BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM
----***----
NGUYỄN THỊ HOÀNG OANH
NGHIÊN CỨU SỰ TRUYỀN DẪN LÃI
SUẤT VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
Ở THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM
----***----
NGUYỄN THỊ HOÀNG OANH
NGHIÊN CỨU SỰ TRUYỀN DẪN LÃI
SUẤT VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
Ở THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số: 60.34.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi nghiên cứu và thực hiện.
Các số liệu và thông tin sử dụng trong luận văn này đều có nguồn gốc trung
thực và được phép công bố.
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2014
Nguyễn Thị Hoàng Oanh
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN CAM ĐOAN
Họ tên học viên: Nguyễn Thị Hoàng Oanh
Ngày sinh:
04/01/1982
Nơi sinh: Long An
Trúng tuyển đầu vào năm: 2010
Là tác giả của đề tài luận văn: Nghiên cứu sự truyền dẫn lãi suất và những yếu tố ảnh
hưởng ở thị trường Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
Ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã ngành: 60.34.02.01
Bảo vệ luận văn ngày 29 tháng 04 năm 2014
Điểm bảo vệ luận văn: 5 điểm
Tôi cam đoan đã chỉnh sửa nội dung luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài trên, theo
góp ý của Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ.
Người cam đoan
(Ký và ghi rõ họ tên)
TP. Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 05 năm 2014
Chủ tịch Hội đồng chấm luận văn
(Ký và ghi rõ họ tên)
Hội đồng chấm luận văn 05 (năm) thành viên gồm:
Chủ tịch:
PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt
Phản biện 1: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Phản biện 2: TS. Phạm Quốc Việt
Thư ký:
TS. Trần Thị Hải Lý
Ủy viên:
TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
MỤC LỤC
---o0o--DANH MỤC BẢNG BIỂU.................................................................................. i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................... ii
Tóm tắt (abstract)................................................................................................ 1
1. Giới thiệu (Introdution)................................................................................... 2
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây (literature review) ................. 6
2.1. Cơ chế truyền dẫn lãi suất.......................................................................... 6
2.2. Thực nghiệm về sự điều chỉnh của lãi suất bán lẻ ở một số khu vực điển
hình ....................................................................................................................... 9
2.3. Những đặc điểm của các ngân hàng gắn liền với sự truyền dẫn lãi suất...... 10
3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu (Methodology and data) ......................13
3.1. Dữ liệu nghiên cứu ....................................................................................13
3.2. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................14
3.3. Quá trình xử lý và nhận xét dữ liệu............................................................18
3.3.1. Kiểm định tính dừng – kiểm định nghiệm đơn vị (unit root test)........19
3.3.2. Đồng liên kết.....................................................................................20
4. Kết quả thực nghiệm (Empirical Results) ......................................................21
4.1. Truyền dẫn lãi suất ở Việt Nam .................................................................21
4.1.1. Sự tương quan giữa lãi suất liên ngân hàng với các loại lãi suất tiền
gửi.........................................................................................................................21
4.1.2. Mức độ truyền dẫn ngắn hạn (trực tiếp) của lãi suất thị trường tiền tệ
vào lãi suất tiền gửi...............................................................................................24
4.2. Các yếu tố từ phía các ngân hàng ảnh hưởng đến mức độ truyền dẫn lãi
suất ở Việt Nam ...............................................................................................26
4.2.1. Sự khác biệt trong hành vi thiết lập lãi suất bán lẻ của từng ngân
hàng ......................................................................................................................26
4.2.2. Xác định những yếu tố tác động đến quyết định của các ngân hàng
trong việc thiết lập lãi suất bán lẻ...........................................................................29
4.2.2.1. Dữ liệu – các biến đưa vào mô hình ..........................................29
4.2.2.2. Mô hình hồi quy và kết quả.......................................................33
5. Kết luận (Conclution) ......................................................................................36
Tài liệu tham khảo...............................................................................................38
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng
Trang
Bảng 1: Thống kê mô tả số liệu lãi suất tiền gửi của các ngân hàng Việt
Nam giai đoạn T1/2011-T6/2013 (%/năm):.................................................. 19
Bảng 2: Kết quả kiểm định tính dừng:................................................. 20
Bảng 3: Kết quả kiểm định đồng liên kết-kiểm định Pedroni: ............. 21
Bảng 4: Kết quả ước lượng FMOLS-mức độ tác động của lãi suất thị
trường đến lãi suất tiền gửi các kỳ hạn: ........................................................ 22
Bảng 5: Ước lượng sai số và độ trễ trung bình của quá trình điều chỉnh
lãi suất:......................................................................................................... 25
Bảng 6: Kết quả của sự không đồng nhất về mức độ truyền dẫn ngắn và
dài hạn giữa các ngân hàng: ......................................................................... 28
Bảng 7: Thống kê mô tả dữ liệu các ngân hàng:.................................. 32
Bảng 8: Kì vọng các biến trong mô hình đối với lãi suất tiền gửi: ....... 33
Bảng 9: Kết quả hồi quy các yếu tố quyết định tính không đồng nhất
trong truyền dẫn lãi suất tiền gửi giữa các ngân hàng: .................................. 34
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ECM (Error Correction Model) : Mô hình hiệu chỉnh sai số
FMOLS (Fully modified least square): Kỹ thuật bình phương bé nhất đã
được hiệu chỉnh hoàn toàn.
NHTM
: Ngân hàng thương mại
NHTƯ
: Ngân hàng trung ương
ROE (Return on Equity)
: Chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
ROA (Return on Asset)
: Chỉ số lợi nhuận trên tài sản
ii
Tóm tắt (abstract)
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích cung cấp những hiểu
biết sâu sắc hơn về kênh truyền dẫn lãi suất ở Việt Nam. Bằng việc sử dụng
mô hình ECM và FMOLS nhằm định lượng mức độ truyền dẫn giữa cặp lãi
suất thị trường và lãi suất bán lẻ (cụ thể là giữa cặp lãi suất liên ngân hàng và
lãi suất tiền gửi) và xem xét những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự truyền dẫn
lãi suất này, ví dụ: tỷ lệ vốn, tính thanh khoản, tốc độ tăng trưởng, ROE,
ROA,… của ngân hàng.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy sự truyền dẫn lãi suất ở Việt Nam là
không hoàn toàn cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Nhờ sự tách biệt nghiên cứu
từng sản phẩm tiền gửi, tác giả đã thu được những kết quả bất ngờ khi đem so
sánh với kết quả của những nghiên cứu trước đây. Đối với sản phẩm tiền gửi
dành cho khách hàng cá nhân có mức độ truyền dẫn khá cao từ 30 – 85% trên
từng kỳ hạn khác nhau. Trong khi đó, đối với sản phẩm tiền gửi dành cho
khách hàng doanh nghiệp thì mức độ truyền dẫn thấp hơn từ 16 – 50%. Các
kết quả nghiên cứu này cũng phần nào phù hợp với hiện trạng của một hệ
thống tài chính còn chưa phát triển và tồn tại nhiều bất cập như Việt Nam. Từ
những phát hiện nêu trên, tác giả tiếp tục tiến hành một nghiên cứu nhỏ, nhằm
xác định xem yếu tố nào khiến các ngân hàng có những hành vi thiết lập lãi
suất khác nhau trước sự biến động của thị trường tiền tệ. Kết quả chỉ ra rằng,
sự đa dạng hóa đầu tư, cấu trúc vốn, tốc độ tăng trưởng và lợi nhuận trên vốn
cổ phần đã tác động đến những quyết định của các ngân hàng và ảnh hưởng
đến quá trình truyền truyền dẫn cũng như ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách
tiền tệ của Nhà nước.
1
1. Giới thiệu (Introdution):
Kể từ giữa những năm 1970, sự phát triển của chính sách tiền tệ ở hầu
hết các quốc gia đã có một sự ổn định trong cơ chế thị trường. Trong thực tế,
điều này có nghĩa là loại bỏ sự điều khiển trực tiếp, giảm yêu cầu dự trữ, ngày
càng nhấn mạnh lãi suất như là một mục tiêu điều hành (xem BIS năm 1997,
một cuộc khảo sát của chính sách tiền tệ "chiến thuật"; và Borio năm 1997,
một cuộc khảo sát quy trình hoạt động của ngân hàng trung ương).
Christiano và các cộng sự (1996), dựa trên nghiên cứu của họ về nền
kinh tế Mỹ, cho rằng những tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực kinh
tế mất khoảng thời gian trung bình là 4 tháng và tác động của chúng có thể
kéo dài đến 2 năm, phát hiện này cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của
Romer (1989). Mặc dù có nhiều kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ nhưng
nhìn chung có sáu kênh như sau: (1) kênh lãi suất, (2) kênh tín dụng, (3) kênh
cân đối kế toán, (4) kênh giá tài sản, (5) kênh tỷ giá hối đoái; và kênh kỳ vọng
(6).
Trong số tất cả các kênh, kênh lãi suất có vẻ là quan trọng nhất. Tại các
nước phát triển ví dụ ở khu vực các nước đồng euro, SMETS và Wouters
(2002) tìm thấy rằng cú sốc chính sách tiền tệ thông qua các kênh lãi suất ảnh
hưởng đến sản lượng thực tế, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư. Angeloni et
al.(2003) sử dụng nhiều phương pháp phân tích thực nghiệm khác nhau, trong
đó có mô hình VAR để kiểm tra giả thuyết ban đầu rằng kênh lãi suất chiếm
ưu thế trong chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến GDP và lạm phát. Kết quả là
tác giả cũng phát hiện kênh lãi suất là kênh hoàn toàn chiếm ưu thế trong
truyền dẫn ở một số nước khu vực đồng Euro, và là một kênh quan trọng
trong hầu hết tất cả các nước đó. Cụ thể, kênh lãi suất là kênh quan trọng ở
nước Phần Lan và Thụy Điển, những nước còn lại như Ý, Pháp, Đức, Áo, Hà
Lan thì kênh lãi suất vần chiếm ưu thế và còn có các kênh khác.
2
Tại các nước đang phát triển và nền kinh tế mới nổi như là ở Thái Lan,
sử dụng mô hình VAR, Disyatat và Vongsinsirikul (2003) đã phát hiện rằng
ngoài kênh lãi suất truyền thống, các ngân hàng cũng đóng một vai trò quan
trọng trong cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ, trong khi tỷ giá hối đoái và
các kênh giá tài sản tương đối ít quan trọng hơn. Tại SriLanka, Amarasekara
(2008), dựa trên mô hình VAR dạng đệ qui và cấu trúc, nghiên cứu này phân
tích ảnh hưởng cúa lãi suất, tăng trưởng cung tiền và sự thay đổi tỷ giá đến
tăng trưởng GDP thực và lạm phát trong giai đoạn 1978 đến 2005. Kết quả
tìm thấy kênh lãi suất thì quan trọng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ.
Acosta-Ormaechea và Coble (2011) so sánh việc truyền dẫn chính sách tiền tệ
tại các nền kinh tế đô la hóa và không đô la hóa đã tìm thấy rằng kênh lãi suất
truyền thống đóng vai trò quan trọng ở Chile và New Zealand trong khi kênh
tỷ giá hối đoái đóng vai trò đáng kể trong việc kiểm soát áp lực lạm phát ở
Peru và Uruguay.
Theo nghiên cứu của Isakova (2008), kênh lãi suất đại diện cho một
kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ quan trọng và các kênh khác có liên quan
đến hiệu quả của nó. Cơ quan tiền tệ ấn định lãi suất chính sách và từ đó nó
ảnh hưởng ngắn hạn đến lãi suất thị trường tiền tệ (lãi suất liên ngân hàng),
kéo theo ảnh hưởng đến lãi suất thị trường tiền tệ dài hạn và lãi suất bán lẻ
ngân hàng,… Borio và Fritz (1995) lập luận rằng “lãi suất cho vay ngân hàng
là một chìa khóa, giải thích cho chi phí biên của việc tài trợ ngắn hạn trong
một nền kinh tế”. Hộ gia đình và các công ty tạo ra các khoản vay ngân hàng
để tài trợ cho chi tiêu dùng và đầu tư. Do đó, “giá của các khoản vay ngân
hàng” (bao gồm các chi phí liên quan đến khoản vay kể cả tiền lãi) là rất quan
trọng trong việc xác định nhu cầu cuối cùng và do đó tác động đến lạm phát
của một nền kinh tế. Tuy nhiên, không chỉ lãi suất cho vay ngân hàng mà còn
lãi suất tiền gửi ngân hàng cũng rất quan trọng, vì chúng ảnh hưởng đến tiết
kiệm so với tiêu dùng (tiết kiệm so với đầu tư) quyết định của các tác nhân
kinh tế.
3
Ngoài ra, mối quan hệ nhân quả một chiều đáng kể đã được tìm thấy từ
chính sách lãi suất đến lạm phát, sản lượng và các đo lường khác nhau của
thanh khoản ngoại trừ tiền (M3), nhấn mạnh tầm quan trọng của lãi suất như
một công cụ chính sách tiền tệ mạnh.
Chính sách tiền tệ là công cụ chủ yếu để điều tiết nền kinh tế vĩ mô tại
hầu hết các nước công nghiệp. Khi chính sách tiền tệ cần được thắt chặt (hoặc
nới lỏng), ngân hàng trung ương hoặc cơ quan có thẩm quyền tiền tệ sẽ tăng
(hoặc giảm) lãi suất chính thức, ngân hàng và các tổ chức tài chính khác sẽ
theo đó tăng (hoặc giảm) lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Đối mặt với chi
phí tài trợ cao hơn (hay thấp hơn), người tiêu dùng và các công ty sẽ điều
chỉnh tiêu dùng và chi tiêu của họ cho phù hợp, từ đó ảnh hưởng đến sản
lượng và lạm phát. Do đó, hiệu quả của chính sách tiền tệ phụ thuộc vào tốc
độ và mức độ các tổ chức tài chính truyền dẫn những thay đổi trong lãi suất
chính thức tới khách hàng của họ.
Từ những nhận định trên, việc nghiên cứu và định lượng mức độ truyền
dẫn lãi suất sẽ đưa ra một cái nhìn rõ nét hơn về kênh truyền dẫn này. Trong
khi có nhiều nghiên cứu về sự truyền dẫn của chính sách tiền tệ thì sự truyền
dẫn của lãi suất bán lẻ dường như chưa được tìm hiểu, ít nhất là cho đến gần
đây. Hầu hết các nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ giả định
rằng sự thay đổi của lãi suất chính thức truyền dẫn ngay lập tức và hoàn toàn
đến lãi suất bán lẻ ngân hàng. (ví dụ như: Bernanke và Gertler, 1995;
Kashyap và Stein, 2000; Altunbas, 2002). Gần đây, một số nghiên cứu dữ liệu
trên phạm vi từng quốc gia cũng đã được thực hiện. Rất nhiều kết quả nghiên
cứu khác nhau đã được đưa ra, nguyên nhân là do dữ liệu được sử dụng từ
nhiều nguồn khác nhau và với các khoảng thời gian khác nhau. Kết quả đáng
chú ý là cho thấy sự truyền dẫn có thể là không hoàn toàn và tốc độ điều
chỉnh có thể bị chậm lại. Mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh cũng khác
nhau giữa các định chế tài chính và sản phẩm tài chính khác nhau, cho thấy
4
rằng tốc độ của sự truyền dẫn tiền tệ khác nhau giữa các phân khúc khách
hàng khác nhau của khu vực ngân hàng. Hơn nữa, một số nghiên cứu cũng
tìm thấy rằng tốc độ điều chỉnh là khác nhau tùy thuộc vào lãi suất cao hơn
hay thấp hơn mức cân bằng dài hạn. (Chong và các cộng sự, 2005; Kleimeier
và Sander, 2005).
Bài luận văn này sẽ cố gắng cung cấp một số bằng chứng về việc truyền
dẫn chính sách tiền tệ trong nền kinh tế Việt Nam bằng cách đo lường mức độ
điều chỉnh lãi suất bán lẻ (lãi suất tiền gửi) đối với sự thay đổi trong lãi suất
thị trường tiền tệ (lãi suất liên ngân hàng) bằng mô hình hiệu chỉnh sai số
(ECM - Error Correction Model). Và nghiên cứu xem liệu có sự truyền dẫn
không đồng nhất giữa các sản phẩm khác nhau của ngân hàng hay không.
Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu kiến thức nền về các yếu tố tác động
đến sự truyền dẫn lãi suất. Có thể kể đến nhiều yếu tố, nhưng ở đây tập trung
vào các yếu tố đến từ phía các NHTM như: quy mô, thị phần, khả năng thanh
khoản, cấu trúc tài chính ngân hàng,…
Tóm lại, luận văn này có hai mục tiêu chính:
Thứ nhất, kiểm tra mức độ truyền dẫn trong ngắn và dài hạn từ lãi suất
thị trường tiền tệ đến lãi suất bán lẻ, cụ thể là lãi suất tiền gửi của các NHTM
Việt Nam.
Thứ hai, tiến hành nghiên cứu các yếu tố từ phía các NHTM ảnh hưởng
như thế nào đến mức độ truyền dẫn lãi suất.
Phần tiếp theo sẽ tóm tắt tổng quan các tài liệu có liên quan. Phần 3 mô
tả dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. Phần 4 báo cáo và phân tích các kết
quả kinh tế và phần 5 là kết luận.
5
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây (literature review)
2.1. Cơ chế truyền dẫn lãi suất
Theo Mishkin (1996), chính sách tiền tệ đóng một vai trò rất quan trọng
trong việc ổn định tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. NHTƯ của các
nước đã theo đuổi chính sách tăng lãi suất để làm giảm sự tăng lên của lạm
phát mà xuất phát từ tăng trưởng nóng của nền kinh tế. Để thành công, các
nhà làm chính sách phải đánh giá chính xác thời gian và độ trễ của chính
sách. Điều này đòi hỏi phải hiểu rõ cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ. Một
là kênh truyền dẫn giá cả tài sản bao gồm lãi suất, tỉ giá hối đoái và giá cả vốn
cổ phần. Hai là kênh tín dụng bao gồm cho vay ngân hàng và bảng cân đối kế
toán. Cũng theo Mishkin (2006), kênh truyền dẫn quan trọng nhất của chính
sách tiền tệ là lãi suất. Khi chính sách tiền tệ mở rộng (ví dụ tăng cung tiền)
thì sẽ làm cho lãi suất thực giảm thông qua hiệu ứng thanh khoản, giảm chi
phí vốn, khuyến khích đầu tư, chi tiêu và tiêu dùng. Kết quả làm tăng tổng
cầu của nền kinh tế. Khi lãi suất chính sách giảm, lãi suất thị trường ngắn hạn
sẽ điều chỉnh giảm, cuối cùng tác động lên lãi suất huy động và lãi suất cho
vay giảm theo. Kết quả là chi phí cơ hội của đầu tư và tiêu dùng thấp hơn, tạo
điều kiện cho nhu cầu nội địa gia tăng, nền kinh tế phát triển với tốc độ cao
hơn và đồng thời phải gánh chịu áp lực lạm phát.
Bên cạnh đó, John Brian Taylor lần đầu tiên công bố nghiên cứu của
mình vào năm 1993 cũng đưa ra một nguyên tắc làm tiền đề cho các nghiên
cứu về truyền dẫn lãi suất sau này, đó chính là nguyên tắc Taylor. Nguyên tắc
này là một hàm phản ứng liên kết sự biến động trong lãi suất danh nghĩa với
sự biến động trong các biến nội sinh. Bằng cách ước lượng một mô hình đơn
giản về hàm phản ứng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), Taylor đã giúp
một NHTƯ xác định lãi suất danh nghĩa trong ngắn hạn khi điều kiện kinh tế
thay đổi để đạt được hai mục tiêu là ổn định kinh tế trong ngắn hạn và kiểm
soát lạm phát trong dài hạn.
6
Theo Paula Antão (2009), sự truyền dẫn lãi suất thị trường đến lãi suất
cho vay và lãi suất tiền gửi là không hoàn toàn, trong dài hạn những thay đổi
trong lãi suất thị trường tiền tệ được truyền dẫn hoàn toàn đến lãi suất cho
vay, quá trình truyền dẫn đến lãi suất cho vay thường nhanh hơn, và sự truyền
dẫn đến lãi suất bán lẻ khác nhau đối với những ngân hàng khác nhau.
Lãi suất thị trường
Lãi suất chính sách
Lãi suất bán lẻ
Hình 1. Cơ chế truyền dẫn lãi suất
Nguồn: Ming-Hua Liu, Dimitri Margaritis, Alireza Tourani-Rad (2008)
Ở luận văn này, chúng ta chỉ nghiên cứu sự truyền dẫn lãi suất từ lãi
suất thị trường sang lãi suất bán lẻ. Việc nghiên cứu giai đoạn này có ý nghĩa
rất lớn trong việc xem xét trực tiếp thị trường tiền tệ Việt Nam. Các tài liệu về
truyền dẫn đến lãi suất bán lẻ phân biệt giữa “chi phí các khoản cho vay” và
“tiếp cận chính sách tiền tệ” (Sander và Kleimeier, 2004). Nghĩa là các ngân
hàng phải đối mặt với chi phí phát sinh của mình để định ra lãi suất cho vay,
đồng thời cũng phải dựa trên những qui định của Ngân hàng Nhà nước. Các
nghiên cứu về chi phí của các khoản cho vay (De Bondt, 2005) tập trung vào
“quyết định thiết lập giá (lãi suất)” của các ngân hàng. Như mô tả bởi Kapwil
và Scharler (2006), chi phí chủ yếu là chi phí cơ hội phát sinh và chi phí tài
chính mà ngân hàng phải chi ra khi huy động vốn. Chi phí là cách tốt nhất để
mô tả những thay đổi trong thị trường ảnh hưởng như thế nào đến tiền gửi
ngân hàng và lãi suất cho vay. Còn những nghiên cứu về cách các ngân hàng
tiếp cận với chính sách tiền tệ đều đưa ra những bằng chứng đảm bảo rằng lãi
suất chính sách tác động đến lãi suất thị trường và được truyền dẫn lên lãi suất
bán lẻ.
Mối liên hệ giữa lãi suất thị trường và lãi suất tiền gửi được bảo đảm
bởi khả năng các hộ gia đình và các công ty phi tài chính có thể nắm giữ các
tài sản tài chính của họ không chỉ ở tiền gửi ngân hàng, mà còn trong các trái
7
phiếu chính phủ ở các kỳ hạn thanh toán (Kapwil và Scharler, 2006). Ngoài
ra, các ngân hàng có thể dựa vào thị trường tiền tệ để huy động cho các quỹ
cho vay, kết quả là có thể dẫn đến một sự cân bằng lãi suất thị trường và lãi
suất huy động.
Lý do cho truyền dẫn lãi suất không đầy đủ:
Một trong những cách giải thích là hạn chế truyền dẫn có thể được
hiểu như là một hợp đồng ngầm giữa ngân hàng và khách hàng của mình, mà
phát sinh như là một hệ quả của mối quan hệ lâu dài (Berger và Udell, 1992;
Allen và Gale, 2004).
Hơn nữa, giới hạn truyền dẫn lãi suất cũng có thể là hậu quả của chi
phí điều chỉnh (ví dụ như Hannan và Berger, 1991; Hofmann và Mizen,
2004), như chi phí lao động, chi phí cạnh tranh và chi phí truyền tải thông tin.
Hannan và Berger (1991) kiểm tra xem sự cứng nhắc lãi suất là khác
nhau khi lãi suất tăng hoặc giảm. Như vậy, lãi suất tiền gửi sẽ cứng nhắc hơn
một cách tương đối khi gia tăng.
Một số tác giả cũng cho rằng cấu trúc tài chính của nền kinh tế có
thể ảnh hưởng đến cơ chế lan truyền tiền tệ (Mojon, 2000; Dabla Norris và
Floerkemeier, 2006).
Một cách giải thích khác cho giới hạn của sự truyền dẫn lãi suất bán
lẻ có liên quan đến sự bất cân xứng thông tin và rủi ro đạo đức. Kapwil và
Scharler (2006) lập luận rằng các ngân hàng có động cơ không tăng lãi suất
quá nhiều, bởi vì người đi vay, những người mà chấp nhận một lãi suất cao
hơn có thể có chất lượng kém. Nếu khách hàng vay một khoản vay ở mức lãi
suất cao, họ có nhiều khả năng để lựa chọn các dự án rủi ro, giảm giá trị kỳ
vọng của số tiền thu hồi.
8
2.2. Thực nghiệm về sự điều chỉnh của lãi suất bán lẻ ở một số khu vực
điển hình:
Thực nghiệm cho thấy lãi suất bán lẻ điều chỉnh thấp hơn so với một
sự thay đổi của lãi suất chính sách (theo De Bondt, 2005; Ehrmann và cộng
sự, 2003).
Nghiên cứu về tính cứng nhắc của lãi suất bán lẻ (bao gồm lãi suất cho
vay và lãi suất tiền gửi), Hannan và Berger (1991) và Neuman và Sharpe
(1992), Mojon (2000), Chong và các cộng sự (2005), Harald Sander, Stefanie
Kleimeier (3/2006), Claudia Kwail and Johann Scharler (1/2007) đã xem xét
về sự điều chỉnh của lãi suất bán lẻ. Kết quả nghiên cứu chứng minh rằng có
một sự điều chỉnh bất cân xứng trong lãi suất tiền gửi, khi lãi suất thị trường
tiền tệ tăng lên thì các ngân hàng điều chỉnh lãi suất tiền gửi tăng lên chậm
hơn so với khi điều chỉnh giảm xuống. Mizen và Hofmann (2002) thì nhận
thấy rằng có sự truyền dẫn hoàn toàn từ lãi suất chính thức (lãi suất cơ bản)
đến lãi suất tiền gửi. Marco và Alessandro (2003) đưa ra kết quả nghiên cứu là
có sự truyền dẫn hoàn toàn và ngay lập tức từ lãi suất thị trường đến lãi suất
bán lẻ ngân hàng ở nước Mỹ.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy sự tồn tại bất đối xứng của sự truyền
dẫn lãi suất trong ngắn hạn và cả dài hạn (theo Mojon, 2000; Mizen và
Hofmann, 2002). Theo Sophia Mueller-Spahn (10/2008) sự truyền dẫn từ lãi
suất thị trường vào lãi suất bán lẻ ở Đức trong dài hạn là không hoàn toàn,
nhưng sự truyền dẫn trong ngắn hạn thì ở mức độ nhiều hơn, đặc biệt là đối
với lãi suất tiền gửi. Mizen và Hofmann (2002) thì phân tích về sự tồn tại bất
đối xứng của sự truyền dẫn trong dài hạn từ lãi suất cơ bản đến lãi suất bán lẻ.
9
2.3. Những đặc điểm của các ngân hàng gắn liền với sự truyền dẫn
lãi suất.
Hầu hết các nghiên cứu đều thấy rằng lãi suất bán lẻ có tính trễ và
mang vẻ kháng cự (sticky- Stick theory: Thuyết về sức kháng cự với sự thay
đổi), tức là khi Cơ quan tiền tệ thay đổi tỷ lệ lãi suất thì lãi suất bán lẻ phải
mất thời gian để đáp ứng và trong một số trường hợp có sự truyền dẫn không
đầy đủ trong lãi suất.
Các lý thuyết giá năng động đươc đưa ra bởi Sheshinski và Weiss
(1977), Rotemberg và Saloner (1987) đã lập luận rằng quyết định của một
ngân hàng để thay đổi mức lãi suất của mình là việc xem xét giữa chi phí của
việc điều chỉnh lãi suất và các chi phí sai lệch từ một mức lãi suất tối ưu.
Trong khuôn khổ hệ thống ngân hàng và đặc điểm cấu trúc thị trường như qui
mô ngân hàng, phạm vi địa lí.. có thể ảnh hưởng đáng kể đến khả năng thay
đổi mức lãi suất bán lẻ, đã có những nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh
cho lý thuyết này bằng cách tìm được một số biến kinh tế có tác động đáng kể
như sự tập trung của thị trường, qui mô ngân hàng.... cũng như khả năng thay
đổi mức lãi suất của ngân hàng (Hannan và Berger 1991, Mester và Sounders
năm 1995, Craig và Dinger 2010). Mặc dù các nghiên cứu thực nghiệm về
truyền dẫn lãi suất trước đây đưa ra những kết quả cơ bản, song các nghiên
cứu này chỉ tập trung vào bề mặt tĩnh của hệ thống ngân hàng1 và cơ cấu thị
trường mà bỏ qua các thông tin động bên trong ngân hàng.
Một nghiên cứu của Berger và Udell, 1992 đã đưa ra vấn đề làm mượt
thanh khoản (liquidity smoothing), là vấn đề điển hình trong các môi trường
mà ở đó quan hệ thân thiết giữa ngân hàng và khách hàng phát triển theo thời
1
Sự truyền dẫn lãi suất thị trường đến lãi suất bán lẻ chịu tác động từ nhiều hướng. Có thể
chia ra làm 2 khía cạnh: bên ngoài ngân hàng(những yếu tố thuộc về hệ thống ngân hàng,
môi trường vĩ mô kinh tế) & nội tại ngân hàng (những yếu tố bên trong thuộc về các ngân
hàng).
10
gian. Cụ thể, các ngân hàng có quan hệ thân thiết với khách hàng, có thể yêu
cầu một sự bảo đảm ngầm định với lãi suất dành cho khách hàng, và qua đó
giữ mức lãi suất cố định một cách tương đối, kể cả khi có sự thay đổi quan
điểm chính sách tiền tệ về lãi suất. Chính điều này làm cho quá trình truyền
dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ chậm chạp hơn. Vì trong trường
hợp này, các nguyên tắc Taylor không còn đủ đảm bảo cho sự cân bằng xác
định của nền kinh tế.
Cottarelli và Kourelis (1994) thấy rằng truyền dẫn là không giống nhau
giữa các nước và các thông số như cấu trúc cạnh tranh của thị trường (chi phí
của ngân hàng chuyển đổi), đặc biệt là chính sách ngân hàng trong mối quan
hệ với thị phần, cơ cấu tiền gửi, chu kỳ kinh doanh, rủi ro tín dụng và biến
động lãi suất làm cho truyền dẫn không đầy đủ. Họ phát hiện ra rằng, lãi suất
khá “dính2” trong ngắn hạn và có thể xác định được trong thời gian dài.
Các tác động của chính sách tiền tệ phụ thuộc đáng kể vào khả năng
của NHTƯ ảnh hưởng đến lãi suất thị trường bằng cách quản lý tính thanh
khoản (theo Rodrigo Fuentes, 2003). Theo Sophia Mueller-Spahn (10/2008)
các ngân hàng lớn thể hiện một sự truyền dẫn tốt hơn trong ngắn hạn và dài
hạn. Tính thanh khoản cũng là một yếu tố quan trọng trong việc xác định sự
điều chỉnh không đồng nhất. Đối với các ngân hàng có tính thanh khoản kém
thì nhanh chóng truyền dẫn các điều kiện thị trường vào lãi suất bán lẻ và thể
hiện mức độ truyền dẫn cao hơn.
Bên cạnh đó, có một số lượng lớn các bài nghiên cứu đã phát hiện ra sự
điều chỉnh chậm trễ của lãi suất ngân hàng, sự cứng nhắc của lãi suất tiền gửi
có sự liên quan chặt chẽ đến mức độ tập trung vào ngành công nghiệp ngân
2
“Dính”_sticky (Stick theory): trong bài nghiên cứu của Cottarelli và Kourelis (1994) họ
cho rằng vì một số yếu tố nội tại của các ngân hàng đã tác động đến quá trình truyền dẫn
lãi suất, các ngân hàng có xu hướng muốn níu giữ, kéo dài thời gian thay đổi lãi suất bán lẻ
đã niêm yết của mình trước sự thay đổi của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
11
hàng, mức độ tập trung cao hơn sẽ đưa đến một sự cứng nhắc lớn hơn. Ngoài
ra, khả năng thanh toán và rủi ro khi cho vay của ngân hàng cũng sẽ tạo ra sự
khác biệt trong tốc độ điều chỉnh lãi suất. Trong ngắn hạn, tại Chile các ngân
hàng lớn có xu hướng thiết lập một lãi suất tiền gửi linh hoạt hơn và các ngân
hàng có khả năng thanh khoản cao và độ tin cậy lớn hơn sẽ có lãi suất tiền gửi
thấp hơn và tốc độ điều chỉnh lãi suất chậm hơn, điều này là phù hợp với lý
thuyết kỷ luật thị trường (theo Rodrigo Fuentes, 2003).
Đặc biệt, trong bài luận văn này, tác giả tiếp thu đáng kể những thành
công trong phương pháp cũng như nội dung nghiên cứu của Paula Antão
(2009) về: “The interest rate pass-through of the Portuguese banking system:
characterization and determinants”. Bài nghiên cứu đo lường quá trình truyền
dẫn lãi suất từ lãi suất thị trường đến lãi suất bán lẻ. Dựa trên cơ chế định giá
chi phí biên, bao gồm chi phí chuyển tiếp thông tin và chi phí cho sự bất cân
xứng thông tin, qua đó trình bày các kết quả ước lượng cho Bồ Đào Nha. Kết
quả nghiên cứu cho thấy trong ngắn hạn, sự truyền dẫn đến 2 loại lãi suất bán
lẻ (lãi suất huy động tiền gửi, lãi suất cho vay) là không hoàn toàn; trong dài
hạn, sự truyền dẫn đến lãi suất cho vay là 100%. Tốc độ truyền dẫn giữa hai
loại lãi suất là không bằng nhau, quá trình truyền dẫn đến lãi suất cho vay
thường nhanh hơn.
Sự truyền dẫn đến lãi suất bán lẻ khác nhau đối với những ngân hàng
khác nhau. Vì thế tác giả đã tìm ra một số nhân tố ảnh hưởng đến quá trình
truyền dẫn xuất phát từ nội tại ngân hàng: cấu trúc nợ, sự đa dạng hóa các
kênh đầu tư hay là tốc độ tăng trưởng của các ngân hàng.
12
- Xem thêm -