thấp trong dân cư. Nếu các NHTM không huy động được vì xét thấy không thuận lợi thì chắc chắn các đề án trên sẽ phải chịu lãi suất cao hơn. Lý do là các ngân hàng sẽ phải vay vốn từ nước ngoài. Nếu không thì các doanh nghiệp cũng phải trực tiếp đi vay. Trong cả hai trường hợp, doanh nghiệp sẽ phải chịu mức lãi suất ít nhất là bằng lãi suất SIBOR cộng với 1,8 - 2%/năm. Từ tháng 11/2000, quy định tín dụng đã mở rộng đối tượng được vay vốn ngoại tệ hỗ trợ cho việc nhập khẩu còn có các dự án đầu tư được phê duyệt, dự án sản xuất, giao dịch phục vụ cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đi lao động ở nước ngoài,...Việc mở rộng đối tượng khách hàng tạo điều kiện thuận lợi để tăng các khoản vay ngoại tệ. Tỷ lệ vay vốn ngoại tệ tăng từ 16,1% năm 1999 lên 21% năm 2001.① Như vậy, việc huy động vốn ngoại tệ cho phép mở rộng tín dụng cho nền kinh tế, giảm được rủi ro tỷ giá và phí tổn lãi suất, điều quan trọng hơn là giảm được sự lệ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài. (iii) Đô-la hoá cũng giúp giảm các chi phí giao dịch và mức độ mở cửa sẽ lớn hơn. Vì sử dụng USD trong thanh toán những giao dịch nhất định, chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán trong việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác giảm đáng kể. Những chi phí nhằm chống lại rủi ro tỷ giá cũng được giảm. Điều này giúp giảm tổng chi phí nói chung, từ đó thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và bên ngoài. Ví dụ như, thông qua việc chấp nhận USD, Việt Nam có thể giảm được lượng lớn chi phí giao dịch với Nhật Bản hay các quốc gia Châu Á khác vì một bộ phận nhất định của quy trình chuyển đổi từ VND sang USD và ngược lại được loại ① Tạp chí Ngân Hàng, số 5/2004 11 bỏ. Kết quả cho thấy thương mại của Việt Nam liên tục tăng trưởng trong giai đoạn gần đây. Đô-la hoá góp phần thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô-la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô-la hoá chính thức có thể được hưởng chênh lệch lãi suất đối với các khoản vay nợ nước ngoài thấp hơn, nhờ đó sẽ giảm chi ngân sách nhà nước, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Cuối cùng, khi một quốc gia đô-la hoá ở mức độ sâu rộng sẽ rút ngắn chênh lệch giữa tỷ giá thị trường ngoại hối chính thức và thị trường ngoại hối phi chính thức (thị trường chợ đen). Khi tỷ giá trên hai thị trường này sát nhau thì sẽ tạo động cơ để các hoạt động trên thị trường chợ đen (thị trường bất hợp pháp) chuyển sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). Điều này giúp Nhà nước và các cơ quan chức năng dễ dàng hơn trong việc kiểm soát, quản lý các hoạt động diễn ra trên thị trường. 1.4.2 Những tác động tiêu cực của đô-la hoá Bên cạnh một số tác động tích cực trên, hiện tượng đô-la hoá còn mang lại nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế. (i) Thách thức lớn nhất của đô-la hoá liên quan đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng và sự quản lý thận trọng. Hạn chế vai trò "cứu cánh cho vay cuối cùng" của NHTW. Đô-la hoá có thể làm tăng tính dễ bị tổn thương của hệ thống ngân hàng, xuất phát từ sự bất tương xứng giữa khoản tiền gửi và hoạt động cho vay, và từ rủi ro tín dụng và hối đoái. Khoản ngoại tệ cho vay khó đòi trên tổng vốn cho vay đã xấp xỉ 2 lần chỉ tiêu này đối với tiền đồng. Nhất là đối với NHTM quốc doanh, những biến động tiềm ẩn của FCDs có thể làm tăng tính nan giải của bài toán tính lỏng và việc tái xuất hiện yêu cầu dự trữ chính thức của Việt Nam. Khoản bảo đảm cho FCDs bằng tổng dự 12 trữ chính thức thực sự đã giảm trong hơn 5 năm qua từ hơn 140% vào cuối năm 1996 xuống 60% vào cuối tháng 8/2001.① Trong trường hợp tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ của dân cư cao như hiện nay, ngân hàng sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong việc cân đối vốn khi có những biến động bất ngờ làm người dân đổ xô đi rút USD hoặc chuyển sang VND trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn. Do đó, để giải quyết vấn đề cân đối vốn, nó cần phải vay mượn và đương nhiên khả năng thanh toán của ngân hàng phụ thuộc khả năng vay mượn này. Hơn nữa, nó cần phải tính đến rủi ro lãi suất tức là lãi suất này có thể cao hơn lãi suất mà ngân hàng đã cam kết cho vay dài hạn. Ngoài ra, vốn tự có của ngân hàng Việt Nam còn ở mức thấp. Tuy nhiên mọi người tin tưởng vào sự an toàn của khoản tiền gửi tại ngân hàng vì có sự bảo lãnh ngầm của NHNN đối với các khoản vay này. Sự bảo đảm này chỉ có thể thực hiện được đối với VND còn USD thì không. Không có khả năng phát hành USD, NHTW không thể thực hiện chức năng "người cho vay cuối cùng" khi hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn. Rõ ràng một khi chức năng "người cho vay cuối cùng" bị vô hiệu, khu vực ngân hàng càng trở nên dễ bị tổn thương hơn khi ngân hàng ngừng kinh doanh hay phá sản. (ii) Đô-la hoá làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ của NHTW. Đô-la hoá không chính thức ở Việt Nam làm cho nhu cầu nội tệ không ổn định và dễ nhạy cảm hơn với những thay đổi từ bên ngoài. Một khi mọi người giữ lượng lớn tiền gửi ngoại tệ, lãi suất trong nước hay quốc tế thay đổi có thể gây ra chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác tạo nên khó khăn cho NHTW trong việc dự đoán tổng phương tiện thanh toán, dẫn đến không đưa ra được những quyết định kịp thời và chính xác về việc tăng ① Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tintapchi.jsp?tin=305 13 hoặc giảm cung tiền. Kết quả là chính sách tiền tệ bị phụ thuộc và bị ảnh hưởng lớn bởi những thay đổi từ bên ngoài. Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ không được độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế. Hệ thống ngân hàng tổ chức rộng rãi việc huy động USD dưới mọi hình thức, cạnh tranh nhau đưa lãi suất huy động hấp dẫn với người gửi, đồng thời sử dụng USD để cấp tín dụng cho các doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với SIBOR, LIBOR. Còn SIBOR hoặc LIBOR lại do chính sách tiền tệ của Mỹ quyết định. Thêm vào đó, một khoản tiền gửi ngoại tệ là một bộ phận của M2 nhưng có nhiều nhân tố tác động tới tiền gửi ngoại tệ mà NHNN không thể kiểm soát được hết các nhân tố này. Vì lẽ đó, trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ, mục tiêu trung gian của M2 sẽ bị bóp méo, sai lệch. Thứ nhất, vì nó chịu ảnh hưởng của cán cân thanh toán quốc tế: cán cân thanh toán của Việt Nam thặng dư/thâm hụt dẫn đến vốn USD chảy vào/chảy ra và tăng/giảm tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam. Ngoài ra, chiến lược huy động vốn của NHTM, danh mục đầu tư của các doanh nghiệp và hành vi tiết kiệm của hộ gia đình đều thay đổi. Tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp thì có thể dự đoán được thông qua chính sách kết hối ngoại tệ①. Tuy nhiên NHTW khó có thể đoán trước được thay đổi trong hành vi tiết kiệm của hộ gia đình. Do đó, sự dao động thất thường của FCDs nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN. (iii) Đô-la hoá trên thị trường tự do càng tăng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động càng kém sôi động, gây ảnh hưởng đến sự cân đối cung cầu ngoại tệ. ① Là quy định của Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ phải bán lại một phần hoặc toàn bộ cho ngân hàng. 14 Thị trường ngoại hối chủ yếu là mua bán ngoại tệ. Nhưng đô-la hoá làm cho lượng ngoại tệ bị sức hút vào cất giữ trên các tài khoản của NHTM. Lượng ngoại tệ này cũng là vốn khả dụng mà chủ sở hữu là người gửi tiền nên ngân hàng không thể đưa ra thị trường liên ngân hàng để mua bán. Mặt khác, các NHTM lại cho vay trực tiếp bằng ngoại tệ, rất ít liên quan đến thị trường mua bán ngoại tệ. Chính vì vậy mà thị trường ngoại hối không có sự hoạt động nhộn nhịp. Ngoài ra đô-la hoá còn làm cho thị trường này rất dễ rơi vào trạng thái mất cân bằng (thường là khan hiếm ngoại tệ). Điều đó cho thấy sự bất hợp lý trong luân chuyển ngoại tệ. Đô-la hoá ngoài hệ thống ngân hàng cũng đồng nghĩa với việc nguồn ngoại tệ bị phân tán, không tập trung qua hệ thống ngân hàng để đáp ứng cho nền kinh tế. Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, cung cầu ngoại tệ không khó khăn nhưng do đô-la hoá làm cho hiện tượng căng thẳng ngoại tệ diễn ra khá phổ biến. Do ngoại tệ trên thị trường khan hiếm, các ngân hàng chưa có đủ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp nên cũng không có dư để bán trên thị trường. Khi cầu ngoại tệ tăng mạnh mà cung ngoại tệ lại không tăng thì thị trường ngoại hối sẽ trở nên căng thẳng. Theo số liệu thống kê năm 2000 về xuất nhập khẩu, kiều hối, nguồn phi thương mại,... chiếm khối lượng lớn thì cán cân vãng lai của Việt Nam thặng dư. Tuy nhiên căng thẳng ngoại tệ vẫn tiếp tục kéo dài. Nguyên nhân là do bộ phận dân cư nhận được kiều hối thì muốn rút USD tiền mặt rồi bán trên thị trường tự do mà không bán cho ngân hàng, vì tỷ giá ở thị trường tự do vẫn hấp dẫn hơn. Nguồn thu ngoại tệ của hệ thống doanh nghiệp cũng chiếm tỷ trọng lớn nhưng các doanh nghiệp cũng không bán cho ngân hàng nên các ngân hàng cũng khan hiếm ngoại tệ, nên khó đáp ứng cho nhu cầu mua ngoại tệ của các đơn vị khác. Còn nguồn thu ngoại tệ của Nhà nước phần lớn là từ việc bán dầu thô nhưng lại tập trung vào Bộ Tài chính, sau đó Bộ Tài chính mới bán lại một phần cho NHNN để bán cho NHTM phục vụ nhập khẩu xăng 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan