LỜI NÓI ĐẦU
Ngày 7/11/2006, tại Geneve (Thụy Sĩ) diễn ra Lễ ký Nghị định
thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO). Vào ngày 28/11, Quốc hội đã thông qua Nghị
định thư gia nhập WTO của VN. Và Theo quy định của WTO, 30
ngày sau khi tổ chức này nhận được thư phê chuẩn Hiệp định gia
nhập WTO của Quốc hội Việt Nam, nước ta sẽ chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức này.
Tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới, nước ta đứng
trước những cơ hội lớn như sau:
Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước
thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành
dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của
các nước này, không bị phân biệt đối xử; Với việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý
theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày
càng được cải thiện. Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình
đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách
thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật
tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi
ích của đất nước, của doanh nghiệp. Mặc dầu chủ trương của chúng
ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát
huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập
WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải
cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ
hơn, có hiệu quả hơn; Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế
1
của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu
quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì
hoà bình, hợp tác và phát triển.
Tuy nhiên, đối tượng chịu tác động mạnh nhất khi Việt Nam gia
nhập WTO là nông dân vì có đến hơn 2/3 hộ gia đình làm nông
nghiệp. Nông nghiệp là chìa khoá của sự ổn định và phát triển đối
với người dân. Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta
có thể sẽ gặp không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển
ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng phần lớn người dân nước ta
nhưng cùng với đó sẽ có thêm nhiều cơ hội phát triển.
Với mục đích làm rõ hơn những thách thức đối với hàng nông
sản Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO từ đó đề ra những giải
pháp cụ thể. Vì lý do trên nên tôi chọn đề tài:
“NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN
VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC”
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ WTO VÀ QÚA TRÌNH GIA NHẬP CỦA
VIỆT NAM
1.1 Những nét chính về WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời từ các cuộc đàm phán;
tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm
phán.
WTO được thành lập vào năm 1995 nhưng hệ thống thương mại của
nó thì đã tồn tại từ hơn nửa thế kỷ nay. Năm 1948, Hiệp định chung
về Thuế quan và Thương mại (GATT: General Agreement on
Tarrifs and Trade”) đã đề ra hàng loạt các quy định cho hệ thống
thương mại. Vào tháng năm 1998, tại Hội nghị bộ trưởng WTO lần
2
thứ hai tổ chức tại Gienevơ, hệ thống này đã kỷ niệm 50 năm ngày
ra đời của mình
Nói một cách đơn giản, WTO là nơi đề ra những quy tắc thương
mại giữa các quốc gia trên quy mô thế giới hoặc gần như toàn thế
giới. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả...
Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về WTO. Nó là một tổ chức để
tự do hoá thương mại; là diễn đàn để các chính phủ đàm phán các
hiệp định thương mại; là nơi để họ giải quyết tranh chấp thương
mại. Nó điều hành hệ thống các quy tắc thương mại.
Trước tiên, WTO là một khuôn khổ để đàm phán:
WTO là diễn đàn, nơi các quốc gia thành viên thương lượng giải
quyết những tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa họ.
Bước giải quyết tranh chấp đầu tiên là thảo luận. WTO ra đời từ các
cuộc đàm phán và tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông
qua còn đường đàm phán. Các hoạt động mà WTO đang xúc tiến
hiện nay chủ yếu xuất phát từ những cuộc đàm phán diễn ra từ năm
1986 đến 1994, mang tên Vòng đàm phán Urugoay, và từ những
cuộc đàm phán trước đó trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT). Hiện nay, WTO đang tổ chức các
cuộc đàm phán mới trong khuôn khổ “chương trình phát triển
Doha” được khởi xướng từ năm 2001.
Đối với những nước phải đối mặt với những rào cản trong thương
mại và muốn hạ thấp các rào cản này, thì đàm phán góp phần thúc
đẩy tự do hoá thương mại. Tuy nhiên, WTO không chỉ tập trung vào
mục tiêu tự do hoá thương mại, trong một số trường hợp, WTO còn
đề ra những quy định ủng hộ việc duy trì rào cản thương mại, ví dụ
như trong trường hợp bảo vệ người tiêu dùng hay ngăn chặn sự lan
tràn của một dịch bệnh nào đó.
Thứ hai WTO là tập hợp các quy tắc:
3
Nòng cốt của tổ chức là các hiệp định WTO được phần lớn các quốc
gia thương mại trên thế giới đàm phán và ký kết. Những văn bản
này tạo thành quy tắc pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế. Đó
chủ yếu là những cam kết cơ bản ràng buộc các chính phủ thực thi
chính sách thương mại trong khuôn khổ đã thoả thuận. Mặc dù do
các chính phủ đàm phán và ký kết, song mục tiêu của những cam
kết này là giúp các nhà sản xuất hàng hoá, dịch vụ cũng như các nhà
xuất, nhập khẩu triển khai các hoạt động của mình, đồng thời vẫn
cho phép chính phủ các nước đáp ứng được những mục tiêu xã hội
và môi trường.
Mục tiêu trọng tâm của hệ thống là giúp trao đổi thương mại được
tự do nhất trong khi vẫn tránh được những tác động không mong
muốn. Đó một phần là xoá bỏ những rào cản. Đó còn là việc đảm
bảo cho các cá nhân, doanh nghiệp và cơ quan chính phủ hiểu biết
về những quy định thương mại hiện hành trên thế giới và cho họ
lòng tin là sẽ không có sự thay đổi chính sách đột ngột. Nói cách
khác, các qui định phải “minh bạch” và dự đoán trước được.
WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp:
Đây chính là hoạt động quan trọng thứ ba của WTO. Quan hệ
thương mại thường làm nảy sinh những lợi ích mâu thuẫn nhau. Tất
cả các hiệp định, kể cả những hiệp định đã được các nước thành
viên WTO đàm phán một cách kỹ lưỡng đều cần phải được diễn
giải. Cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp là đưa ra một thủ tục
trung gian dựa trên cơ sở pháp lí đã thoả thuận. Đây chính là mục
tiêu của quá trình giải quyết tranh chấp nêu trong các Hiệp định của
WTO.
1.2 Vai trò của WTO
Hiện nay, WTO có 150 thành viên và 29 thành viên đang đàm phán
(trong đó có Việt Nam). WTO là tổ chức thương mại lớn nhất toàn
4
cầu. Liên hợp quốc có 192 thành viên. WTO là 179 thành viên. Số
thành viên của WTO hầu như đã là thành viên của Liên hợp quốc.
Ðây là sân chơi mà cả thế giới chơi. Nếu chúng ta đứng ngoài thì
chúng ta sẽ không tham gia được vào sân chơi điều tiết toàn bộ
ngành thương mại thế giới, chiếm 85% thương mại hàng hóa, 90%
thương mại dịch vụ toàn cầu. WTO quyết định hoạt động kinh tế,
thương mại, đầu tư của toàn cầu. WTO có một bộ nguyên tắc khổng
lồ điều tiết toàn bộ hoạt động kinh tế, thương mại, trong đó có năm
nguyên tắc lớn: minh bạch hóa chính sách (rõ ràng, minh bạch, cụ
thể, dễ dự đoán để giúp các nhà doanh nghiệp nắm được, thực hiện
kinh doanh. Nếu nói thông thoáng (không có luật) thì không phải,
luật phải rõ ràng, minh bạch, trước khi ra luật mới phải thông báo
cho các doanh nghiệp biết và dự đoán được, chuẩn bị làm ăn).
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (đối xử cho nước này không kém
hơn đối xử của nước thứ ba). Không phân biệt đối xử. Ðối xử quốc
gia (dành cho doanh nghiệp nước ngoài đối xử không kém hơn đối
xử doanh nghiệp trong nước). Mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ
giúp cho thương mại toàn cầu phát triển, kinh tế phát triển. WTO có
khoảng 18 hiệp định lớn và 1 bộ quy tắc. 18 hiệp định: hiệp định về
thuế quan (GATT), dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, trị giá hải quan,
hiệp định về vấn đề hàng nông nghiệp, chống bán phá giá, chống trợ
cấp, hiệp định về cấp phép nhập khẩu, kiểm tra hàng trước khi xếp,
kiểm dịch động thực vật, quy tắc xuất xứ, một số hiệp định khác;
rào cản thương mại (TBT). Toàn bộ quy tắc gói gọn trong 30 vạn
trang. Ðây là bộ quy tắc khổng lồ, giúp điều tiết toàn bộ thương mại
toàn cầu.
1.3 Các nguyên tắc của WTO
* Không phân biệt đối xử: không một nước nào được có sự phân
biệt đối xử giữa các đối tác thương mại của mình (nghĩa là phải
5
dành cho họ một cách công bằng qui chế “đối xử tối huệ quốc” hay
còn gọi là quy chế MFN) cũng như không được phân biệt đối xử
giữa hàng hoá, dịch vụ và người nước ngoài (nghĩa là phải dành cho
họ quy chế “đối xử quốc gia”);
* Tự do hơn: xoá bỏ rào cản thông qua con đường đàm phán.
* Dự đoán trước được: phải đảm bảo cho các công ty, các nhà đầu
tư và chính phủ nước ngoài rằng sẽ không áp dụng một cách tuỳ tiện
các rào cản thương mại (gồm hàng rào thuế quan và phi thuế quan);
mức thuế quan và các cam kết mở cửa thị trường được “ràng buộc”
tại WTO.
* Cạnh tranh hơn: hạn chế những biện pháp thương mại không lành
mạnh như trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá, nghĩa là bán với giá thấp
hơn giá thành sản phẩm nhằm mục đích chiếm thị phần;
* Dành ưu đãi cho các nước kém phát triển: cho họ một thời hạn dài
và linh động hơn, cùng một số đặc quyền thương mại.
1.4. Những lý do của tự do hoá thương mại
Quan điểm kinh tế về một hệ thống thương mại mở trên cơ sở
những nguyên tắc được thoả thuận đa biên tương đối đơn giản và
chủ yếu xuất phát từ xu hướng chung của thương mại. Không những
thế, nó còn được ủng hộ bởi thực tiễn thương mại thế giới và sự
tăng trưởng kinh tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Thuế quan
đối với hàng công nghiệp đã giảm nhanh chóng và hiện nay trung
bình ở dưới mức 5% tại các nước phát triển. Trong vòng 25 năm sau
chiến tranh thế giới thứ hai, tăng trưởng kinh tế thế giới đạt mức
bình quân 5%/năm, một phần là nhờ việc giảm bớt các rào cản
thương mại. Thương mại thế giới tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn,
với tỷ lệ trung bình khoảng 8% trong giai đoạn nói trên.
Số liệu thống kê cho thấy có một mối liên hệ không thể phủ nhận
giữa tự do hoá thương mại và tăng trưởng kinh tế. Theo học thuyết
6
kinh tế, mối liên hệ này được lý giải một cách hết sức khoa học. Tất
cả các nước, kể cả các nước nghèo đều có những nguồn lực như
nhân lực, công nghiệp, tài nguyên thiên nhiên, tài chính mà họ có
thể khai thác để sản xuất hàng hoá và dịch vụ phục vụ thị trường nội
địa hoặc nước ngoài. Khoa học kinh tế cho thấy chúng ta có thể thu
lợi khi hàng hoá và dịch vụ được thương mại hoá.
Nói một cách đơn giản, nguyên tắc “lợi thế so sánh” chỉ ra rằng các
nước làm giàu trước tiên bằng cách tận dụng các nguồn lực sẵn có
để tập trung sức lực vào những lĩnh vực mà họ có điều kiện sản xuất
tốt nhất, tiếp đến bằng cách trao đổi những sản phẩm này lấy những
sản phẩm mà những nước khác có thể sản xuất với những điều kiện
tốt nhất.
Nói cách khác, chính sách thương mại tự do hay chính sách đảm
bảo cho hàng hoá và dịch vụ tự do lưu thông là làm gia tăng cạnh
tranh, khuyến khích khả năng sáng tạo và tạo ra thành công. Chính
sách thương mại tự do này giúp người ta thu được thêm nhiều lợi
nhuận từ việc sản xuất ở điều kiện tốt nhất, với kế haọch hoàn hảo
nhất và giá thành thấp nhất.
Tuy nhiên, thành công trong thương mại không phải là một hiện
tượng tĩnh. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh hoàn hảo đối
với một sản phẩm nào đó có thể trở nên kém cạnh tranh hơn một
doanh nghiệp khác khi thị trường phát triển hay khi công nghệ mới
cho phép tạo ra những sản phẩm với giá rẻ hơn và chất lượng tốt
hơn. Nhà sản xuất được khuyến khích thay đổi để tự thích nghi từng
bước và tránh bị tổn thất. Họ có thể tạo ra các sản phẩm mới, tìm
thấy cơ hội làm ăn mới trong lĩnh vực hoạt động sẵn có của mình
hay lao vào một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ.
Kinh nghiệm cho thấy khả năng cạnh tranh cũng có thể chuyển từ
nước này sang nước khác. Một nước có nhiều điều kiện thuận lợi
7
nhờ giá nhân công rẻ hoặc nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
có thể bị mất khả năng cạnh tranh đối với một số hàng hoá và dịch
vụ với sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, nhờ tác dụng
khuyến khích của việc mở cửa nền kinh tế, nước này có thể lại trở
nên cạnh tranh đối với hàng hoá hay dịch vụ khác. Nói chung, đây
là một quá trình dần dần.
Tuy nhiên, ý định từ chối đương đầu với thách thức mà các mặt
hàng nhập khẩu có khả năng cạnh tranh đặt ra vẫn tồn tại dai dẳng.
Và chính phủ các nước giàu có thể bị cám dỗ bởi các biện pháp bảo
hộ nhằm có được lợi thế về mặt chính trị ngắn hạn thông qua việc
trợ cấp, đề ra những thủ tục hành chính rắc rối, viện cớ vì các mục
đích chung hợp pháp như gìn giữ môi trường hay bảo vệ người tiêu
dùng nhằm bảo hộ cho các nhà sản xuất trong nước
Bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước trở nên cồng kềnh,
không hiệu quả, cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm lỗi
thời hoặc kém hấp dẫn. Và cuối cùng, mặc dù được nhà nước bảo
hộ và trợ cấp, các nhà máy vẫn phải đóng cửa và cắt giảm việc làm.
Nếu chính phủ các nước khác trên thế giới cũng áp dụng những
chính sách tương tự thì thị trường sẽ bị thu hẹp và hoạt động kinh tế
thế giới sẽ trở nên trì trệ. Một trong những mục tiêu mà chính phủ
các nước theo đuổi tại các cuộc đàm phán WTO là ngăn chặn để
không bị trượt vào vòng xoáy bảo hộ, vốn được xem là một biện
pháp đi ngược lại với mục đích mà các quốc gia thành viên đang tìm
kiếm
Lợi thế so sánh
Giả sử rằng nước A giỏi hơn nước B về chế tạo ô tô và nước B làm
bánh mì ngon hơn nước A (các nhà lý luận cho rằng so sánh như
vậy là khập khiễng). Rõ ràng, vì lợi ích của mình, A sẽ chuyên vào
8
việc sản xuất ô tô còn B chuyên vào việc làm bánh mì, sau đó hai
bên trao đổi sản phẩm với nhau. Đây là ví dụ về lợi thế tuyệt đối.
Nhưng điều gì xảy ra nếu một nước không có thế mạnh trong bất cứ
một lĩnh vực nào? Vậy thì thương mại có gạt bỏ tất cả các nhà sản
xuất của nước này ra khỏi thị trường không? Theo Ricardo thì
không. Điều này được lý giải bằng nguyên tắc lợi thế so sánh.
Theo nguyên tắc này, các nước A và B luôn luôn mong muốn trao
đổi thương mại với nhau, ngay cả khi A giỏi về mọi mặt. Nếu A là
một nước sản xuất ô tô rất giỏi và chỉ là một nước sản xuất bành mì
tương đối giỏi, A sẽ luôn mong muốn đầu tư vào lĩnh vực mà mình
giỏi hơn cả - nghĩa là sản xuất ô tô - và xuất khẩu ô tô sang B, nước
tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực mà mình nắm rõ nhất - nghĩa là làm
bánh mì - và bán sản phẩm đó sang A, cho dù B làm bánh không
giỏi bằng A. Như vậy thương mại vẫn có lợi cho cả hai bên. Một
nước không cần phải giỏi trong lĩnh vực nào mới có thể tận dụng
được thương mại. Đó là lợi thế so sánh.
Học thuyết này do nhà kinh tế học Đavi Ricardo tìm ra. Đây là một
trong những học thuyết được nhiều nhà kinh tế chấp nhận nhất. Học
thuyết này cũng gây ra nhiều nhầm lẫn nhất đối với giới kinh tế
không chuyên vì họ luôn nhầm học thuyết này với lợi thế tuyệt đối.
Chẳng hạn chúng ta thường nghe nói rằng một số nước chẳng có lợi
thế so sánh nào cả. Thực tế, điều này không bao giờ xảy ra.
1.5. Tóm tắt các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam
1.5.1 Cam kết đa phương
Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp
định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia
nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang
trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận
cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có
9
liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền
kinh doanh.
Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận
bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn
hơn 31/12/2018.
Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác
nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường
thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế
độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá
giá. Và các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ
đặc thù đối với hàng xuất khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế
phi thị trường.
Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch
dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO (riêng trường hợp ta vi
phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì
một số nước có thể có biện pháp trã đũa nhất định). Ngoài ra thành
viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng
dệt may của nước ta.
Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các
loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ
cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất
khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian
quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may).
Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp
xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo
lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho
nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà
WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức
không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu
10
thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm.
Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ
phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng
không hạn chế.
Về quyền kinh doanh (quyền xuất nhập khẩu hàng hóa): Việt Nam
đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất
nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các
mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước (như xăng dầu,
thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí) và một số mặt hàng
nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi
(như gạo và dược phẩm).
Cam kết của Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân
nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền
xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền
đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong
mọi trường hợp, DN và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động
tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền
kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra
các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản
phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí…
Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO
đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh
lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy
định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn hoặc sẽ áp
dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phấn trăm. Đối với
bia, sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm.
Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp thương mại
nhà nước, cam kết trong lĩnh vực này là nhà nước sẽ không can
thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt dộng DNNN. Tuy nhiên, nhà
11
nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt
động của DN như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua
sắm của DNNN không phải là mua sắm Chính phủ.
Về tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại DN: Điều 52 và 104 của
Luật DN quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt
động của công ty TNHH và Công ty cổ phần chỉ được phép thông
qua khi có số phiếu đại diện ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp
thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số
vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các
bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ
công ty
Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho nhập khẩu
xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc
lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm
gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một DN nhà nước được quyền nhập
khẩu toàn bộ thuốc lá điều và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm
phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ôtô cũ ta cho phép
nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm.
Về cam kết thực hiện minh bạch hóa, ngay từ khi gia nhập Việt
Nam sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý
kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là
60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản
pháp luật trên các tạp chí, trang tin điện tử của bộ, ngành.
Một số cam kết liên quan khác: thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam
kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu
theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm
khác.
12
Về đa phương, Việt Nam còn đàm phán một số vấn dề đa phương
khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm
hợp pháp trong cơ quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập
khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp
hàng rào kỹ thuật trong thương mại… Với nội dung này, ta cam kết
tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập.
1.5.2 Cam kết về thuế nhập khẩu
Mức cam kết chung của Việt Nam là đồng ý ràng buộc mức trần
cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu
được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần
trung bình 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản
giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong
khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6%
thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm.
Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ
phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt
hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi
măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy… vẫn duy trì được
mức bảo hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và
sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị
điện - điện tử. Bên cạnh đó, Việt Nam đạt được mức thuế trần cao
hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa
chất là phương tiện vận tải.
Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do
theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là
hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều
phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản
phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham
13
gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành
thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Về hạn ngạch thuế
quan, bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá
và muối.
1.5.3 Cam kết về mở của thị trường dịch vụ
Về diện cam kết, trong Hiệp định thương mại song phương (BTA)
với Hoa Kỳ ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ (khoảng 65 phân ngành).
Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo
phân ngành khoảng 110 ngành. Về mức độ cam kết, với hầu hết các
ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm,
phân phối, du lịch… ta giữ được mức độ cam kết gần như trong
BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết
thúc đàm phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không
quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển
đã được phê duyệt cho các ngành này.
Cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước
hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới
hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng
ngành cụ thể. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán
bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ
quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Cuối cùng, ta cho phép
tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh
nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị
trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước
ngoài mua tối đa 30% cổ phần.
Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: Đồng ý cho phép các DN nước
ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ
khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy
nhiên, Việt Nam còn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên
14
biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các ty thăm dò, khai thác tài
nguyên. Bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các
DN Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và
vật phẩm cho dàn khoan xa bờ… Tất cả các công ty vào Việt Nam
cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Dịch vụ viễn thông, Việt Nam có thêm một số nhận nhượng so với
BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của
ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để
cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê
mạng do DN Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút
về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp
dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các các doanh
nghiệp nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước
ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với
đối tác Việt Nam đã được cấp phép).
Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt só
với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành
lập DN 100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai,
tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu,
dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và
kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt
thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. DN
có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được
ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể.
Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy
nhiên, ta đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân
thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập.
15
Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100%
vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân
hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam
nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phi
chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam
trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn
chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam (không quá 30%).
Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán
100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập
WTO
Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp
lý, kế toán, xây dựng, vận tải… mức độ cam kết về cơ bản không
khác nhiều so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất
bản.
CHƯƠNG II
HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Tình hình nông sản xuất khẩu của Việt Nam.
Việt Nam là nước đất chật, người đông, bình quân đất canh tác chỉ
có 0,3 ha/hộ. Nhưng, nước ta có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu
được xếp hạng trên thế giới: gạo (có lúc xếp thứ 2, có lúc thứ 3 thế
giới); cà phê (đứng thứ 2 thế giới), tiêu (số 1 thế giới), điều (số 2 thế
giới), chè chúng ta có sản lượng đứng thứ 8 thế giới, hải sản, thủy
sản cũng được xếp thứ 8, 9 thế giới. Tuy nhiên các mặt hàng nông
sản của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng thô, giá trị gia
tăng trong hàng xuất khẩu đạt thấp.
16
Ví dụ cụ thể như sau:
Chất lượng trái cây ngoại nhiều khi không ngon bằng trái cây Việt
Nam, nhưng vẫn được chấp nhận và lấn lướt trái cây nội địa. Chẳng
hạn cam sành Bến Tre hương và vị thơm ngon không thua kém cam
Mỹ, giá chỉ 25.000 đồng/kg, trong khi đó cam Mỹ giá 45.000
đồng/kg, nhưng không phải ai cũng dùng cam sành. Tương tự, trên
các quầy trái cây, sầu riêng Thái Lan vẫn chiếm giữ số lượng lớn
mặc dù giá và vị ngon vẫn không hơn sầu riêng Cái Mơn.
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng nhì thế giới, nhưng theo biểu
giá của Australian Commodity Statistics 2005, giá gạo xuất khẩu
của Việt Nam thấp nhất trong 6 nước xuất khẩu gạo. Gạo Việt Nam
xuất khẩu với giá 218USD, trong khi đó, Thái Lan vừa đứng đầu về
số lượng, vừa có giá cao hơn Việt Nam 60,33 USD/tấn. Cao nhất là
Úc xuất với giá 509,9 USD/tấn.
Sở dĩ Chất lượng hàng nông sản Việt Nam bị như trên là do các lý
do sau:
Cây và giống cây chất lượng kém
Nếu nói về sự thế yếu của trái cây, ngoài năng lực hạn chế trong
việc xây dựng thương hiệu, làm marketing, khả năng xúc tiến xuất
khẩu… thì nguyên do nữa là bị thả nổi về cây giống. Nhà nước
không có chính sách rõ ràng và không có hệ thống sản xuất và cung
ứng giống.
Từ nhiều năm qua, Việt Nam đã tạo ra nhiều giống lúa tốt, hạt gạo
Việt Nam sản xuất ra không thua kém gạo các nước, thành công của
Việt Nam là đã tạo được giống lúa cực sớm, và thành công lớn nhất
là đã tạo thành công giống lúa cao sản. Thế nhưng thị trường gạo
chất lượng cao trên thế giới vẫn do Thái Lan, Úc nắm giữ.
Nguyên do, theo chính các nhà khoa học thừa nhận, các chủng lúa
sản xuất ra cứ được mặt này thì mất mặt kia: cao sản thì thân yếu dễ
17
ngã, dễ rụng, còn chất lượng thơm ngon thì nhiều lép, cuống dai,
kháng bệnh kém, dễ bị sâu rầy, bà bên cạnh đó là công nghệ thu
hoạch, bảo quản, chế biến.
Thói quen chỉ thấy cái lợi trước mắt đã khiến người người sản xuất
không chịu tuân thủ quy trình sản xuất và sử dụng cây giống. Một
cây giống sản xuất ra theo đúng quy trình trong nhà lưới, lồng kính
có giá thành đắt gấp đôi, gấp ba cây nhân nhân thông thường ngoài
trời, khiến người sản xuất giống thấy lợi đã làm, mà người mua thì
ham rẻ mặc dù vẫn biết rằng chất lượng kém. Chính vì vậy mà lâu
ngày cây thoái hóa, nhiễm bệnh, chất lượng quả ngày càng sụt giảm,
thua trái cây ngoại là đương nhiên, những nguyên nhân khác như
công tác nhân giống không được đồng loạt, dẫn đến chậm trễ việc
nhân rộng diện tích cây trồng. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước chưa
tới với người nông dân. Nông dân chưa hưởng được chính sách ưu
đãi, mà phải mua giống với giá cao, nhưng lúa thu hoạch bán ra vẫn
theo giá lúa bình thường. Vì vậy người trồng đã không mặn mà với
chương trình giống mới.
Kỹ thuật và công nghệ sau thu hoạch yếu kém
Công nghệ sau thu hoạch không được coi trọng nên việc thất thoát
rất lớn, khiến giá thành của sản phẩm không thể hạ thấp. Cây lúa là
thế mạnh của nông sản xuất khẩu, nhưng hiện nay ở Đồng bằng
sông Cửu Long, lúa chín rục mới được thu hoạch. Thu hoạch xong
phơi luôn ngoài đồng. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, thất thoát sau thu hoạch của lúa Việt Nam từ 10% đến 17%, có
khi lên đến đến 30%!
Chưa có đầu tàu để dẫn dắt người nông dân
Có một điều dễ thấy, là hiện nay, những chủng loại trái cây nổi
tiếng ở Đồng bằng sông Cửu Long như sầu riêng Chín hóa, Bưởi da
xanh Hai Hoa, xoài cát Thanh Sơn… hầu hết đều do người nông
18
dân tự mày mò, rồi tự nhân giống lấy, chứ không phải của các viện
nghiên cứu hay các nhà khoa học tạo ra. Những thành quả đó là
đáng ghi nhận, nhưng nếu thiếu sự tác động của Nhà nước là đã bỏ
qua cơ hội để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn.
Đó là điều lý giải vì sao chỉ với 260.000ha, nhưng trái cây Thái Lan
đi khắp thế giới,
Tóm lại trước sức ép cạnh tranh khi hội nhập, Việt Nam chỉ có con
đường duy nhất là đầu tư công nghệ cho nông dân, bên cạnh đó là
có một chiến lược bài bản và bàn tay tổ chức của Nhà nước.
Chiến lược trong sản xuất và xuất khẩu nông sản tốt nhất nên bắt
đầu từ chính sách từ trên xuống. Chỉ có cách này mới tạo ra một nền
công nghiệp thực sự trong nông nghiệp. Chính vì sự thiếu chiến
lược tổng thể đó mà nền sản xuất nông nghiệp vẫn cứ manh mún,
nhỏ lẻ và rời rạc như những mảnh vườn của người nông dân. Những
mảnh vườn muôn màu sắc đem lắp ghép lại không thể thành bức
tranh muôn màu, mà chỉ làm nổi rõ hơn sự pha tạp.
2.2. Các cam kết và Lộ trình cắt giảm thuế hàng nông sản của
Việt Nam
- Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông
sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng
một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển
trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt
giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản
lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa
vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất
khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO
cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế.
19
- Thuế suất cam kết cuối cùng đối với các mặt hàng của ta trong
WTO là 13,4%, giảm so với mức hiện hành là 23%. Lộ trình giảm
thuế này của ta là 3-5 năm, có mặt hàng 7-11 năm.
- Đối với hàng nông sản, thuế suất cam kết cuối cùng là 21%, mức
cắt giảm so với hiện hành là 10,6%. So với tổng thể mức thuế tôi
nói ở trên là 23%, nông sản là 10,6%, chứng tỏ đã có một sự quan
tâm nhất định về bảo hộ hàng nông sản.
- Mặt hàng nông sản nào hiện có thuế suất 40-50%, ví dụ một số
mặt hàng nông sản chế biến thì sẽ phải giảm xuống, có mặt hàng cắt
giảm ngay.
Ví dụ thuế hiện hành của cá và sản phẩm cá là 29,3% thì thuế tại
thời điểm gia nhập là 29,1%, còn thuế suất cam kết cuối cùng là
18,1% và thời hạn cắt giảm kéo dài tới 5 năm. Hay thịt bò giảm từ
20% xuống 14% sau 5 năm, thịt lợn từ 30% xuống 15% sau 5 năm,
sữa nguyên liệu giảm khi gia nhập là 20%, nhưng thuế cuối cùng là
18% sau 2 năm, sữa thành phẩm giảm 30% xuống 25% sau 5 năm..
20
- Xem thêm -