LUẬN VĂN:
Những giải pháp mở rộng cho vay
kinh tế hộ sản xuất ở Ngân hàng
N 0 &PTNT huyện Nga Sơn
Mở đầu
Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới kinh tế chúng ta đã khẳng định những
thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng đạt
khá cao, Việt Nam đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế . Đời sống của
dân dân ngày càng được cải thiện và đang bước vào thời kỳ mới như Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: “Thời kỳ tiếp tục sự nghiệp
đổi mới , đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu
dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội”. Trong những thành tựu đó có bước phát triển mạnh của
sản xuất nông nghiệp. Chúng ta đã áp dựng nhiều tiến bộ khoa học, kỹ
thuật
vào sản xuất đưa
sản lượng lương thực, thực phẩm của nước ta
không ngừng tăng trưởng. Từ chỗ là nước thiếu lương thực đến nay chúng
ta đã trở thành nước thứ hai trên thế giới về xuất khẩu lương thực. Có
được kết quả đó là có sự đóng góp đáng kể của kinh tế hộ gia đình. Thể
hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước phát triển kinh tế hộ
sản xuất
trong đó trọng tâm là hộ nông dân sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp. Từ định hướng và chính sách về phát triển kinh tế hộ sản xuất đã
giúp cho ngành Ngân hàng nói chung, Ngân hàng nông nghiệp nói riêng
thí điểm, mở rộng và từng bước hoàn thiện cơ chế cho vay kinh tế hộ sản
xuất, đa dạng hoá trong đầu tư. Từ chỗ chỉ cho vay các doanh nghiệp và
các hợp tác xã chúng ta đã mở rộng đầu tư cho các hộ, tận dụng các
nguồn lực về đất đai, lao động, tài nguyên, mặt nước để sản xuất ra của
cải vật chất cho xã hội. Trong quá trình đầu tư vốn đã khẳng định được
hiệu quả của đồng vốn cho vay và khả năng quản lý, sử dụng vốn của các
hộ gia đình cho sản xuất kinh doanh mở rộng thêm ngành nghề tăng sản
phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho gia đình và hoàn trả được vốn cho
Nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại trong cơ chế chính sách, hành
lang pháp lý và những tác động của cơ chế thị trường do đó còn nhiều hộ
sản xuất vẫn chưa được vay vốn hay vay chưa đủ nhu cầu vốn để phát
triển kinh tế. Thực hiện Nghị quyết Trung ương VI (lần thứ nhất) khoá
VIII: phát triển nông nghiệp nông thôn lên một bước mới. Nhu cầu vốn
đòi hỏi rất lớn từ nội lực các gia đình từ ngân sách và từ nguồn vốn tín
dụng Ngân hàng. Do đó đòi hỏi phải mở rộng đầu tư vốn cho kinh tế hộ
để tận dụng những tiềm năng sẵn có về đất đai, mặt nước, lao động, tài
nguyên làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp và nông thôn. Xuất phát từ suy nghĩ và
thực tiễn đầu tư vốn của Ngân hàng N 0 &PTNT Nga Sơn tôi chọn đề tài:
“Những giải pháp mở rộng cho vay kinh tế hộ sản xuất ở Ngân hàng
N 0 &PTNT huyện Nga Sơn ” .
Nhằm mục đích tìm ra những giải pháp để mở rộng đầu tư đáp ứng nhu
cầu vốn cho phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện và đảm bảo an
toàn vốn đầu tư.
Chương I
Hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ.
I - Hộ sản xuất và vai trò của kinh tế hộ đối với nền kinh tế .
1 - Khái quát chung về hộ sản xuất .
Hộ sản xuất xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ, được Nhà nước giao
đất quản lý và sử dụng vào sản xuất kinh doanh và được phép kinh doanh
trên một số lĩnh vực nhất định do Nhà nước quy định.
Trong quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự: Những hộ gia đình mà các thành
viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng
đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh
vực sản xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định, là chủ thể trong các
quan hệ dân sự đó. Những hộ gia đình mà đất ở được giao cho hộ cũng là
chủ thể trong quan hệ dân sự liên quan đến đất ở đó.
1.1 Đại diện của hộ sản xuất :
Chủ hộ là đại diện của hộ sản xuất trong các giao dịch dân sự và lợi ích
chung của hộ. Cha mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là
chủ hộ. Chủ hộ có thể uỷ quyền cho thành viên khác đã thành niên làm
đại diện của hộ trong quan hệ dân sự. Giao dịch dân sự do người đại
diện của hộ sản xuất xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ sản xuất.
1.2 Tài sản chung của hộ sản xuất :
Tài sản chung của hộ sản xuất gồm tài sản do các thành viên cùng nhau
tạo lập lên hoặc được tặng , cho chung và các tài sản khác mà các thành
viên thoả thuận là tài sản chung của hộ. Quyền sử dụng đất hợp pháp
của hộ cũng là tài sản chung của hộ sản xuất.
1.3 Trách nhiệm dân sự của hộ sản xuất:
Hộ sản xuất phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh hộ sản xuất.
Hộ chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ. Nếu tài sản chung
của hộ không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ, thì các thành viên
phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình .
1.4 Đặc điểm của kinh tế hộ sản xuất :
Quy mô sản xuất nhỏ, có sức lao động, có các điều kiện về đất đai, mặt
nước nhưng thiếu vốn, thiếu hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, thiếu kiến
thức về thị trường nên sản xuất kinh doanh còn mang nặng tính tự cấp, tự
túc. Nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước và cơ chế chính sách, về vốn
thì kinh tế hộ không thể chuyển sang sản xuất hàng hoá, không thể tiếp
cận với cơ chế thị trường .
2 - Vai trò của kinh tế hộ sản xuất đối với nền kinh tế :
Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội . Là động lực khai thác các tiềm năng, tận dụng các nguồn lực vốn,
lao động, tài nguyên, đất đai đưa vào sản xuất làm tăng sản phẩm cho xã
hội . Là đối tác cạnh tranh của kinh tế quốc doanh trong quá trình đó để
cùng vận động và phát triển. Hiệu quả đó gắn liền với sản xuất, kinh
doanh tiết kiện được chi phí, chuyển hướng sản xuất nhanh tạo được quỹ
hàng hoá cho tiêu dùng và xuất khẩu tăng thu cho ngân sách nhà nước .
Xét về lĩnh vực tài chính tiền tệ thì kinh tế hộ tạo điều kiện mở rộng thị
trường vốn , thu hút nhiều nguồn đầu tư.
Cùng với các chủ trương , chính sách của Đảng và nhà nước, tao điều
kiện cho kinh tế hộ phát triển đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia và tạo được nhiều việc làm cho người
lao động góp phần ổn
định an ninh trật tự xã hội , nâng cao trình độ dân trí , sức khoẻ và đời
sống của người dân . Thực hiện mục tiêu “ Dân giầu , nước mạnh xã hội
công bằng văn minh “ Kinh tế hộ được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự
chủ đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ , sôi động , sử dụng có hiệu quả
hơn đất đai , lao động , tiền vốn , công nghệ và lợi thế sinh thái từng
vùng . Kinh tế hộ nông thôn và một bộ phận kinh tế trang trại đang trở
thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương thực , thực phẩm, nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến nông lâm , thuỷ sản , sản xuất các ngành nghề
thủ công phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu .
3 - Nhu cầu vốn của hộ sản xuất để đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh và mở rộng các ngành nghề khác .
3.1 - Quan điểm và chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
kinh tế hộ sản xuất.
Một trong những thay đổi quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế
những năm qua là sự khẳng định chủ trương : “ Phát triển kinh tế nhiều
thành phần , vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
“ . Khẳng định sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau như là
một tất yếu khách quan trên con đường đi lên của đất nước”. Tất cả mọi
người , mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước
pháp luật. Khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế t ư bản tư nhân.
Khuyến khích các nhà kinh doanh từ thành phố thị xã về nông thôn lập
nghiệp. Kinh tế hộ được xác định là những đơn vị kinh tế tự chủ đã được
khuyến khích phát triển theo khả năng về vốn, lao động và đất đai. Thực
hiện chính sách xoá bỏ quan hệ bao cấp và áp đặt của nhà nước với nông
dân. Thực hiện phân phối theo lao động. Nông dân chỉ có nghiã vụ nộp
thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ
hợp đồng với các tổ chức kinh tế cung cấp các yếu tố sản xuất cho hộ.
sản phẩm còn lại thuộc người sản xuất và có toàn quyền quyết định. Các
chủ trương đó được thể hiện rõ ở các Nghị quyết của Đảng bắt đầu từ
Chỉ thị 100 của Ban bí thư khoá V được coi là điểm đột phá đề ra giải
pháp tình thế chặn đà suy thoái của kinh tế nông nghiệp . Dưới ánh sáng
của Nghị quyết Đại hộ Đảng lần thứ 6, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị
ngày 5 tháng 4 năm 1998 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp được
đánh giá là bước ngoặt quan trọng của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh
tế nông nghiệp nông thôn nước ta. Từ các chủ trương, quyết sách đó đã
tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ phát triển đặc biệt là kinh tế hộ
nông dân và các hộ gia đình làm dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp. Tuy
vậy sự phát triển của kinh tế hộ cũng còn nhiều hạn chế, ch ưa đáp ứng
được yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội, còn nhiều tiềm n ăng chưa được
khai thác, còn nhiều lao động chưa có việc làm , nhiều hộ vẫn lâm vào
cảnh nghèo đói. nguyên nhân của những
tồn tại đó có nhiều. Có cả
nguyên nhân khách quan và chủ quan, cả về chủ trương chính sách và quá
trình tổ chức thực hiện các chủ trương , chính sách đó. Trong các nguyên
nhân đó có một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là thiếu vốn.
Nhiều hộ vì lý do này, hay lý do khác vẫn chưa được vay vốn để phát
triển kinh tế , nhiều hộ đã được vay nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản
xuất kinh doanh của mình ...Đó là vấn đề cần được nguyên cứu tháo gỡ
để kinh tế hộ sản xuất không ngừng phát triển đi lên theo định hướng, chủ
trương của Đảng và nhà nước .
3.2 - Thực trạng các hộ sản xuất trước khi có chủ trương của Nhà nước
về cho vay kinh tế hộ .
Trước khi có chủ trương của nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất,
nhìn chung kinh tế hộ gia đình rất khó khăn. Nhất là các hộ nông dân.
Một bộ phận vào hợp tác xã làm theo chế độ chấm công lao động, ăn chia
theo khẩu. Năng suất lao động thấp , giá trị sản phẩm làm ra không nhiều
do đó phần lớn là thiếu đói, không có tích luỹ. Một bộ phận không vào
hợp tác xã mà làm ăn cá thể. Do chủ trương chưa được mở ra nên sản
xuất kinh doanh theo kiểu nhỏ lẻ, công cụ sản xuất lạc hậu, chất l ượng
sản phẩm kém. Nhìn chung các hộ thiếu tất cả các điều kiện để tổ chức
sản xuất. Chỉ có một đối tượng duy nhất là sức lao động. Khi có chủ
trương của nhà nước về phát triển kinh tế hộ, các hộ cá thể được khuyến
khích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Các hộ nông dân được giao
đất, giao rừng, mặt nước, được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nhưng
để khai thác được các tiềm năng ấy phải có vốn, có kiến thức khoa học kỹ
thuật và phải am hiểu thị trường, thì mới phát huy được. Thực tiễn mấy
năm qua cho thấy nếu không có sự đầu tư của nhà nước, không có vốn tín
dụng Ngân hàng đầu tư thì các hộ không thể mở rộng được sản xuất kinh
doanh và không mở mang được ngành nghề mới. Do đó để thực hiện chủ
trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế hộ đòi hỏi bên cạnh
những chủ trương đúng chúng ta cần phải có cơ chế mở rộng đầu tư vốn
cho phát triển kinh tế hộ kết hợp với chuyển giao khoa học kỹ thuật ,
công nghệ để các hộ sản xuất phát huy quyền tự chủ của mình, tận dụng
sức lao động và các tiềm năng sẵn có tạo ra sản phẩm làm giầu cho mình
và cho xã hội
II-Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất.
1 - Khái niệm Ngân hàng thương mại :
Là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng.
Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của các Ngân hang thương mại là
nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụ ng số tiến
đó để cho vay, đầu tư, và để chiết khấu, làm phương tiện thanh toán.
2-Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất
- Đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh tế hộ sản xuất mở rộng sản xuất, kinh
doanh, mở rộng thêm ngành nghề. Khai thác các tiềm năng về lao động ,
đất đai , mặt nước và các nguồn lực vào sản xuất. Tăng sản phẩm cho xã
hội, tăng thu nhập cho hộ sản xuất.
- Tạo điều kiện cho kinh tế hộ sản xuất tiếp cận và áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật
trường
vào sản xuất kinh doanh, tiếp cận với cơ chế thị
và từng bước điều tiết
sản xuất phù hợp
với tín hiệu của thị
trường .
- Thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản
xuất hàng hoá, góp phân thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn .
- Thúc đẩy các hộ gia đình
tính toán, hạch toán
trong sản xuất kinh
doanh, tính toán lựa chọn đối tượng đầu tư để đạt được hiệu quả cao nhất.
Tạo nhiều việc làm cho người lao động.
- Hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi trong nông thôn, tìng trạng
bán lúa non, ...
Kinh tế hộ sản xuất trong nông nghiệp dù họ làm nghề gì cũng có đặc
trương phát triển do nền sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp quy định. Như
vậy hộ sản xuất kinh doanh trong nền sản xuất hàng hoá không có giới
hạn về phương diện kinh tế xã hội mà phụ thuộc rất nhiều vào trình độ
sản xuất kinh doanh, khả năng
kỹ thuật, quyền làm chủ những tư liệu
sản xuất và mức độ vốn đầu tư của mỗi hộ sản xuất.
Nên cần phân loại hộ theo những căn cứ thực tiễn để có quyết sách phù
hợp kể cả việc đầu tư của ngân sách nhà nước và việc đầu tư của tín
dụng Ngân hàng .
+ Loại hộ sản xuất mà có vốn, có kỹ thuật ( kỹ năng ) lao động biết
tiếp cận với môi trường kinh doanh .
+ Loại hộ có sức lao động, làm việc cần mẫn nhưng trong tay không có
hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, thiếu vốn. Lại cư trú ở những nơi chưa có
môi trường kinh doanh. Loại hộ này chiếm số đông trong xã hội. Loại này
cần giúp họ làm quen với nền sản xuất hàng hoá, với tài chính Ngân hàng
tạo điều kiện cho họ tiếp tục đi lên. Trước hết cần thực hiện tốt việc giao
quyền sử dụng đất, rừng, mặt nước lâu dài cho hộ sản xuất và ban hành
chuyển nhượng quyền sử dụng đó. Có
chính, kích thích
sự tài trợ của nhà nước về tài
nền sản xuất hàng hoá. Xây dựng môi trường kinh
doanh phát triển lành mạnh. Trong điều kiện nền kinh tế quốc gia. Nhà
nước cần có chính sách tài trợ qua thuế. Điều tiết lại cho ngân sách cơ sở
( xã , phường ) để đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho kinh tế hộ phát
triển. Sử dụng lợi thế đòn bẩy tín dụng để đầu tư kích thích chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, từ sản xuất tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá đem lại
hiệu quả kinh tế cao.
+ Loại thứ 3: là những người không có sức lao động, hoặc không tích
cực lao động đang tồn tại trong xã hội. Trong quá trình sản xuất hàng
hoá sẽ có sự phá sản của các nhà sản xuất kinh doanh. Do đó sẽ diễn ra
quá trình chuyển hoá thường xuyên giữa các hộ bổ sung vào đội quân lao
động dư thừa. phương pháp giải quyết loại này là các quỹ tài trợ nhân
đạo, quỹ hộ vay xoá đói giảm nghèo. Không những giúp họ về vốn mà
còn giúp họ về phương diện kỹ thuật , đào tạo tay nghề để họ thoát khỏi
cảnh nghèo. Một trong những biện pháp tác động có hiệu quả nhất đối
với loại này đó là tín dụng ưu đãi hộ nghèo .
III - Những quy định chung về cho vay hộ sản xuất .
1- Nguyên tắc vay vốn :
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
.
- Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng.
- Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện quy định của chính phủ, thống đốc
Ngân hàng nhà nước .
2 - Điều kiện vay vốn :
- Phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu
trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật cụ thể là:
+ Hộ thường trú tại địa bàn nơi
chi nhánh Ngân hàng đóng trụ sở.
Trường hợp hộ chỉ có đăng ký tạm trú thì phải có xác nhận hộ khẩu của
nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã phường nơi đến cho phép
hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Đại diện hộ gia đình để giao dịch với Ngân hàng là chủ hộ hoặc người
đại diện của chủ hộ. Người đại diện phải có đủ năng lực hành vi dân sự
và năng lực pháp luật dân sự .
+ Đối với h0ộ nông dân (Nông, lâm, ngư, diêm) được cơ quan có thẩm
quyền cho thuê, giao quyền sử dụng đất, mặt nước .
+ Đối với hộ đánh bắt hải sản phải có phương tiện đánh bắt và được
cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cho phép .
+ Đối với hộ gia đình, cá nhân kinh doanh: Được cơ quan thẩm quyền
cấp giấy phép kinh doanh .
+ Đối với hộ làm kinh tế gia đình, hộ khác được UBND xã ( phường)
xác nhận cho phép sản xuất, kinh doanh hoặc làm kinh tế gia đình .
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết .
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp .
- Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi , có hiệu
quả .
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của chính
phủ và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước .
3 - Đối tượng vay vốn .
- Giá trị vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị và các khoản chi phí để khách
hàng thực hiện các dự án hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
đời sống và đầu tư phát triển .
- Số lãi tiền vay trả cho Ngân hàng trong thời hạn thi công, ch ưa nghiệm
thu, bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng mà khoản trả lãi được
tính trong giá trị tài sản cố định đó .
4 - Các biện pháp đảm bảo tiền vay :
Đảm bảo tiền vay là một trong những nguyên tắc tín dụng nói chung và
tín dụng kinh tế hộ nói riêng. Thực hiện đảm bảo tiền vay nhằm mục
đích bảo đảm an toàn đồng vốn Ngân hàng đầu tư ra cho nền kinh tế, cho
khách hàng. Đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng để Ngân hàng có thể
tiếp tục đầu tư và phát triển. Mặt khác thực hiện đảm bảo tiền vay còn là
động lực để thức đẩy khách hàng chấp hành tốt hợp đồng tín dụng, chấp
hành những nguyên tắc, kỷ luật tín dụng, thực hiện hạch toán trong kinh
doanh, tìm biện pháp, đối tượng để đầu tư vốn đem lại hiệu quả kinh tế
cao, làm sao có nguồn trả nợ Ngân hàng đúng hạn cả gốc và lãi và có
thu nhập cho mình (hộ gia đình) cho doanh nghiệp. Có nhiều hình thức
đảo bảo tiền vay nhưng đối với cho vay kinh tế hộ gia đình chủ yếu làm
với ba hình thức chính đó là:
+ Thế chấp .
+ Cầm cố .
+ Bảo lãnh .
Theo văn bản 1700/NHN 0 -03 ngày 14 tháng 11 năm 1996 của Tổng giám
đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam về việc thực hiện thế chấp, cầm
cố, bảo lãnh vốn trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam. Các
nội dung có thể hiện rõ
4.1 - Thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng :
Là việc bên vay vốn (bên thế chấp) dùng tài sản là bất động sản là sở
hữu hợp pháp của mình (tài sản thế chấp) để đảm bảo cho khoản nợ vay
gồm gốc, lãi, tiền phạt (nếu có) đối với Ngân hàng (bên nhận thế chấp ).
- Tài sản dùng để thế chấp :
. Các loại đất
+ Các loại đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được nhận làm tài
sản thế chấp cụ thể :
. Đất dùng để ở trong nội thành, nội thị của các thành phố, thị xã, đất
ở của các chủ trang trại kinh doanh ở nông thôn.
. Đất dùng sản xuất nông nghiệp, đất trồng rừng kinh doanh, đất trồng
cây công nghiệp, đất làm sân muối, ao hồ, bãi triều, đầm phá từ 0,5 ha
trở lên cho một hộ và nằm trong vùng quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản, hải
sản .
+ Các loại đất không nhận làm tài sản thế chấp gồm :
.Đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp
. Đất sử dung vào mục đích công cộng , lợi ích quốc gia .
. Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng , an ninh .
. Đất trong diện quy hoạch của nhà nước .
. Đất đang tranh chấp .
- Các công trình xây dựng, tài sản trên diện tích đất thế chấp phù hợp
với mục đích sử dụng đất ( giá trị được tính gồm giá trị quyền sử dụng
đất và giá trị công trình đã xây dựng trên đất ) gồm :
- Nhà ở của các doanh nghiệp , các chủ trang trại ở nông thôn có giá trị
từ 100 triệu VNĐ trở lên .
- Nhà ở của nhân dân ở khu vực đô thị, thị xã, trị trấn có giá trị từ 50
triệu VNĐ trở lên .
- Nhà xưởng, nhà kho, bến bãi, dây chuyền thiết bị công nghệ , nhà hàng,
khách sạn, công trình xây dựng phục vụ sản xuất kinh doanh khác... Nằm
trong quy hoạch xây dựng và phát triển sản xuất kinh doanh của nhà n ước
có giá trị 500 triệu VNĐ trở lên .
- Đập nước, kè cống, đường giao thông nội bộ trong khu vực đất thế chấp
thuộc quyền sở hữu của người vay có giá trị còn lại từ 100 triệu đồng trở
lên và còn có giá trị sử dụng từ 50% trở lên
- Vườn cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm, rừng cây kinh doanh trên
đất lâm nghiệp trong vùng quy hoạch của nhà nước
- Các công trình xây dụng, tài sản trên diện tích đất được nhà nước cho
thuê theo quy định của luật đất đai .
* Thổ cư và nhà ở của hộ gia đình ở khu vực nông thôn chưa nhận làm tài
sản thế chấp
4.2- Cầm cố tài sản :
Cầm cố tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn (bên cầm cố)
giao tài sản là động sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình (tài sản cầm cố)
cho Ngân hàng để đảm bảo khoản nợ vay bao gồm : gốc, lãi và tiền phạt
(nếu có) .
* Những tài sản được cầm cố :
- Vàng , đá quý .
- Các chứng chỉ có giá đang trong thời hạn thanh toán do chính phủ, kho
bạc nhà nước, Ngân hàng phát hành gồm: trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu,
sổ tiết kiệm , thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi ...
- Máy mốc thiết bị , dây chuyền sản xuất , tàu thuyền đánh cá , thiết bị
khai thác thuỷ , hải sản như ngư lưới cụ, máy thuỷ , thiết bị đông lạnh ...
- Phương tiện vận tải như : xe đạp , xe gắn máy , xe ô tô , tàu thuyền ...
- Các loại tài sản khác như ti vi , tủ lạnh , đầu VIDEO .
- Các loại tài sản là máy mốc thiết bị , phương tiện giao thông ... phải có
giá trị tối thiểu tại thời điểm cầm cố từ 1 triệu đồng trở lên và giá trị sử
dụng còn 50 % trở lên .
4.3 - Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng .
Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là :
Hành vi mà pháp nhân hoặc cá nhân thứ 3 ( bên bảo lãnh ) dùng tài sản
thuộc sở hữu hợp pháp của mình để thế chấp hoặc cầm cố đối với Ngân
hàng để đảm bảo cho khoản nợ vay bao gồm gốc ,lãi và tiền phạt ( nếu có
) cho bên vay vốn .
- Đối với kinh tế hộ gia đình thì hình thức bảo lãnh phổ biến là bảo lãnh
của các tổ chức chính trị xã hội và chính quyền địa phương bảo lãnh cho
các thành viên của tổ chức mình được vay vốn Ngân hàng . Nhưng đây
không phải là các tổ chức chính trị xã hội dùng tài sản để thế chấp , cầm
cố thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
mà bảo lãnh ở đây là
bảo lãnh trách
nhiệm và hình thức cho vay này gọi là cho vay tín chấp . Hiện nay Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đang áp dụng mức
cho vay tín chấp đối với hộ gia đình là 10 triệu đồng trở xuống , không
cần thế chấp tài sản còn lại các hộ vay vốn từ trên 10 triệu đồng đều
phải thực hiện thế chấp , cầm cố tài sản . Thế nh ưng thực tế đang diễn ra
trái ngược với cơ chế là đối với các hộ gia đình ở khu vực nông thôn tài
sản của họ rất hạn chế , phần lớn chỉ có nhà và đất ở là tài sản có thể
dùng để thế chấp được . Nhưng theo văn bản 1700/ NHN 0 - 03 thì nhà và
đất ở của các hộ gia đình ở khu vực nông thôn chưa nhận làm tài sản thế
chấp đang là khó khăn cho hoạt động
của Ngân hàng nông nghiệp nói
riêng và các Ngân hàng thương mại ở khu vực nông thôn nói chung .
Cùng với các giải pháp của nhà nước , sự quan tâm của cấp uỷ , chính
quyền các cấp đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện , nhu cầu
phát triển sản xuất ngày càng mở rộng do đó nhu cầu vốn ngày càng cao
mới đáng ứng được nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy Quyết định
67/ CP đã mở rộng mức vay tín chấp từ 10 triệu đồng trở xuống nhưng
nhiều Hộ sản xuất không đủ nhu cầu để đầu tư cho sản xuất kinh doanh
của mình , tài sản để cầm cố không có , tài sản thế chấp thì chủ yếu là
nhà và đất ở nếu không được thế chấp thì đây là những khó khăn bức
xúc cần phải tháo gỡ cho các hộ sản xuất và tạo điều kiện để các Ngân
hàng thực hiện mở rộng đầu tư kinh tế hộ gia đình , thực hiện mục tiêu
của Đảng và nhà nước về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên,
trong hoạt động thực tiễn cho vay cho thấy cơ chế hiện nay vẫn còn nhiều
bất cập như quy định về thế chấp , cầm cố, bảo lãnh vay vốn, cách xử lý
tài sản thế chấp giải quyết như thế nào ? đấu mối với các ngành ra sao ?,
sự không đồng bộ ở các văn bản dưới luật đã làm cho hành hanh pháp lý
do hoạt động Ngân hàng vẫn còn khó khăn , chưa mở ra được , việc cho
vay tín chấp người vay không trả được thì các tổ chức đoàn thể chịu
đến đâu ? thực tế họ chỉ chịu trách nhiệm còn rủi ro , tổn thất vẫn là
Ngân hàng phải chịu . Nếu không có những giải pháp để tháo gỡ thì Ngân
hàng không thể mở rộng đầu tư vốn cho kinh tế hộ .
Chương II
Thực trạng về cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng
nông nghiệp và
phát triển nông thôn huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá
I - Khái quát chung tình hình kinh tế huyện Nga Sơn .
Nga sơn nằm ở phía đống bắc tỉnh Thanh Hoá, được bao bọc bởi sông và
biển phía bắc là sông Càn, phía tây là sông Hoạt , phía nam là sông Lèn ,
phía đông là biển .
1. Một số nét về điều kiện tự nhiên và xã hội:
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện : 14.495,5 ha .
Trong đó:
- Tổng diện tích canh tác : 8367 ha .
- Tổng diện tích gieo trồng : 16.845 ha .
Trong đó :
+ Diện tích trồng cói : 2.330,2 ha .
+ Diện tích trồng lúa : 8.667,3 ha .
+ Diện tích trồng màu : 1.740,7 ha .
+ Diện tích trồng lạc : 1.163,7 ha
+ Diện tích trồng đay : 166,9 ha .
+ Diện tích cây khác : 2.776,2 ha .
* Ngành nghề sản xuất chính :
Chủ yếu là hàng thủ công cói , đay xuất khẩu với lợi thế của huyện Nga
Sơn
là có diện tích cói lớn , hàng năm được bồi đắp thêm của thuỷ triều
do đó diện tích cói của Nga Sơn
không ngừng được mở rộng, có thể nói
về sản lượng cói ở Nga Sơn là huyện có sản lượng lớn nhất nước. Hàng
năm có từ 21-23 ngàn tấn cói nguyên liệu. Người dân Nga Sơn có nghề
truyền thống làm thủ công chiếu cói từ lâu đời, có tay nghề cao, sản phẩm
thủ công
được thị trường trong nước và
thế giới ưa chuộng nhất là
chiếu, thảm và làn, túi xách cói ... trong những n ăm 1980 về trước hàng
thủ công chiếu cói Nga Sơn được nhập cho các nước Đông âu. Từ sau
năm 1980 đến 1990 các nước Đông âu sụp đổ, hàng thủ công Nga Sơn lâm
vào bế tắc, không có nơi tiêu thụ, thị trường còn lại là nội địa với mức
tiêu thụ hàng năm ít do đó nghề chiếu cói Nga Sơn lâm vào khó khăn,
đời sống của người dân giảm sút, tình trạng thiếu đói, không có việc làm
kéo dài. Mãi từ 1993 đến nay mở ra thị trường Trung quốc, tuy thị trường
và giá cả không ổn định (XK tiểu ngạch) nhưng cũng đã vực dậy được
nghề thủ công chiếu cói Nga Sơn đi vào sản xuất ổn định , khôi phục lại
các làng nghề truyền thống và đòi hỏi nhu cầu vốn đầu tư lớn từ khâu sản
xuất nguyên liệu, sản xuất chế biến thành phẩm , tiêu thụ sản phẩm . Bên
cạnh nghề thủ công cói đay thì các ngành nghề khác cũng song song tồn
tại và phát triển. Như sản xuất nông nghiệp với sản lượng thóc đạt hàng
năm là trên dưới 40 ngàn tấn, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thuỷ
sản và dịch vụ thương mại. Vơi các ngành nghề đó làm đa dạng thêm cho
nền kinh tế huyện Nga Sơn. Là điều kiện để Ngân hàng đa dạng hoá các
đối tượng cho vay .
* Nếu xét cơ cấu theo thành phần kinh tế .
Kinh tế quốc doanh chỉ còn lại hai đơn vị: Đó là công Ty thủy nông và
công ty thương mại .
Doanh nghiệp tư nhân có hai doanh nghiệp. Còn lại chủ yếu là phát triển
kinh tế hộ gia đình. Với hơn 32 nghìn hộ được phân bố đều ở các ngành
sản xuất đang tận dụng các nguồn lực có sẵn đầu tư vào sản xuất kinh
doanh tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho gia đình và góp phần
làm thay đổi cơ cấu kinh tế huyện, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp và
nông thôn .
* Tổng dân số trong toàn huyện 142.273 người .
Tổng sô lao động : 58.493 lao động .
Trong đó :
+ Lao động nông nghiệp 35.438
+ Lao động ngư nhiệp : 1.520
+ Lao động tiểu thủ công nghiệp : 16.563
+ Lao động dịch vụ thương mại : 2.152.
+ Lao động làm nghề khác
: 820
+ Lao động thiếu việc làm : 2.000
( Theo số lệu điều tra của phòng thống kế huyện đến tháng 10 năm 1996
) .
2. Mục tiêu phát triển kinh tê huyện Nga sơn đến năm 2000.
2.1 - Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đã đạt được : Trong 3 năm 1997 - 1998
- 1999
T
Năm
đơn
1997
1998
1999
99 so 99 so
T chỉ tiêu
1
Tốc
độ
vị
với
với
tính
97
98
tăng %
7
9
10
+3
+1
Giá trị sản lượng Triệu 297.4
449.8
650.5
+
+
sản xuất
50
00
353.1
200.6
00
50
trưởng kinh tế
2
3
4
5
6
đồng
00
Kim nghạch xuất USD
2.000
2.630
3.000
+1.00
+370.
khẩu
.000
.000
.000
0.000
000
Sản lượng lương tấn
37.66
41.60
42.30
+4.66
+697
thực quy thóc
7
3
0
3
21.62
20.20
20.10
-
4
6
6
1.518
861
1.740
1.860
+1.19
Sản lượng cói
sản lượng lạc vỏ
tấn
tấn
-100
+120
9
7
Thịt lợn hơi
tấn
2.849
2.850
2.860
+11
+10
8
Thuỷ sản
tấn
1.464
1.845
1.895
+431
+50
9
Thu ngân sách
triệu
3.430
6.295
8.145
+4.71
+1.85
5
0
(Báo cáo kết quả chỉ đạo thực hiện các mục tiêu kinh tế XH 1997, 1998
và 1999)
Thu nhập bình quân đầu người: Năm 1997:1.500.000 đồng/người/năm đến
năm 1999 : 2.300.000/người/năm .
Sản lượng lương thực bình quân đầu người : năm 1997 :
kg/người/năm đến năm 1999 : 300 kg/ người/năm .
260
- Xem thêm -