Luận văn
Phân tích môi trường kinh
doanh của công ty liên doanh
Hà Nội Heritage Hotel
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang đứng trên ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới với những
chuyển biến sâu rộng và mạnh mẽ trên thế giới. Những thay đổi phức tạp của
tình hình khu vực và quốc tế, xu thế hội nhập và liên kết phát nhanh chóng đi
đôi với cạnh tranh kinh tế ngày càng quyết liệt giữa các quốc gia đang tác động
sâu sắc đến mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh của nước ta đặc biệt là trong
hoạt động kinh doanh khách sạn. Là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á,
với nhiều điều kiện để phát triển du lịch. Lượng khách du lịch đến Việt Nam
ngày một tăng với các nhu cầu càng cao, điều kiện này đã kéo theo sự ra đời của
hàng loạt các khách sạn, đây chính là minh chứng cho sự phát triển của du lịch
nước nhà.
Sau hơn mười năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, với nền kinh tế
mở đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu hơn về kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội,… giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua hơn một thập
kỷ đổi mới nền kinh tế nước ta đã có một diện mạo khác hẳn từ chỗ nền kinh tế
tự cung tự cấp phải nhạy bén chuyển sang những mặt hàng sự đa dạng bởi các
ngành nghề kỹ thuật mức thu nhập bình quân đầu người cũng tăng. Đây chính là
một bức đi vững chắc tạo tiền để cho sự gia tăng kinh tế bước vào thế kỉ 21.
Tuy nhiên sự chuyển đổi này vẫn còn mới mẻ đã làm cho những nhà kinh
doanh gặp phải nhiều khó khăn và tồn đọng những thiếu sót đó là điều không thể
tránh khỏi, sự thiếu kinh nghiệm thực tiễn về kinh tế thị trường, sự chủ quan duy
ý chí trong công tác quản lý, đặc biệt trong điều kiện kinh tế xã hội, tự nhiên,
văn hoá… của Việt Nam. Môi trường kinh doanh trong nền kinh tế nước ta nói
chung và trong lĩnh vực khách sạn nói riêng tồn tại và nảy sinh rất nhiều vướng
mắc đòi hỏi phải có sự phán quyết tổng thể từ nhiều phía.
Công ty liên doanh Hà Nội Heritage Hotel ra đời trong bối cảnh nền kinh
tế tăng trưởng cao với nhiều điều kiện thuận lợi trong những năm đầu đi vào
hoạt động, trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình công ty cũng đang
phải đối phó với nhiều vấn đề tiêu cực phát sinh từ môi trường kinh doanh.
2
Việc ra đời của các khách sạn nhằm đáp ứng các nhu cầu của khách sạn
du lịch về ăn ở, lưu trú… Hệ thống khách sạn Việt nam đã có sự phát triển mạnh
mẽ về số lượng và cũng có những chuyển biến cơ bản về mặt chất lượng. Có thể
nói hoạt động khách sạn những năm trước đây được đánh giá là lĩnh vực kinh
doanh có hiệu quả và thu hồi vốn nhanh nên đã thu hút nhiều thành phần kinh tế
tham gia.
Tuy nhiên, từ cuối năm 1997 đến nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế
nước ta trong đó có du lịch đang có su hướng chậm lại. Khách du lịch quốc tế
đến Việt nam năm 1998 giảm so với năm 1997. Do đó hoạt động khách sạn đã
gặp nhiều khó khăn. Năm 1998, trên địa bàn cả nước công suất sử dụng phòng
và giá phòng trung bình đều giảm từ 6-8% đi đôi với việc giảm công suất sử
dụng buồng phòng là xu hướng giảm giá thuê khách sạn…
Từ thực tế kinh doanh gặp nhiều khó khăn, vắng khách đã làm nảy sinh
tình trạng cạnh trang không lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh khách
sạn…
Như vậy đã đến lúc các khách sạn cần có một chiến lược thị trường cho
kinh doanh. Việc phân tích môi trường kinh doanh đối với các khách sạn là rất
cần thiết, nó là một trong những nguyên nhân tác động đến quá trình hoạt động
của các khách sạn.
Đứng trước giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của khách sạn
em nghiên cứu đề tài: “ Phân tích môi trường kinh doanh của công ty liên
doanh Hà Nội Heritage Hotel ”.
Bản chuyên đề này hi vọng giúp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu và tìm
ra những giải pháp đối với môi trường kinh doanh của khách sạn với mục đích
tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh phát triển.
3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH KHÁCH SẠN
1. Khái niệm
Trong một vài năm gần đây và nhất là từ sau khi chuyển đổi nền kinh tế
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì một thực trạng đang đặt ra
là lượng cung về khách sạn thuộc doanh nghiệp nhà nước lẫn khách sạn tư nhân,
có nhiều nhà nghỉ đã chuyển sang kinh doanh khách sạn. Điều này đã làm cho
sự mất cân đối về cung cầu, đã gây ra sự cạnh tranh khốc liệt dưới nhiều hình
thức.
Ngày nay trong nền kinh tế hiện đại, khách sạn không còn là một cái gì xa
lạ đối với con người. Nhưng để đưa ra một khái niệm chính xác về khách sạn thì
lại là một vấn đề khó và nan dải đối với các nhà kinh doanh khách sạn.
Trên các góc độ, các khía cạnh khác nhau thì họ lại có sự nhìn nhận riêng
về khách sạn, nhưng ta có thể hiểu đơn thuần về khách sạn đó là một loại hình
cơ sở phục vụ lưu trú, đáp ứng các nhu cầu về ăn ở, nghỉ ngơi… cho khách.
Nhưng điều đặt ra ở đây là khách sạn có điểm gì khác với các loại hình lưu trú
khác và nó ra đời khi nào … Điều lý giải ở đây là khách sạn có nhiều điểm khác
với các loại hình lưu trú khác và nó ra đời khi có nhu cầu dừng chân tạm thời
của du khách. Lúc đầy khách sạn nó chỉ là những nhà nghỉ nhà trọ mang tính
chất tạm thời, hầu như không có các dịch vụ bổ xung khác ngoài dịch vụ lưu trú
đơn thuần. Nhưng dần dần cuộc sống con người ngày càng phát triển, có khả
năng thanh toán cao cho nên nhu cầu của du khách lúc này cũng đòi hỏi cao hơn
nhằm thoả mãn tối đa hơn các nhu cầu của mình. Để đáp ứng các nhu cầu của du
khách thì các khách sạn lúc này không chỉ còn là những cơ sở lưu trú đơn giản
4
mà nó đã từng bước được nâng lên về mọi mặt, phát triển các hoạt động kinh
doanh lưu trú thành một ngành kinh doanh khách sạn.
Ngày nay, các khách sạn đã phát triển một cách hoàn hảo cả về quy mô
lẫn chất lượng phục vụ với sự đa dạng hoá các dịch vụ bổ sung nhằm đáp ứng
các nhu cầu cao nhất của khách du lịch.
Một định nghĩa phản ánh một cách tương đối tổng hợp về hoạt động kinh
doanh đó là định nghĩa của Bungari như sau: Khách sạn là cơ sở phục vụ lưu trú
phổ biến cho mọi khách du lịch nhiệm vụ chủ yếu của khách sạn sản xuất, bán
và phục vụ các dịch vụ, hàng hoá nhằm đáp ứng tối đa các nhu cầu cho du khách
về lưu trú, nghỉ ngơi, ăn uống, dưỡng bệnh theo mục địch chuyến đi của khách
du lịch ngoài các dịch vụ chính đó khách sạn còn đáp ứng các dịch vụ bổ xung
một cách đa dạng.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thì vấn lợi nhuận là vấn đề hàng
đầu đối với các khách sạn. Các khách sạn cần có các chính sách đường lối cho
hoạt động kinh doanh riêng của mình. Nhưng lợi nhuận mà các khách sạn tìm
kiếm không chỉ đảm bảo trước mắt mà còn lâu dài. Chính vì vậy, các khách sạn
không chỉ đơn thuần là đáp ứng các nhu cầu của khách mà còn phải làm sao đảm
bảo sự thoả mãn các nhu cầu đó. Khách hàng là mục tiêu hàng đầu trong kinh
doanh khách sạn cho nên trong quá trình cung cấp các sản phẩm, dịch vụ của
mình thì các sản phẩm, dịch vụ đó phải tạo cho khách một cảm giác xứng đáng
với đồng tiền mà họ bỏ ra. Có như vậy thì lòng tin của khách, uy tín cũng như
danh tiếng của khách sạn mới được củng cố và đứng vững trên thị trường.
Cho đến nay, có thể nói ngành kinh doanh khách sạn vẫn còn mới mẻ,
nhưng hệ thống khách sạn ở Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ về số lượng
và cũng có những chuyển biến cơ bản về mặt chất lượng. Tuy nhiên ngành kinh
doanh khách sạn vẫn còn tồn đọng nhiều yếu kém, nhất là công tác quản lý
khách sạn đã gây mất lòng tin của khách hàng và uy tín của khách sạn. Với tiềm
năng du lịch to lớn của khách sạn cùng với sự kiên trì và sáng tạo của khách sạn,
hy vọng ngành kinh doanh du lịch Việt Nam phấn đấu vươn lên để trở thành một
5
ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, vững bước để tiến vào thiên niên kỷ
mới.
2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh khách sạn
Hoạt động kinh doanh khách sạn cũng như các ngành hoạt động kinh
doanh khác, bên cạnh việc đáp ứng cung cấp các dịch vụ cho khách thì các
khách sạn cần phải có những chính sách đường lôí hành lang kinh doanh riêng
cho mình. Điều đặc biệt trong kinh doanh khách sạn có tính đa dạng phức tạp bị
ảnh hưởng nhiều của yếu tố chủ quan cũng như khách quan, sự phụ thuộc mạnh
mẽ giứa cung và cầu trong quá trình kinh doanh.
Trước đây, khi Việt Nam tiến hành chính sách kinh tế mở, sự giao lưu
khách kinh doanh và du lịch tăng vọt, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ của Việt
Nam trước đó không đủ tiêu chuẩn để đón khách nước ngoài thì vấn đề kinh
doanh lúc đó không mấy khó khăn, ít bị sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngành.
Nhưng đến nay, do lượng cung về khách sạn quá lớn đã làm cho tỉ suất buồng,
phòng giảm đi đáng lo ngại do tỷ lệ cung cầu khá chênh lệch. Đứng trước thực
trạng này đã đặt ra cho các nhà kinh doanh cần phải làm gì để kinh doanh khách
sạn đứng vững.
Do đặc thù của một ngành kinh tế tổng hợp, do tính đa dạng về mục đích
du lịch của từng đối tượng du khách, cho nên trong quá trình hoạt động kinh
doanh khách sạn, chỉ cần một tác động tích cực hay hạn chế ở từng khâu, từng
ngành có liên quan cũng đủ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của khách sạn.
Có thể nói, kinh doanh khách sạn là một hoạt động dịch vụ, các sản phẩm mà
khách sạn cung cấp cho khách chủ yếu là dịch vụ có kèm theo yếu tố dịch vụ
trong đó, bên cạnh đó khách sạn cũng cung cấp một phần nhỏ sản phẩm là sản
phẩm vật chất điển hình là ăn uống.
Điều đặc trưng của các dịch vụ trong khách sạn đó là yếu tố con người,
con người được xem như là một nhân tố góp phần đáng kể tạo nên chất lượng
sản phẩm, nó quyết định đến sự thành công của khách sạn.
6
Các sản phẩm dịch vụ trong khách sạn nó khác với các sản phẩm là hầu
hết các sản phẩm dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng tại chỗ (tại khách sạn), các
dịch vụ này không thể mang đi nơi khác để tiêu dùng, khi khách muốn tiêu dùng
nó thì phải di chuyển đến khách sạn. Hoạt động kinh doanh khách sạn nó chịu
sự chi phối của hai nhân tố đó là nhân tố khách quan tức là từ phía khách hàng
đem lại, thông qua sự cảm nhận của khách sạn có thể đánh giá về chất lượng sản
phẩm dịch vụ của mình. Nhân tố chủ quan (nhân tố từ phía khách sạn) như về
chất lượng phục vụ, cơ sở vật chất, kỹ thuật… Qua các nhân tố này nó phản ánh
được tình hình hoạt động kinh doanh của khách sạn.
Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh khách sạn thì cung phụ thuộc rất
nhiều vào cầu, khách sạn chỉ có thể hoạt động được khi có khách. Như vậy,
cung trong khách sạn có thể nói là tương đối ổn định, còn cầu trong khách sạn
luôn bị biến động. Sự biến động này có thể diễn ra theo năm, theo tháng, có thể
theo ngày. Vì vậy, hoạt động kinh doanh khách sạn luôn gặp khó khăn, nhất là
khâu bố trí lao động.
Hoạt động kinh doanh khách sạn nó còn bị ảnh hưởng bởi vị trí kiến trúc
– cơ sở vật chất kỹ thuật, ưu thế nó được thông qua cơ sở vật chất kỹ thuật và nó
cũng tạo được sự khác biệt với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường
3. Các nhân tố trong môi trường kinh doanh
3.1 Các nhân tố về môi trường vĩ mô.
*Các nhân tố về kinh tế
Các nhân tố về kinh tế có vai trò quan trọng và quyết định đến môi trường
kinh doanh của khách sạn, môi trường kinh tế nó bao trùm lên tất cả các hoạt
động của nền kinh tế mà khách sạn chỉ là một đơn vị kinh tế nằm trong một môi
trường kinh tế nhất định. Do vậy các nhân tố kinh tế nó làm nền tảng cho khách
sạn thực hiện hợp đồng kinh tế của mình.
Nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều thăng trầm, trong nhiều năm qua
thời kỳ đầu đổi mới và phát triển, nền kinh tế có sự tăng trưởng cũng như đạt
7
được những bước tiến qua trọng. Cơ cấu kinh tế của đật nước đã có sự biến đổi
đáng kể thể hiện qua tỉ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ dần dần tăng lên
tạo điều kiện cho ngành kinh doanh khách sạn phát triển. Bên cạnh đó, tuy cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và thế giới xảy ra đã gây ra những
tác động tiêu cực tới nền kinh tế của các nước Đông Nam Á trong khu vực
nhưng lại ảnh hưởng không quá lớn tới nền kinh tế nước ta. Chính vì vậy lượng
khách quốc tế vào Việt Nam giảm đi do đó ảnh hưởng bất lợi đến doanh thu và
hiệu quả của hoạt động kinh doanh khách sạn.
Khi nền kinh tế đang ở giai đoạn thịnh vượng thì chính sách của con
người cũng như thu nhập của họ được tăng lên, điều này đã làm cho con người
ham muốn đi du lịch hơn, mặt khác khi nền kinh tế tăng trưởng ở tốc độ cao nó
sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư thu hút vốn nước ngoài, phát triển các hoạt
động giao lưu kinh tế thương mại giữa các vùng, các nước trong khu vực.
Trong hoạt động kinh doanh khách sạn khi kinh tế tăng trưởng cao thì
mức độ đi du lịch của con người cũng tăng và khả năng thanh toán của họ lúc
này càng cao… qua đó cầu về khách sạn gia tăng sẽ thúc đẩy hoạt động kinh
doanh khách sạn phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng.
Ngược lại khi nền kinh tế ở vào giai đoạn trững lại, có xu hướng đi xuống
thì các hoạt động về giao lưu kinh tế, chính trị, văn hoá, sự thu hút vốn đầu tư
càng giảm…làm cho nhu cầu về khách sạn không tăng, hạn chế các hoạt động
kinh doanh khách sạn.
Về vấn đề lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp: Trước khi lạm phát ở vào giai
đoạn
* Nhà nước không có khả năng kiểm soát được đồng tiền. Nó chỉ có khả
năng tối ưu là bảo toàn giá trị các hoạt động giao lưu kinh tế gây ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh khách sạn. Trong điều kiện lạm phát thấp sẽ kìm hãm các
hoạt động kinh tế từ đó gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh khách sạn.
Còn khi tỷ lệ lạm phát ở mức trung bình thì các hoạt động kinh tế được thúc đẩy,
nó có tác dụng tích cực đến hoạt động kinh doanh khách sạn.
8
Chính sách lãi suất của Nhà nước có thể làm tăng hoặc kìm hãm các hoạt
động kinh tế, đầu tư… gây ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến lĩnh vực kinh doanh
khách sạn.
Tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước và các đồng ngoại tệ cao hay
thấp nó cũng tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động kinh doanh khách
sạn. Khi tỷ giá hối đoái cao nó sẽ thu hút được nhiều khách quốc tế vào Việt
Nam, còn tỷ giá hối đoái thấp thì ngược lại.
* Các nhân tố về chính trị, pháp luật
Các nhân tố này có vai trò làm nền tảng cơ sở để hình thành các yếu tố
khác của môi trường kinh doanh. Các nhân tố này có tác động hai mặt đến hoạt
động kinh doanh khách sạn.
Tác động tích cực: Khi mà chính trị, pháp luật ổn định, đường lối chính trị
rõ ràng nó sẽ tạo hành lang cho các hoạt động kinh tế phát triển thu hút được các
nhà đầu tư, các doanh nhân, các doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập vào thị
trường để tìm kiếm các cơ hội, các mối qua hệ liên doanh, liên kết kinh tế với
các doanh nhânvà doanh nghiệp trong nước. Khi pháp luật ổ định nó là hàng rào
bảo vệ cho các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh khách sạn
nói riêng, nó đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc đảm bảo quyền tự chủ trong sản
xuất kinh doanh của khách sạn.
Tác động tiêu cực: Tác động tiêu cực về chính trị pháp luật đối với các
hoạt động kinh doanh khách sạn thường gây ra do thể chế chính bất ổn và nền
tảng pháp lý lỏng lẻo, nhiều thiếu sót và nhiều khe hở. Các thể chế chính sách
thường thay đổi cũng như việc thực hiện các đường lối về chính trị và các quy
định của pháp luật gây khó khăn và nảy sinh nhiều tiêu cực bất lợi cho hoạt
động kinh doanh khách sạn trong nước và hoạt động giao lưu trong nước và hoạt
động giao lưu hợp tác kinh tế với nước ngoài …
* Các nhân tố về kỹ thuật công nghệ
Ngày nay khoa học kỹ thuật (KHKT) ngày càng được ứng dụng sâu rộng
trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, nó có vai trò ngày càng quan trọng và tính
9
chất quyết định đến môi trường kinh doanh của khách sạn. Sự bùng nổ của các
phát minh khoa học công nghệ trong hiện đại đã có những ảnh hưởng rất lớn đến
mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống. Các thành tựu KHKT, sự phát triển mạnh
mẽ của các lĩnh vực tưong tự đã đem lại những thuận lợi lớn trong sản xuất,
trong tiêu dùng, cũng như trong hoạt động kinh doanh khách sạn. Khách du lịch
có thể rút ngắn thời gianđặt chỗ trong khách sạn nào đó từ một nơi rất xa chỉ với
sự hỗ trợ của máy tính nối mạng, hoặc có thể đi du lịch hay tham quan bằng tàu
lặn biển dưới đáy đại dương sâu hàng nghìn mét … Chính vì vậy, đối với khách
sạn việc mua mới, lắp đặt các trang thiết bị mới, thay đổi công nghệ để đáp ứng
nhu cầu của khách du lịch ngày càng tăng. Tăng chất lượng và tránh sự lạc hậu
là một tất yếu không thể tránh khỏi. Đây chính là một vần đề đang được xem xét
quan tâm của các khách sạn mới ra đời với nhiều trang thiết bị hiện đại hơn đang
ngày càng gia tăng.
Kỹ thuật công nghệ mới nó tác động trực tiếp và quyết định đến hai yếu tố
tạo nên khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ khách sạn là giá và
chất lượng. Kỹ thuật công nghệ mới giúp cho khách sạn trang bị lại toàn bộ cơ
sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác kỹ thuật công
nghệ nó còn có tác động vào quá trình thu thập xử lý, lưu trữ và chuyền đạt
thông tin của khách sạn, giúp khách sạn nắm bắt mọi thông tin một cách nhanh
chóng kịp thời và chính xác…
* Các nhân tố về văn hoá-xã hội (VH-XH)
Các nhân tố về VH-XH nó bao gồm về phong tục tập quán, lối sống, thị
hiếu, tôn giáo, trính độ học vấn của dân trí, kết cấu dân cư, độ tuổi, nghề
nghiệp…
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có các phong tục tập quán, giá trị truyền
thống VH khác nhau. Các vấn đề đó đều ảnh hưởng sâu sắc, mạnh mẽ tới các
nhu cầu thị hiếu của khách, tình trạng thất nghiệp, các vấn đề tiêu cực XH… đó
là ảnh hưởng xấu về mặtVH của mỗi dân tộc.
VH-XH nó tạo nên một thị trường khách riêng biệt, nó mang những đặc
điểm phong thái riêng cho từng thị trường khách. Vì vậy đòi hỏi trong lĩnh vực
10
kinh doanh khách sạn việc nắm biết các nhu cầu thị hiếu của từng đối tượng
khách khác nhau là yếu tố tạo nên sự thành công trong quá trình kinh doanh.
Các nhân tố về VH-XH còn có tác động dung hoà lợi ích trong các mối
quan hệ liên doanh liên kết, hợp tác kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước
của khách sạn. Trong một môi trường kinh doanh có những người thuộc về các
dân tộc, quốc gia khác nhau… điều này dễ xảy ra các mâu thuẫn trong quá trình
giao tiếp, ứng xử của mỗi người. Đây là yếu tố có thể làm liên kết mọi người
cùng hoà đồng vì lợi ích chung.
* Các yếu tố về tự nhiên
Các nhân tố này bao gồm các yếu tố mang tính chất khách quan ngoài ý
chí của con người. Như là các yếu tố về đất đai, thời tiết, khí hậu. Chính các yếu
tố tự nhiên này đã tạo nên tính chất thời vụ trong du lịch, điều này đã tạo nên
những thuận lợivà khó khăn cho việc kinh doanh khách sạn.
Vấn đề phát triển du lịch nói chung và kinh doanh khách sạn nói riêng
đang cần được sự phát triển song song với việc bảo vệ môi trường, đó là hai vấn
đề đối lập nhưng lại thống nhất với nhau, có sự tác động hỗ trợ lẫn nhau.
3.2. Các nhân tố trong môi trường vĩ mô (môi trường cạnh tranh nội
bộ)
3.2.1 Khách hàng
Thị trường của kinh doanh khách sạn là khách du lịch. Khách du lịch là
đối tượngphục vụ của khách sạn có thể đáp ứng tất cả hoặc một phần nào đó của
khách du lịch về các nhu câù mua và tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ của khách
sạn, và khách du lịch là người có khả năng thanh toán, chi trả. Trong thời kỳ mà
cầu khách sạn nhỏ hơn cung thì khách du lịch chính là người quyết định đến kết
quả hoạt động kinh doanh của khách sạn. Thông qua sự tiêu dùng, cảm nhận và
đánh giá của du khách, khách sạn mới thừa nhận đúng về chất lượng phục vụ
cũng như sản phẩm dịch vụ của mình. Sự tín nhiệm yêu thích của quý khách đạt
được do khách sạn biết thoả mãn tốt hơn các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng
11
so với đối thủ cạnh tranh. Mặt khác do khách hàng là người có ưu thế ép giá
hoặc từ chối…
Sự đáp ứng các nhu cầu đối với khách là khác nhau do vậy khach sạn cần
phải xác định và phân loại khách hàng hiện tại và tiềm năng của mình. Đây là cơ
sở định hướng quan trọng cho việc hoạch định kế hoạchcho hoạt động kinh
doanh của mình.
3.2.2 Đối thủ cạnh tranh
Sự cạnh tranh giữa các đối thủ tuỳ thuộc vào mối quan hệ tương tác giữa
các đối thủ, tuỳ từng loại hình kinh doanh mà mức độ cạnh tranh mạnh hay yếu.
Sự cạnh tranh đó có thể mang yếu tố tích cực là tuỳ vào đối thủ cạnh tranh. Các
đối thủ cạnh tranh nhau quy định tính chất và mức độ cạnh tranh hoặc thủ thuật
giành lợi thế trong ngành phụ thuộc vào đối thủ cạnh tranh. Đối với hoạt động
kinh doanh khách sạn cần phải phân tích từng đối thủ cạnh tranh để nắm và hiểu
được các biện pháp phản ứng và hành động mà đối thủ có thể áp dụng. Để nắm
bắt được đối thủ cạnh tranh ta cần trả lời các câu hỏi:
- Đối thủ cạnh tranh là ai
- Mục đích của đối thủ cạnh tranh là gì ?
- Điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ.
- Đối thủ cạnh tranh là hiện tại hay tiềm ẩn.
Để đạt được hiệu quả trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi các khách sạn
phải phân tích kỹ lưỡng về đối thủ cạnh tranh, hạn chế sự thâm nhập của đối thủ
trên thị trường, duy trì hàng dào hợp pháp những ưu thế của đối thủ. Còn về phía
mình cần phải phát huy các thế mạnh, tạo ra được các sản phẩm mang tính độc
đáo, đặc thù của mình.
3.2.3 Sản phẩm thay thế.
Kinh doanh khách sạn là một loại hình kinh doanh phổ biến của nước ta là
loại hình kinh doanh chủ yếu về lưu trú và ăn uống. Nhưng ngày nay, trong nền
12
kinh tế thị trường với các nhu cầu đòi hỏi khác nhau của khách hàng nên đã
xuất hiện nhiều sản phẩm thay thế.
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế tạo mốt sức ép lớn đối với các nhà
kinh doanh khách sạn, nó làm hạn chế và phân tánlượng khách đến khách sạn do
mức giá cao bị khống chế. Các sản phẩm thay thế thường là cơ sở vật chất kỹ
thuật và chật lượng phục vụ không cao lắm nhưng lại dễ thu hút được khách.
Nguyên nhân là do mức giá thấp , thuận tiện. Các sản phẩm thay thế của khách
sạn có thể là các khu biệt thự, nhà nghỉ, nhà khách, các nhà cho thuê, …ngoài ra
còn các sản phẩm chuyên phục vụ các nhu cầu khác ngoài nhu cầu lưu trú như :
các khu trung tâm vui chơi giải trí, các câu lạc bộ thể thao, các nhà hàng, quán
bar… Các loại hình kinh doanh này nó có lợi thế mạnh vì mặt chuyên môn cao.
Đứng trước sức ép của các sản phẩm dịch vụ thay thế này thì câu hỏi đặt
ra cho các nhà kinh doanh khách sạn là làm thế nào để tạo ra tính hấp dẫn của
khách sạn đối với khách du lịch.
Câu hỏi đặt ra đối với các nhà kinh doanh khách sạn là:
- Đầu tư đổi mới nền kỹ thuật công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm
dịch vụ, tạo các đặc trưng riêng cho khách sạn, cần làm cho khách thấy được
tính ưu việt của loại hình kinh doanh khách sạn.
- Có những chính sách phân đoạn thị trường, tập chung khai thác khách
tiềm năng.
3.2.4 Hoạt động môi giới
Hoạt động môi giới chính là chiếc cầu nối giữa khách sạn với khách hàng
nhằm đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội. Việc nảy sinh ra các hoạt động
môi giới này chính là do tính đặc thù của kinh doanh du lịch.
- Đối với khách sạn thì thị trường khách thường ở xa và phân tán, nên để
cung cấp các thông tincho khách hàng khách sạn cần phải chi một khoản chi rất
lớn để quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình. Vì vậy để hạn chế được các chi
13
phí đó và thuận lợi cho việc nắm bắt, tiếp xúc nhanh chóng thìkhách sạn cũng
như khách hàng phải tìm đến một nơi chung gian đó là các nhà môi giới.
- Còn đối với các khách du lịch thì sao: Họ cũng cần phải có nhà môi giới
trung gian để cung cấp các thông tin đáng tin cậy, vì đối với khách du lịch việc
hiểu biết về các sản phẩm dịch vụ là rất hạn chế, họ rất ngại và nghi ngờ về các
sản phẩm, dịch vụ mà mình chưa nắm rõ thông tin… Các nhà môi giới chính là
người mang lại cho khách du lịch sự tin tưởng, yên tâm và cảm thấy hài lòng
trước khi tiêu dùng sản phẩm dịch vụ.
Do vậy, để thuận lợi cho cả hai bên thì sự ra đời của hoạt động môi giới là
một tất yếu trong nền kinh tế thị trường, hoạt động môi giới càng phát triển càng
làm cho thị trường thêm thông suốt và tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh khách sạn.
Những người môi giới ở đây là ai ? Đó chính là các đại lý, các công ty lữ
hành…Các đại lý, các công ty lữ hành có nhiệm vụ là cung ứng các sản phẩm
dịch vụ cho khách hàng, đưa đón khách đến khách sạn và được hưởng mức hoả
hồng do khách sạn trả. Các nhà môi giới này họ có lợi thế là có thể ép giá đối
với khách sạn, đây chính là một trở ngại cho hoạt động kinh doanh khách sạn.
3.3 Các nhân tố và môi trường bên trong (môi trường nội bội khách
sạn)
Môi trường bên trong bao gồm tất cả các yếu tố, các hoạt động và hệ
thống bên trong của khách sạn. Việc xem xét, phân tích môi trường bên trong
của khách sạn cũng bao hàm cả việc xác định rõ những điểm mạnh, điểm yếu
của mình. Qua đó có thể xác lập được chiến lược kinh doanh một cách tốt nhất.
Khách sạn cần phải phân tích một cách cặn kẽ các yếu tố nội bộ nhằm thấy được
các điểm mạnh điểm yếu của mình.
Các yếu tố môi trường nội bộ khách sạn bao gồm:
+ Tổ chức
+ Nguồn nhân lực
14
+ Tài chính kế toàn
+ Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật
+ Marketing
* Tổ chức:
Tuỳ thuộc vào điều kiện hoạt động kinh doanh của mình mà các khách
sạn có các hình thức, các kiểu tổ chức khác nhau. Các kiểu tổ chức đó được
đánh giá là tốt hay xấu được thể hiện thông qua tình hình kết quả hoạt động kinh
doanh của khách sạn. Một mô hình tổ chức tốt sẽ là động lực cho kết quả hoạt
động kinh doanh của công ty, còn ngược lại đó chính là sự cản trở, sự trì trệ
trong quá trình hoạt động. Cơ cấu tổ chức và nề nếp tổ chức định hướng cho
phần lớn công việc trong khách sạn. Nó cũng ảnh hưởng phương thức thông qua
quyết định của các nhà quản trị và quyết định của họ đối với các chiến lược và
điều kiện môi trường của khách sạn.
Như vậy đề đảm bảo tốt cho hoạt động kinh doanh thì tổ chức bộ máy
quản lý phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Bộ máy quản lý khách sạn phải bao quát tất cả các chức năng quản lý và
phải phù hợp với quy mô của hoạt động kinh doanh trong khách sạn.
+ Bộ máy quản lý khách sạn phải phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật
và phải phù hợp với phạm vi bao quát các hoạt động kinh doanh trong khách
sạn.
+ Bộ máy quản lý phải đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ sản xuất, kinh
doanh được giao hoặc tự xác định phù hợp với yêu cầu và điều kiện kinh doanh
trong từng giai đoạn phát triển.
+ Bộ máy quản lý phải được tổ chức một cách tinh giảm, gọn nhẹ, ít khâu
trung gian, ít đầu mối nhưng phải hoạt động hiệu quả.
Trong cơ cấu bộ máy bao gồm những bộ phận nằm trong một thể thống
nhất, các bộ phận đó được thiết lập với nhau bởi mối quan hệ. Các mối quan hệ
đó có thể là mối quan hệ giữa các cấp lãnh đạo với cấp dưới, hay giữa các cấp
15
dưới với nhau. Ban lãnh đạo là trung tâm điều hành các hoạt động của khách sạn
nên mối quan hệ giữa ban giám đốc công ty với cấp dưới là mối quan hệ theo
nguyên tắc mệnh lệnh một chiều.
* Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là do bộ phận chủ chốt trong hoạt động kinh doanh khách
sạn, con người là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Nguồn nhân lực được đánh giá
thông qua các chỉ tiêu về chất lượng và số lượng. Số lượng nguồn nhân lực trong
khách sạn phụ thuộc vào quy mô lớn nhỏ của khách sạn, phụ thuộc vào tính chất
công việc, loại hạng khách sạn. Còn chất lượng nguồn nhân lực nó được phản
ánh thông qua khả năng thực hiện công việc, năng suất, hiệu quả công việc. Tất
cả các chủ thể đó lại được đánh giá thông qua trình độ nghiệp vụ, tay nghề, kỹ
năng, kỹ sảo… Nguồn nhân lực trong khách sạn thường phân bố không đồng
đều ở các bộ phận khác nhau theo lứa tuổi, giới tính. Nguyên nhân này là do đặc
điểm của hoạt động kinh doanh khách sạn. Nguồn nhân lực trong khách sạn là
yếu tố mang tính chất quyết định chất lượngười và loại hạng khách sạn. cho nên
việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động cần được coi trọng, có các biện pháp
khuyến khích để động viên nhân viên hoàn thành nhiệm vụ.
* Tài chính-kế toán
Tài chính-kế toán có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức và điều hành hoạt động
bộ máy kế toán, thu chi tài chính và kiểm giá và khoán kinh doanh cho các bộ
phận. Tổ chức mạng lưới kế toán, kiểm giá, phân công công việc, kiểm tra giám
sát tình hình tài chính, thực hiện các chế độ báo cáo định kỳ, quản lý việc mua
sắm và xuất nhập tồn vật tư, hàng hoá, đào tạo và đánh giá nhân viên…Thực
hiện các báo cáo định kỳ theo yêu cầu của bộ tài chính và tổng cục thuế.
Kiểm tra, kiểm soát tiền vốn, tài sản, vật tư và thu chi tài chính của khách
sạn. Phân tích và đánh giá hoạt động kinh doanh, đề xuất các biện pháp để quản
chặt chi phí, nâng cao hiệu quả trong kinh doanh.
Các yếu tố về tài chính-kế toán bao gồm:
-Nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn.
16
-Khả năng hoạt động vốn của công ty.
-Các vấn đề về tiền gửi, lãi suất.
-Các chính sách thuế.
-Chính sách đầu tư ngắn hạn và dài hạn.
Trong kinh doanh khách sạn bộ phận tài chính kế toán bao gồm kế toán
trưởng và các kế toán viên.
Kế toán trưởng có chức năng giúp giám đốc khách sạn tổ chức và quản lý
toàn bộ công tác kế toán, tài chính, thống kê kinh tế…Hạch toán và lập các
phương án kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Kế toán viên có chức năng là giúp kế toán trưởng giải quyết các công việc
liên quan đến hoạt động tài chính-kế toán trong khách sạn.
Bộ phận tài chính có chức năng là phân tích lập kế hoạch và kiểm tra việc
thực hiện kế hoạch tài chính.
Nguồn tài chính là cơ sở để cho ban quản trị đề ra các mục tiêu chiến lược
tổng quát. Bộ phận tài chính cung cấp tất cả các thông tin trong tình hình hoạt
động khác nhau thông qua các sổ sách kế toán.
* Cơ sở vật chất-kỹ thuật:
Cơ sở vật chất-kỹ thuật là yếu tố quyết định đến quy mô và loại hạng
khách sạn, nó có ảnh hưởng lớn đến tiêu chuẩn chất lượng phục vụ của khách
sạn, vì vậy có thể lấy chỉ tiêu cơ sở vật chất-kỹ thuật để đánh giá chất lượng
phục vụ của khách sạn.
Cơ sở vật chất-kỹ thuật nó được đầu tư bằng nguồn vốn của khách sạn, nó
là những tài sản cố định có giá trị lớn được sử dụng trong suốt quá trình hoạt
động kinh doanh khách sạn. Cơ sở vật chất-kỹ thuật đó là gì ? Đó là những
phòng nghỉ, loại phòng, diện tích, nhà hàng, quầy bar, không gian sử dụng, số
phòng…Cùng với các trang thiết bị khác như máy điều hoà, tủ lạnh, tivi, điện
thoại…Do vậy đầu tư cơ sở vật chất-kỹ thuật được xác định ngay từ ngày đầu
thành lập, sao cho nó tương xứng, phù hợp với loại hạng khách sạn của mình.
17
* Marketing:
Marketing là bộ phận rất quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi
khách sạn. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường thì hoạt động Marketing không
chỉ hướng vào khách hàng mà chúng còn hướng vào tất cả các khâu trong quá
trình kinh doanh. Hoạt đông Marketing trong khách sạn chủ yếu tập chung vào
nghiên cứu các khâu như: phân đoạn thị trường, xác định khách hàng mục tiêu,
các kênh phân phối sản phẩm, chính sách giá cả sản phẩm, chính sách phân phối
và chính sách giao tiếp khuyếch trương.
Với chính sách sản phẩm khách sạn tập trung vào nghiên cứu việc xác
định chủng loại sản phẩm, cơ cấu sản phẩm dịch vụ thoả mãn tới điều kiện các
nhu cầu của khách du lịch, cần phân biệt hai sản phẩm đối với các đối thủ cạnh
tranh để đưa ra được các sản phẩm dịch vụ độc đáo.
Cùng với chủng loại sản phẩm đó là chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết
định sự thành công trong kinh doanh, chất lượng sản phẩm không chỉ dừng tại
chỗ mà phải luôn luôn cải tiến đưa chất lượng kịp với nhu cầu sở thích của
khách. Sự đổi mới sản phẩm là cách thức nhằm thu hút sự chú ý của khách,
dùng chính sách kéo để đưa khách về với khách sạn của mình.
Bên cạnh đó thì chính sách giá cả cũng cần phải được cụ thể hoá, như có
chính sách giảm giá cho đối tượng khách quen, khách đi theo đoàn, khách truyền
thống…Đưa ra các chính sách giá nhanh gọn cụ thể, giá trọn gói để phù hợp với
đối tượng khách. Nhất là ngày nay khi có sự cạnh tranh khốc liệt thì chính sách
giao tiếp khuyếch trương là rất cần thiết, phải trú trọng đến tất cả các công cụ để
đẩy mạnh doanh thu và củng cố uy tín địa vị của khách sạn trên thị trường.
Chính sách giao tiếp khuyếch trương phải đảm bảo thực hiện được mục tiêu
chiến lược Marketing của công ty làm thế nào để thu hút được khách hàng ? Uy
tín của khách sạn được nâng lên. Đây là vấn đề mà các nhà kinh doanh khách
sạn rất quan tâm và cố gắng hoàn thiện. Để đạt được những vấn đề đó cần phải
có sự vận dụng tổng hợp công nghệ kinh doanh, trong đó chính sách Marketing
là một chính sách quan trọng đẩy nhanh tới mục tiêu của công ty.
18
II. MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
1. Khái niệm môi trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh là một phạm trù rất phức táp và có nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp, công ty đều chịu sự
tác động của môi trường kinh doanh.
Vậy môi trường kinh doanh là gì ? chưa có một khái niệm chính xác và
toàn diện về môi trường kinh doanh. Theo nghĩa đen thì thật ngữ môi trường nó
dùng để thể hiện một không gian hữu hạn bao quanh một hữu hạn các sự vật
hiện tượng nhất định, môi trường là một thực thể phức tạp và luôn luôn biến đổi.
Môi trường kinh doanh có thể hiểu một cách đơn giản là một khung cảnh
bao trùm lên hoạt động kinh doanh. Nó bao gồm tổng thể các nhân tố bên trong
và bên ngoài, mang tính khách quan và chủ quan, nó vận động và tương tác lẫn
nhau, nó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh cũng như sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tác động này có thể thuận lợi hoặc khó
khăn cho hoạt động kinh doanh. Các nhân tố cấu thành môi trường kinh doanh
vừa tự vận động lại vừa tác động qua lại với nhau trở thành ngoại lực chính cho
sự vận động biến đổi của môi trường kinh doanh. Các nhân tố rất đa dạng,
phong phú. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp không chỉ thụ động
chịu sự tác động từ môi trường kinh doanh mà chính nó lại sản sinh ra các tác
nhân làm thay đổi đến môi trường kinh doanh.
Trong hoạt động kinh doanh khách sạn, môi trường kinh doanh được chia
thành các nhóm sau:
Nhóm các yếu tố môi trường vĩ mô.
Nhóm môi trường trực tiếp.
Nhóm môi trường bên trong doanh nghiệp.
Theo tính chấtcủa các nhân tố cấu thành môi trường kinh doanh người ta
phân thành:
Yếu tố chính trị.
19
Yếu tố kinh tế.
Yếu tố văn hoá xã hội.
Yếu tố công nghệ kỹ thuật.
Yếu tố địa lý sinh thái.
Theo mức độ tác động người ta phân thành:
Các nhân tố tác động trực tiếp.
Các nhân tố tác động gián tiếp.
Như vậy ta có thể thấy rằng môi trường kinh doanh tựa như một cỗ máy
khổng lồ rất phức tạp mà các doanh nghiệp tồn tại trong nóvà chịu sự tác động
qua lại của môi trường kinh doanh.
Để phát huy được các tác động của môi trường kinh doanh cũng như hạn
chế được các tác động tiêu cực của nó đến quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty.
Các doanh nghiệp nói chung và khách sạn nói riêng hoạt động trong cơ
chế thị trường cũng đều phải tiến hành việc phân tích các yếu tố môi trường
kinh doanh.
2. Ý nghĩa của việc phân tích môi trường kinh doanh.
Nghiên cứu, phân tích môi trường kinh doanh là điều kiện cần thiết, song
bởi tính đồ sộ của nó nên người ta đã nghiên cứu các nhóm nhân tố trong một
trừng mực coi chúng như là một môi trường bộ phận trong môi trường tổng thể.
Việc phân tích môi trường kinh doanh là một công việc hết sức khó khăn
và phức tạp nên đòi hỏi người phân tích phải có sự nhìn nhận trên các góc độ
khác nhau.
Nhìn nhận một cách tổng thể về môi trường kinh doanh là cơ sở để doanh
nghiệp phân ước tích đồng bộ các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh
để từ đó khai thác triệt để các lợi thế đồng thời ngăn ngừa những hạn chế có thể
xảy ra.
20
- Xem thêm -