SỞ GD&ĐT NAM ĐỊNH
TRƢỜNG THPT C NGHĨA HƢNG
SÁNG KIẾN DỰ THI CẤP TỈNH
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
Đề tài :
HỌC TẬP TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO
TRONG CHƢƠNG TRÌNH ĐỊA LÍ 10 - THPT
Ngƣời viết: Mai Thị Tuyết Nhung
Trình độ chuyên môn: Cử nhân sƣ phạm Địa lí
Chức vụ: Giáo viên Địa lí
Đơn vị công tác: Tổ Tổng hợp – trƣờng THPT C Nghĩa Hƣng
Nghĩa Hưng, tháng 5 năm 2015
1. Tên sáng kiến: Học tập trải nghiệm sáng tạo trong chương trình Địa lí lớp 10 -
THPT
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trong dạy học môn Địa lí 10
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 01 tháng 10 năm 2014 đến ngày 10 tháng 5 năm 2015
4. Tác giả:
Họ và tên: Mai Thị Tuyết Nhung
Năm sinh: 1992
Nơi thƣờng trú: Nam An – Nam Trực – Nam Định
Trình độ chuyên môn: Cử nhân sƣ phạm địa lí
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc:Trƣờng THPT C Nghĩa Hƣng
Điện thoại: 0914913899
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
5. Đồng tác giả: không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trƣờng THPT C Nghĩa Hƣng
Địa chỉ: Thị trấn Rạng Đông – Nghĩa Hƣng – Nam Định
Điện thoại 03503873162
1
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Hiện nay hội nhập nền kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế toàn cầu đòi hỏi ở
mỗi ngƣời sự năng động, nhạy bén, kĩ năng sống và vốn kiến thức phong phú. Xã hội
hiện đại luôn cần những con ngƣời có đủ yếu tố chân – thiện – mỹ, đức và tài. Đây cũng
chính là mục tiêu giáo dục hƣớng tới, đặc biệt trong thế kỉ 21- thế kỉ của tự do hóa,
thƣơng mại hóa. Để làm đƣợc điều đó, giáo dục phải không ngừng đổi mới, nâng cao
chất lƣợng phƣơng pháp đào tạo.
Học từ trải nghiệm thực tế, trải nghiệm sáng tạo là xu hƣớng, phƣơng pháp học
mới đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của những ngƣời làm giáo dục. Mô hình học tập từ
trải nghiệm ngày càng đƣợc nhân rộng và thu hút sự tham gia của nhiều ngƣời do tính
hiệu quả mà nó đem lại. Học tập trải nghiệm là một quá trình xã hội bao gồm hoạt động
dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này đƣợc liên hệ bằng vốn hiểu biết và kinh
nghiệm cụ thể của ngƣời học, trên cơ sở đó, giáo viên hệ thống hóa những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo, đáp ứng mục tiêu dạy học. Để thực hiện tốt hoạt động trải nghiệm sáng tạo
cần gắn thực tiễn nhà trƣờng với xã hội, hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất
cho học sinh đáp ứng những yêu cầu đổi mới giáo dục theo định hƣớng mà bộ giáo dục
đề ra cũng nhƣ đáp ứng kì vọng của những ngƣời dân vào nền giáo dục của đất nƣớc.
Tuy nhiên hiện nay hầu nhƣ chỉ mới tiến hành dạy lí thuyết, các hoạt động thực hành
chƣa triển khai đƣợc do thiếu thời gian, khó khăn về kinh phí. Do đó, kiến thức Địa lí
của học sinh thƣờng nghèo nàn, việc cung cấp và bổ sung kiến thức Địa lí cho học sinh
còn nhiều hạn chế.
Địa lí đƣợc coi là "ngành học về thế giới" đƣa vào giảng dạy ở các trƣờng phổ
thông nhằm mục đích trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về khoa học địa lí,
cũng nhƣ vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để biết cách ứng xử với môi
trƣờng tự nhiên và xã hội xung quanh, đồng thời đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất
nƣớc. Thực tế cho thấy, bộ môn địa lí khác với các môn khoa học tự nhiên khác ở chỗ:
đối tƣợng nghiên cứu của nó rất rộng, trải dài trên nhiều lãnh thổ và mỗi nơi lại có
những nét đặc trƣng. Vì thế, khi hình thành khái niệm địa lí (nhất là các khái niệm địa lí
chung) không có gì tốt bằng việc học sinh đƣợc tự mình trải nghiệm và rút ra khái niệm
sẽ làm vấn đề đƣợc rõ nét và khắc sâu hơn. Việc học trải nghiệm giúp tạo hứng thú cho
học sinh mà vẫn đảm bảo cung cấp kiến thức theo yêu cầu của chƣơng trình.
2
Đổi mới phƣơng pháp dạy học cũng là tổ chức dạy học theo lối mới, là tạo lập cho
quá trình dạy học những điều kiện, những giá trị mới. Đó là tạo cho học sinh những vị
thế, tiền đề, những điều kiện thuận lợi để hoạt động. Cụ thể là: ngƣời học phải trở thành
chủ thể của hành động, tích cực, tự giác chủ động và sáng tạo trong hoạt động để kiến
tạo kiến thức; tạo ra và duy trì ở học sinh những động lực học tập mạnh mẽ; phát triển ở
học sinh năng lực tự đánh giá. Bên cạnh đó đổi mới phƣơng pháp dạy học cần xác lập,
khẳng định vai trò, chức năng mới của ngƣời thầy trong quá trình dạy học. Cụ thể là
ngƣời thầy phải là ngƣời tổ chức, chỉ đạo điều khiển các hoạt động học tập tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh.
Xuất phát từ những lí do trên đồng thời ý thức đƣợc trách nhiệm của bản thân
trong việc nỗ lực tìm hiểu, học tập những định hƣớng mới trong giáo dục nhằm nâng cao
kiến thức chuyên ngành, góp phần nâng cao hiệu quả trong công việc giảng dạy tại
trƣờng phổ thông nên tôi quyết định chọn đề tài sang kiến“Học tập trải nghiệm sáng tạo
trong chương trình Địa lí lớp 10 - THPT”
II. Mô tả giải pháp:
1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
Ngày nay với sự phát triển nhƣ vũ bão của công nghệ thông tin, nền kinh tế mở
cửa hội nhập và trƣớc những yêu cầu của xã hội cần có sự đổi mới về đào tạo nhân lực
cho đất nƣớc. Giáo dục đƣợc coi là quốc sách hàng đầu, vì vậy, Đảng, Nhà nƣớc, các
tầng lớp nhân dân đặc biệt quan tâm và từ đó cũng đã đề ra những yêu cầu cho việc đổi
mới phƣơng pháp cũng nhƣ hình thức dạy học.
Bộ giáo dục - đào tạo tiếp tục đổi mới đồng bộ phƣơng pháp dạy học và hình thức
dạy học theo hƣớng tích cực, hiện đại, nhằm tăng cƣờng mỗi quan hệ thúc đẩy lẫn nhau
giữa các hình thức và phƣơng pháp tổ chức dạy học - giáo dục.
Đổi mới phƣơng pháp dạy học
Tiếp tục đổi mới phƣơng pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức kĩ năng của học sinh, khắc phục lỗi truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc; tăng cƣờng kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức; tập trung
dạy các học, cách nghĩ, khuyến khích tự học; đảm bảo cân đối giữa trang bị kiến thức,
rèn luyện kĩ năng và định hƣớng tái độ, hành vi cho học sinh; chú ý việc tổ chức dạy học
phân hóa theo năng lực của học sinh dựa theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chƣơng trình
giáo dục phổ thông.
3
Đẩy mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết vấn đề, các phƣơng pháp thực hành,
dạy học theo dự án trong các môn học; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp
với nội dung bài học. Quán triệt tinh thần giáo dục tích hợp khoa học – công nghệ - kĩ
thuật – toán (STEM) trong việc thực hiện chƣơng trình giáo dục phổ thông ở những môn
học liên quan.
Đổi mới hình thức tổ chức dạy học
Đa dạng hóa các hình thức học tập, chú ý các hoạt động trải nghiệm sáng tạo,
nghiên cứu khoa học của học sinh, sử dụng các hình thức dạy học trên cơ sở ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông nhƣ: dạy học trực tuyến, trƣờng học ảo…. Ngoài
việc tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp, cần coi trọng giao
nhiệm vụ và hƣớng dẫn học sinh học tập ở nhà, ở ngoài nhà trƣờng.
Tổ chức tốt và động viên học sinh tích cực tham gia Cuộc thi nghiên cứu khoa học kĩ
thuật học sinh trung học và cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình
huống thực tiễn dành cho học sinh trung học. Tăng cƣờng tổ chức các hoạt động nhƣ:
Hội thi thí nghiệm – thực hành của học sinh, Ngày hội công nghệ thông tin, Ngày hội sử
dụng ngoại ngữ, Ngày hội đọc…
Khuyến khích tổ chức, thu hút học sinh tham gia các hoạt động góp phần phát
triển năng lực của học sinh nhƣ: Văn hóa – Văn nghệ - Thể dục – Thể thao; các hội thi
năng khiếu; các hoạt động giao lƣu,… Trên cơ sở tự nguyện của nhà trƣờng, phụ huynh
và học sinh, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và nội dung học tập của học sinh trung
học, phát huy sự chủ động và sáng tạo của các địa phƣơng, đơn vị; tăng cƣờng tính giao
lƣu, hợp tác nhằm thúc đẩy học sinh hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng sống, bổ sung
hiểu biết về các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa thế giới. Không
lấy thành tích của các hoạt động giao lƣu nói trên làm tiêu chí để xét thi đua các đơn vị
có học sinh tham gia.
Trong những năm gần đây đổi mới phƣơng pháp dạy học Địa Lí đƣợc coi là xu
hƣớng đặc biệt quan trọng nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng dạy và học môn Địa Lí.
Các hoạt động đổi mới diễn ra theo ba xu hƣớng chính đó là: phát triển năng lực ở ngƣời
học, đổi mới theo hƣớng dạy học lấy học sinh làm trung tâm, đƣa công nghệ hiện đại
vào nhà trƣờng với tƣ cách ngƣời hỗ trợ hoạt động dạy học. Ngày nay với sự phát triển
khoa học kĩ thuật và sự tăng trƣởng không ngừng về kinh tế của các nƣớc trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng và cả những thay đổi về nền kinh tế thị trƣờng đòi hỏi
4
ngƣời giáo viên phải tạo ra những sản phẩm đó chính là thiết kế đƣợc phƣơng pháp mềm
dẻo linh hoạt giúp ngƣời học thích ứng và hòa nhập với cuộc sống hiện thực.
Theo triết lí giáo dục của Dewey: “Giáo dục là một hoạt động của đời sống, là bản
thân quá trình sống của trẻ chứ không phải là một sự chuẩn bị cho một cuộc sống tƣơng
lai mơ hồ nào đấy” . Điều đó đòi hỏi nhà trƣờng và giáo viên tạo ra một môi trƣờng học
tập vui chơi mà trong đó hoạt động của học sinh có chứa đựng cả những thách thức cần
vƣợt qua để học sinh tự mình tìm tòi và xây dựng kiến thức thông qua: kinh nghiệm, tƣ
duy, trải nghiệm của chính bản thân. Trải nghiệm làm cho hệ thống lí luận trở nên sâu
sắc và tinh tế hơn. Sự trải nghiệm bao hàm cả việc tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi là
đƣơng đầu với thất bại và đúc rút kinh nghiệm dựa trên kĩ năng cần có để giải quyết vấn
đề. Trải nghiệm là tự cá nhân phải chủ động tìm tới nó bằng tinh thần học hỏi hoàn thiện
tri thức - kĩ năng. Dù là trải nghiệm thực tế hay mô phỏng thì yêu cầu với học sinh vẫn
thực sự cần thiết.
Trên thực tế ở Việt Nam hệ thống các bài giảng Địa lí hiện nay nhìn chung còn
chƣa đa dạng, chủ yếu giáo viên sử dụng các nguồn kiến thức có sẵn trong SGK và sách
tham khảo, chƣa xây dựng đƣợc các bài giảng riêng biệt, đáp ứng mục tiêu dạy học, đặc
biệt là các bài học chƣa có tính liên hệ thực tiễn cao, nội dung bài tập còn nghèo nàn,
chƣa tạo đƣợc hứng thú học tập cho học sinh.
Đối với giáo viên: Hầu hết trong quá trình giảng dạy và đánh giá vẫn còn chú
trọng nhiều kiến thức lý thuyết chƣa chú ý phát huy năng lực, tƣ duy khoa học của học
sinh, chƣa có sự liên hệ, gắn kết với thực tiễn trong các bài học. Một số giáo viên vẫn
chƣa thực sự thấm nhuần tính cấp thiết, tầm quan trọng, bản chất phƣơng hƣớng và cách
thức đổi mới phƣơng pháp dạy học, hiểu biết về cơ sở lý luận, thực tiễn của đổi mới
phƣơng pháp dạy học còn chƣa sâu sắc. Đa số giáo viên vẫn chú trọng truyền thụ kiến
thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ với hỏi đáp, nặng về thông báo, giảng giải kiến thức,
nhẹ về phát huy tính tích cực và phát triển tƣ duy học sinh, học sinh tiếp thu kiến thức
một cách thụ động. Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, dạy theo lớp là chủ yếu.
Các hình thức dạy học cá nhân, ngoài trời chƣa đƣợc thực hiện, hoặc thực hiện chƣa có
hiệu quả. Cơ sở vật chất phục vụ dạy học, các phƣơng tiện dạy học còn thiếu và chƣa
đồng bộ. Việc tạo động cơ học tập đúng đắn cho học sinh và các hình thức khen thƣởng,
động viên ngƣời học chƣa đƣợc giáo viên quan tâm một cách thích đáng. Nhìn chung
giờ học Địa lí chƣa mang lại nhiều hứng thú cho học sinh.
5
Đối với học sinh: HS chƣa rèn luyện và phát huy đƣợc các năng lực cần có để
phục vụ các yêu cầu của ngƣời lao động trong tƣơng lai, nhƣ năng lực tính toán, năng
lực khoa học, năng lực giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó, việc ít có hứng thú và tiếp thu bài
học trong môn Địa lí nguyên nhân một phần cũng là do GV không tạo đƣợc sự hấp dẫn
và gắn kiến thức với thực tiễn trong mỗi bài dạy và bài tập của mình, khiến HS cảm thấy
nhàm chán và dành ít tình cảm, đam mê cho bộ môn này.
Việc đổi mới phƣơng pháp dạy học Địa lí là vô cùng cần thiết do yêu cầu của sự
phát triển kinh tế xã hội với việc đào tạo nhân lực trong giai đoạn mới và xu thế hội nhập
quốc tế. Có thể nói cách dạy và học Địa lí nhƣ một số giáo viên hiện nay đã gây ảnh
hƣởng không nhỏ đối với chất lƣợng dạy học, đồng thời hạn chế việc phát triển trí tuệ
của học sinh khi học môn Địa lí. Vì vậy tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ, có hiệu quả
các phƣơng pháp dạy học Địa lí là một trong những vấn đề quan trọng nhất cần phải
đƣợc tiếp tục quan tâm và tìm cách giải quyết.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
2.1. Đặc điểm nội dung môn học
* Mục tiêu của chương trình SGK Địa lí lớp 10 – THPT
Môn Địa lí trong nhà trƣờng phổ thông giúp HS có đƣợc những hiểu biết cơ bản,
hệ thống về Trái Đất- môi trƣờng sống của con ngƣời, về thiên nhiên và những hoạt
động kinh tế của con ngƣời trên phạm vi quốc gia, khu vực và thế giới đồng thời luyện
cho HS những kĩ năng hành động, ứng xử thích hợp với môi trƣờng – tự nhiên, xã hội.
Đó là một phần học vấn phổ thông cần thiết cho mỗi ngƣời lao động trong xã hội hiện
đại, trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Trên nền tảng kiến thức, kĩ
năng mà môn Địa lí trang bị cho HS thì môn học này cũng góp phần đáng kể vào việc
thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông. Với mỗi cấp lớp thì môn Địa Lí lại có mục tiêu
giáo dục ở một khía cạnh khác nhau.
Môn Địa lí lớp 10 mục tiêu định hƣớng mà HS cần có đƣợc:
Về kiến thức: Giúp HS hiểu và trình bày đƣợc những kiến thức phổ thông, cơ bản
về:
Trái Đất với ý nghĩa: môi trƣờng sống của con ngƣời bao gồm các thành phần cấu
tạo và tác động qua lại của chúng, một số quy luật chủ yếu của lớp vỏ địa lí.
Địa lí dân cƣ và một số khía cạnh văn hóa, xã hội của dân cƣ.
Các hoạt động kinh tế chủ yếu của con ngƣời trên Trái Đất.
6
Mối quan hệ giữa dân cƣ, các hoạt động sản xuất với môi trƣờng và sự phát triển
bền vững.
Về kĩ năng: Củng cố và tiếp tục phát triển ở học sinh các kĩ năng:
Quan sát, nhận xét, phân tích, tổng hợp, so sánh các sự vật, hiện tƣợng địa lí cũng
nhƣ kĩ năng đọc và sử dụng bản đồ, biểu đồ, số liệu thống kê.
Kĩ năng thu thập, trình bày thông tin địa lí.
Vận dụng kiến thức trong chừng mực nhất định để giải thích các sự vật, hiện
tƣợng địa lí và bƣớc đầu tham gia giải quyết các vấn đề của cuộc sống, sản xuất gần gũi
với học sinh trên cơ sở tƣ duy kinh tế, tƣ duy sinh thái, tƣ duy phê phán.
Về thái độ, hành vi: Góp phần bồi dƣỡng cho HS
Có tình yêu thiên nhiên, con ngƣời, ý thức và hành động thiết thực bảo vệ môi
trƣờng xung quanh.
Có ý thức quan tâm đến một số vấn đề liên quan đến Địa lí học ở trong và ngoài nƣớc.
Thấy rõ trách nhiệm của bản thân trong công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội của
địa phƣơng và đất nƣớc.
Đây là những nội dung kiến thức cơ bản về tự nhiên và kinh tế xã hội có thể áp
dụng phƣơng pháp dạy học trải nghiệm. Những mục tiêu này góp phần định hƣớng cho
hoạt động học tập trải nghiệm dễ dàng đạt đƣợc hiệu quả. Các mục trên giúp cho GV dễ
dàng lựa chọn nội dung có thể trải nghiệm và việc soạn thảo, tổ chức học tập trải nghiệm
sáng tạo bám sát với nội dung chƣơng trình. Việc thiết kế và sử dụng hình thức tổ chức
học tập trải nghiệm phụ thuộc vào mục tiêu của bài học, chủ đề mà giáo viên xây dựng
dựa trên chƣơng trình chuẩn. Để hình thành cho học sinh những kiến thức cơ bản cần
thiết, rèn luyện kĩ năng Địa Lí, thái độ và hành vi đúng đắn. Đồng thời khơi dậy ở các
em lòng say mê, hứng thú học tập, bƣớc đầu tập duyệt nghiên cứu khoa học. Học sinh sẽ
luôn đƣợc tạo một không gian học tập tích cực, cảm thấy có nhu cầu tự học, biến hóa
quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
* Nội dung chương trình Địa Lí lớp – 10 THPT
Chƣơng trình và SGK Địa lí 10 chuẩn đã đƣợc soạn thảo theo quan điểm đổi mới.
Chƣơng trình của SGK Địa lí 10 đã thể hiện rõ tính khoa học, tính hiện đại và tính thực
tiễn trong một cấu trúc logic, hợp lí, đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu đào tạo của nhà
trƣờng phổ thông. Chƣơng trình Địa lí lớp 10 – THPT gồm 2 phần: Địa lí tự nhiên đại
cƣơng, Địa lí kinh tế - xã hội đại cƣơng.
7
Phần Địa lí tự nhiên đại cƣơng: Trong phần này, chƣơng trình đề cập đến các
vấn đề tự nhiên gắn với cuộc sống của con ngƣời trên Trái Đất nhƣ sử dụng bản đồ trong
học tập và đời sống, những quy luật của tự nhiên cũng nhƣ cấu trúc của lớp vỏ địa
lí….và đƣợc cụ thể qua các bài sau:
- Về mặt lí thuyết, phần này có đề cập tới 4 nội dung cơ bản sau:
+ Chƣơng 1: Bản đồ: Giới thiệu về phép chiếu hình bản đồ, một số phƣơng pháp
thể hiện trên bản đồ, sử dụng bản đồ trong học tập và đời sống.
+ Chƣơng 2: Vũ trụ. Hệ quả các chuyển động của Trái Đất: Cung cấp những kiến
thức về vũ trụ, hệ quả chuyển động của Trái Đất từ đó giúp HS hiểu đƣợc cấu tạo về
Trái Đất, hệ Mặt trời và vũ trụ. Giúp HS hiểu và giải thích các hiện tƣợng xảy ra xung
quanh mình nhƣ hiện tƣợng mùa, ngày đêm luân phiên….
+ Chƣơng 3: Cấu trúc của Trái Đất. Các quyển của lớp vỏ địa lí: Cung cấp cho
học sinh các kiến thức về Trái Đất, có những tác động nào lên bề mặt Trái Đất. Cung cấp
kiến thức về các mảng thạch quyển, khí quyển, thổ nhƣỡng quyển, sinh quyển, thủy
quyển.
+ Chƣơng 4: Một số quy luật của lớp vỏ Địa lí. Tìm hiểu một số quy luật của lớp
vỏ địa lí nhƣ quy luật thống nhất và hoàn chỉnh, quy luật địa đới và quy luật phi địa đới.
- Về mặt thực hành: Chƣơng trình Địa lí có đan xem bài thực hành và các bài tập
củng cố cuối bài và các dạng bài khác nhau nhằm phát triển ở HS các kĩ năng nhƣ: Làm
rõ lý thuyết và rèn luyện kĩ năng đọc, phân tích bản đồ, các hiện tƣợng tự nhiên, phân
tích các biến đổi liên quan đến các hiện tƣợng tự nhiên.
Phần Địa lí kinh tế - xã hội đại cƣơng: Phần này trình bày khái quát địa lí kinh
tế - xã hội cụ thể:
- Về mặt lý thuyết gồm 6 nội dung:
+ Chƣơng 5: “Địa lí dân cƣ” tìm hiểu về tình hình dân cƣ trên thế giới, sự gia tăng
dân số, cơ cấu dân số, đặc điểm phân bố dân cƣ, các loại hình quần cƣ và đô thị. Học
sinh làm quen, nhận biết, có thể vẽ đƣợc tháp tuổi. Thực hành phân tích bản đồ thế giới.
+ Chƣơng 6: “Cơ cấu kinh tế” nguồn lực phát triển kinh tế là gì? Cơ cấu nhƣ thế
nào? Có mấy loại cơ cấu?
+ Chƣơng 7,8,9: “Địa lí nông nghiệp” , “Địa lí công nghiệp”, “Địa lí dịch vụ” HS
đƣợc tìm hiểu về địa lí các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Ở mỗi chƣơng
nói về một ngành kinh tế tuy nhiên đều cung cấp cho HS tìm hiểu về vai trò, đặc điểm,
các nhân tố ảnh hƣởng tới phát triển và phân bố của ngành.
8
+ Chƣơng 10: “Môi trƣờng và sự phát triển bền vững” HS sẽ đi tìm hiểu về môi
trƣờng, chức năng, vai trò của môi trƣờng đối với sự phát triển loài ngƣời. Tài nguyên
thiên nhiên- cách phân chia tài nguyên thiên nhiên. Môi trƣờng và sự phát triển bền
vững, điều kiện để phát triển bền vững. Vấn đề môi trƣờng và phát triển bền vững ở các
nƣớc phát triển và đang phát triển
- Về mặt thực hành: Nội dung chƣơng trình nhằm vào việc rèn luyện kĩ năng phân
tích số liệu thống kê, xây dựng biểu đồ trên cơ sở số liệu đã cho cũng nhƣ đọc và phân
tích bản đồ dân cƣ, kinh tế - xã hội….
Tuy nhiên chƣơng trình giảm tải một số bài sau: Bài 1; mục 1 phần 1 bài 11; Phần
I bài 13; mục b phần 2 bài 14; Phần II bài 24; câu hỏi 2 bài 25; mục 3 phần III bài 27;
Phần II bài 29; Phần II câu 2 và phần III, V bài 32; bài 39; phần IV bài 40.
Cấu trúc cũng nhƣ nội dung mang tính hệ thống và khái quát cao, phù hợp với các
yêu cầu học tập của HS. SGK mới có cấu trúc logic, rõ ràng, hệ thống kiến thức chi tiết,
có tính gợi mở cao, thuận lợi cho dạy và học. Nội dung SGK cũng đƣợc lựa chọn những
kiến thức có tính tiêu biểu, nổi bật nhất về địa lí tự nhiên cũng nhƣ những nét khái quát
về kinh tế xã hội. Nội dung này giúp HS có các hiểu biết về các vấn đề địa lí tự nhiên,
các quy luật địa lí tự nhiên, HS có khả năng giải thích, vận dụng kiến thức địa lí tự nhiên
để nghiên cứu, đánh giá các vấn đề của cuộc sống. Các kiến thức trong sách đƣợc tỉnh
giản và trình bày ngắn gọn nhằm mục đích hình thành các kĩ năng cho HS chứ không chỉ
dừng lại ở cung cấp những kiến thức sẵn có. HS đƣợc tạo điều kiện làm việc với những
lƣợc đồ, biều đồ, số liệu thống kê,… qua đó khả năng tƣ duy, sáng tạo tính tích cực cũng
đƣợc phát triển. Bên cạnh đó, do có nhiều nội dung mở tạo điều kiện cho việc áp dụng
xây dựng các nội dung để áp dụng phƣơng pháp học tập từ trải nghiệm. Để HS hiểu
đƣợc ý nghĩa của các vấn đề của địa lí với thực tiễn cuộc sống, có khả năng vận dụng
các kiến thức đã đƣợc học để giải quyết vấn đề, và có hứng thú, say mê hơn với môn Địa
lí, GV cần phải xây dựng các bài học trải nghiệm có nội dung sao cho phù hợp với mục
đích, yêu cầu và đạt hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, cần thiết phải xây dựng và sử dụng
phƣơng pháp dạy học trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực của ngƣời học, là
công cụ học tập hiệu quả, phục vụ đắc lực cho việc học tập môn Địa lí nói chung và là
tiền đề để HS phát triển kiến thức từ khái quát đến cụ thể ở cấp lớp tiếp theo.
2.2. Khái quát về dạy học trải nghiệm
Trên thế giới có nhiều quan niệm đƣa ra về dạy học trải nghiệm:
9
Theo David Kolb “học tập qua trải nghiệm” (experiential learning) là một cách
học thông qua làm, với quan niệm việc học là quá trình tạo ra tri thức mới trên cơ sở trải
nghiệm thực tế, dựa trên những đánh giá, phân tích trên những kinh nghiệm, kiến thức
sẵn có. Những nguyên tắc và khái niệm về học thuyết này đã đƣợc sử dụng rộng rãi để
phát triển và phổ cập các chƣơng trình học phổ thông, giáo dục đại học và đào tạo
chuyên nghiệp.
Hiệp hội “Giáo dục trải nghiệm” quốc tế lại quan niệm về học qua trải nghiệm “là
một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy khuyến khích người học
tham gia các trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tống kết lại để tăng cường hiểu biết,
phát triển kĩ năng, định hình các giá trị sống và phát triển các năng lực bản thân, tiến
tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội.”
Thuật ngữ học tập trải nghiệm xuất hiện đƣợc kì vọng nhƣ một cách làm mới nền
giáo dục vốn mang đậm nét truyền thống ở Việt Nam. Cách học này đã chỉ ra phƣơng
pháp cách thức giáo dục nhân cách con ngƣời Việt Nam mới, năng động sáng tạo theo
yêu cầu của xã hội.
Học tập trải nghiệm là một phƣơng thức của hoạt động. Ở Việt Nam ngƣời
nghiên cứu phát triển ứng dụng lí thuyết hoạt động vào nhà trƣờng chính là GS.VS.
Phạm Minh Hạc ông theo ông thông qua hoạt động của chính cá nhân, bản thân mới
đƣợc hình thành và phát triển. Nhƣ vậy, trong học tập và giáo dục, rèn luyện, việc lĩnh
hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, lĩnh hội các giá trị xã hội là hoạt động của ngƣời học. Con
ngƣời có tự hoạt động mới biến kiến thức, kinh nghiệm mà xã hội tích lũy đƣợc thành
tri thức của bản thân. GS.VS. Phạm Minh Hạc viết “Hoạt động không chỉ rèn luyện trí
thông minh bằng hoạt động, mà còn thu hẹp sự cưỡng bức của nhà giáo thành sự hợp
tác bậc cao”.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam “trải nghiệm” đƣợc diễn dải theo hai nghĩa:
theo, nghĩa rộng trải nghiệm “là bất kì một trạng thái có màu sắc cảm xúc nào được chủ
thể cảm nhận, trải qua, đọng lại thành bộ phận (cung với tri thức, ý thức…) trong đời
sống tâm lí của từng người”, theo nghĩa hẹp trải nghiệm “là những tín hiệu bên trong,
nhờ đó các sự kiện đang diễn ra đối với cá nhân được ý thức, chuyển thành ý kiến ca
nhân, góp phần lựa chọn tự giác các động cơ cần thiết, điều chỉnh hành vi cá nhân”.
Từ những kết quả nghiên cứu các lí thuyết trên có thể thấy học tập trải nghiệm
sáng tạo là phƣơng thức hoạt động chỉ sự tƣơng tác, sự tác động của chủ thể với đối
tƣợng xung quanh và ngƣợc lại. Đây là hoạt động của chính bản thân chủ thể. Những
10
hoạt động này vừa mang tính trải nghiệm, thử và sai, vừa là cách thức nhận thức, tác
động của riêng mỗi chủ thể. Qua hoạt động giải quyết vấn đề mà thu nhận những giá trị
cần thiết cho bản thân đó chính là quá trình mang tính trải nghiệm. Mục đích của giáo
dục hƣớng cho ngƣời học sống ở tƣơng lai. Học tập trải nghiệm sáng tạo nhấn mạnh đến
sự trải nghiệm, thúc đẩy năng lực sáng tạo của ngƣời học.
Học tập trải nghiệm khuyến khích học sinh hoạt động một cách tích cực và chủ
động. Hoạt động trải nghiệm chủ yếu tạo ra cho học sinh nhiều trải nghiệm để các em
khám phá từng bƣớc khả năng sáng tạo của chính mình. Học sinh không phải học thuộc
lòng ý nghĩa hay giá trị của mỗi chủ đề bài học mà các em đƣợc rèn luyện óc quan sát,
cách miêu tả hay cách phỏng vấn đề. Học sinh đƣợc làm quen với các phƣơng pháp
nghiên cứu, thu thập tài liệu, thảo luận và xử lí thông tin, trình bày bằng các hình thức đa
dạng nhƣ triển lãm, thuyết trình, báo tƣờng, kịch nói,… các kết quả tìm hiểu của mình
hay của nhóm. Sự đam mê, chủ động khám phá dẫn các em đến sự sáng tạo trong học
tập. Đây là một môi trƣờng rèn luyện kĩ năng sống một cách bổ ích, thiết thực, hấp dẫn
và sinh động nhất. Học tập trải nghiệm có một số đặc điểm sau:
- Học tập trải nghiệm mang tính xã hội, địa phương: Khi tham gia hoạt động, học
sinh đƣợc tiếp xúc và hợp tác với bạn bè, chuyên gia trong lĩnh vực tìm hiểu, các nhân
vật trong xã hội; tiếp cận các sự kiện, các nguồn lực khác nhau trong xã hội thƣờng có
thể là địa phƣơng hay một vùng miền nào đó trên đất nƣớc ta.
- Tính linh hoạt về nội dung và hình thức: Với nội dung đa dạng thuộc nhiều lĩnh
vực tự nhiên - xã hội, nghệ thuật và thể thao, hƣớng nghiệp trên cơ sở sự lựa chọn theo
nhu cầu của học sinh, bối cảnh địa phƣơng, giá trị chung của công dân thế kỷ XXI. Có
những hoạt động tổ chức tại trƣờng, có những hoạt động bên ngoài trƣờng với nhiều
hình thức linh hoạt, sáng tạo.
- Học tập trải nghiệm hướng đến các giá trị nhân văn: Đặc điểm của học tập trải
nghiệm sáng tạo là luôn đề cao tính tự chủ, sáng tạo của ngƣời học; khẳng định cái tôi,
giá trị của bản thân; nêu cao tinh thần hợp tác, tƣơng trợ và giúp đỡ nhau trong công việc
và trong cuộc sống.
- Học tập trải nghiệm sáng tạo khai thác tối đa các nguồn lực của xã hội cả về
con người và cơ sở vật chất. Đó có thể là sự đóng góp về trí tuệ của cộng đồng, đó là cơ
sở vật chất. Minh chứng là sự thành công của một cá nhân nào đó trong nghề nghiệp, đó
là cơ sở vật chất để học sinh trải nghiệm và sáng tạo…
11
- Cách dạy học trải nghiệm không nhằm truyền thụ kiến thức một chiều cho học
sinh những kiểu kiến thức hàn lâm, cũng không dừng lại ở việc giúp học sinh nắm bắt
đƣợc nội dung đề cập đến trong mỗi chủ đề, mà cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp
cận, khám phá những vấn đề nội dung và ý nghĩa của bài học, từ đó hình thành cho học
sinh phƣơng pháp đọc và quan sát một cách tích cực, chủ động, có quan điểm và chính
kiến cá nhân. Sự tƣơng tác giữa học sinh với học sinh và học sinh với giáo viên đƣợc đánh
giá rất cao. Học sinh đƣợc kì vọng sẽ suy nghĩ về kiến thức mà mình đƣợc dạy rồi liên hệ
thực tế, phát triển, trình bày ý kiến của riêng mình. Các em đƣợc tự do đặt câu hỏi và có
thể phê bình về những gì mà giáo viên và các bạn cùng lớp nói đồng thời sử dụng sự sáng
tạo, trải nghiệm thực tế của riêng mình để áp dụng các kiến thức vừa học đƣợc.
- Dạy học trải nghiệm sáng tạo thiên về phương pháp, kĩ năng giúp học sinh phát
triển được năng lực đọc hiểu vấn đề, có thái độ tích cực để tự mình tiếp cận và xử lí
những thông tin đã được học, trải qua, hay đang trực tiếp trải nghiệm được. Với phƣơng
pháp học này giáo viên cần thƣờng xuyên gắn các nội dung dạy học với đời sống xã hội
giúp các em học sinh có thể huy động đƣợc những trải nghiệm cá nhân ngƣời học trong
tiếp cận thông tin. Khi đã đƣợc trang bị cách học, phƣơng pháp học, phƣơng pháp quan
sát, học sinh có đủ năng lực huy động các kiến thức, kĩ năng cần thiết để xử lí các tình
huống, bài tập theo định hƣớng năng lực cụ thể đƣợc đặt trong các đề kiểm tra. Do hiểu
bản chất vấn đề nên học sinh có thể chủ động ứng phó và làm bài không quá máy móc
dập khuôn nhƣ cách học truyền thống.
Đối với môn Địa lí là một trong những môn học có tính thực tiễn cao, cách học
này không chỉ cung cấp cho HS kiến thức phổ thông, cơ bản, cần thiết về Trái Đất, về
những hoạt động sống của con ngƣời trên bình diện quốc gia và quốc tế, mà còn rèn
luyện kĩ năng, thái độ, hành vi nhằm đào tạo những ngƣời lao động hoàn thiện trong
tƣơng lai, đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, hiện tại thời lƣợng học ít, nếu ít liên hệ với thực tiễn thì học sinh sẽ
cảm thấy nhàm chán, khó tiếp thu kiến thức. Bởi vậy đòi hỏi ở ngƣời giáo viên, ban
giám hiệu nhà trƣờng có tƣ duy sáng tạo dám đổi mới cách dạy học và môn học đồng
thời cũng cần có sự tâm huyết thiết kế những bài học thật hay để giảm bớt sự nhàm
chán, khô khan trong những bài lí luyết trƣu tƣợng và hàn lâm sự chƣơng trình Địa lí lớp
10 THPT.
Thực tế cho thấy những bài học phù hợp với từng lứa tuổi những bài học hòa
đƣợc vào tình yêu thiên nhiên, đất nƣớc, con ngƣời sẽ vun đắp cảm xúc, trải nghiệm
12
thực tế cho học sinh từ đó các em lĩnh hội giá trị nhân văn từng bƣớc hình thành nhân
cách, lối sống chuẩn mực. Môn học sẽ bổ ích, hấp dẫn hơn nếu bên cạnh giờ học trên lớp
nhà trƣờng, giáo viên tổ chức cho học sinh các hoạt động trải nghiệm nhƣ đi thăm bảo
tàng, di sản văn hóa địa phƣơng, vƣờn quốc gia,… Có nhƣ thế học sinh mới hiểu ra
những vấn đề thực tế, có ý thức giữ gìn môi trƣờng, phát huy truyền thống văn hóa dân
tộc đồng thời giúp các em hình thành đức tính tốt, những hành vi sống đẹp, sống có ý
nghĩa. Mỗi hoạt động trải nghiệm gắn với tính thời sự của chủ đề bài học giống nhƣ
luồng gió tƣới mát tâm hồn, giúp học trò hình thành nhân cách, lối sống đẹp, có trách
nhiệm với gia đình, xã hội.
* Mô hình về nghiên cứu ứng dụng dạy học trải nghiệm
Hình - Mô hình về nghiên cứu và đào tạo thực nghiệm của Lewin
Ngƣời ta cho rằng Lewin là bậc thầy của sự hiểu biết về khoa học lí thuyết hành
vi ứng dụng và những hoạt động nghiên cứu. Từ mô hình về nghiên cứu và đào tạo thực
nghiệm của Lewin học tập đƣợc phân chia thành bốn giai đoạn trong chu trình. Kinh
nghiệm rời rạc lúc đầu là cơ sở cho quan sát và phản tỉnh. Những quan sát này đồng hóa
trong một “học thuyết” từ đó ứng dụng mới cho hành động này có thể đƣợc khơi nguồn.
Những ứng dụng hay lý thuyết này đóng vai trò hƣớng dẫn trong việc thực hiện sáng tạo
kinh nghiệm mới.
Mô hình học tập này đặc biệt có giá trị. Đầu tiên nhấn mạnh vào kinh nghiệm rời
rạc để đánh giá và thử khái niệm trừu tƣợng. Kinh nghiệm rời rạc hay kinh nghiệm cá
nhân là tiêu điểm của học tập, đƣa cuộc sống, kết nối và ý nghĩa cá nhân chủ quan đến
với khái niệm trừu tƣợng và cùng thời điểm cung cấp bằng chứng cụ thể đƣợc chia sẻ
13
cộng đồng để đánh giá tính ứng dụng và giá trị của ý tƣởng đƣợc sáng tạo trong quá
trình học tập. Khi con ngƣời chia sẻ kinh nghiệm, họ có thể chia sẻ hoàn toàn, cả những
điều cụ thể và trừu tƣợng. Khía cạnh thứ hai, nghiên cứu ứng dụng và đào tạo thực
nghiệm dựa trên quá trình phản hồi để miêu tả một quá trình học tập xã hội và giải quyết
vấn đề khái quát các thông tin có giá trị nhằm đánh giá sai lệch từ mục tiêu đề ra. Phản
hồi thông tin là một quá trình liên tục của các hành động và đánh giá hƣớng mục tiêu
cũng nhƣ hiệu quả của hành động đó. Mục tiêu của phƣơng pháp thực nghiệm và nghiên
cứu ứng dụng là kết hợp hai quan điểm này thành một quá trình học tập theo hƣớng mục
tiêu và hiệu quả. Chính là bƣớc hình thành khái niệm trừu tƣợng và khái quát hóa và
hình thành khái iệm trừu tƣợng và khái quát hóa. Mô hình này đề cao tính ứng dụng, áp
dụng thực tế đòi hỏi ở ngƣời học có sự tƣ duy phán đoán và suy xét trƣớc khi đƣa ra một
kết luận cụ thể.
* Hình thức học tập trải nghiệm
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trƣờng phổ thông có hình thức tổ chức
rất đa dạng, phong phú. Cùng một chủ đề, một nội dung giáo dục nhƣng hoạt động trải
nghiệm sáng tạo có thể tổ chức theo nhiều hình thức hoạt động khác nhau, tùy theo lứa
tuổi và nhu cầu của học sinh, tùy theo điều kiện cụ thể của từng lớp, từng trƣờng, từng
địa phƣơng. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo đƣợc tổ chức dƣới nhiều hình thức hoạt
động khác nhau nhƣ hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tƣơng
tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, sinh hoạt tập thể… Mỗi hình thức hoạt động trên
đều tiềm tàng trong đó những khả năng giáo dục nhất định. Nhờ các hình thức tổ chức
đa dạng, phong phú mà việc giáo dục học sinh đƣợc thực hiện một cách tự nhiên, sinh
động, nhẹ nhàng, hấp dẫn, không gò bó và khô cứng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí
cũng nhƣ nhu cầu, nguyện vọng của học sinh. Trong quá trình thiết kế, tổ chức thực hiện
và đánh giá hoạt động trải nghiệm sáng tạo, cả giáo viên lẫn học sinh đều có cơ hội thể
hiện sự sáng tạo, chủ động, linh hoạt của mình, làm tăng thêm tính hấp dẫn, độc đáo của
các hình thức tổ chức hoạt động.
Tổ chức thảo luận
Đây có lẽ là cách thức tổ chức dạy học trải nghiệm đơn giản và dễ thực hiện nhất
với điều kiện nƣớc ta cũng nhƣ mặt bằng chung của các trƣờng phổ thông hiện nay.
Thảo luận có thể diễn ra trong phạm vi hẹp trong lớp học dƣới sự hƣớng dẫn điều
khiển của giáo viên học sinh cùng nhau trao đổi tìm ra nguyên nhân và giải pháp thực
hiện chủ đề cùng trao đổi. Qua cách học này các em có thể trực tiếp trao đổi ý kiến, bày
14
tỏ ý kiến với những ngƣời xung quanh mà trực tiếp là thầy cô và bạn bè trong lớp. Đây
là hoạt động thiết thực để học sinh bày tỏ suy nghĩ, ý kiến quan điểm hay đề ra những
câu hỏi đề xuất về vấn đề. Chính không gian tạo nên sự tôn trọng bình đẳng đã khuyến
khích kích thích tính hứng thú, nguyện vọng học tập của các em. Đồng thời đây cũng là
dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Thông qua việc thảo luận giúp các
em khẳng định vai trò tiếng nói của mình, đƣa ra suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng
định mình. Thảo luận góp phần giúp các em tự tin và xây dựng kĩ năng cần thiết nhƣ: kĩ
năng phát biểu ý kiến trƣớc tập thể, kĩ năng trình bày vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
lắng nghe, kĩ năng phát hiện vấn đề…Bên cạnh đó với hình thức thảo luận còn tăng
cƣờng tính độc lập tự chủ ở ngƣời học. Giáo viên chỉ là ngƣời tổ chức còn học sinh là
ngƣời chủ trì, dẫn dắt, thực hiện. Tuy nhiên đây cũng chỉ là bƣớc đầu của học tập trải
nghiệm hình thức tổ chức này sẽ khó phát huy hết năng lực ngƣời học và đặc biệt là
những em học sinh còn chƣa chú ý tới học tập. Bởi vậy giáo viên cần có những hình
thức tổ chức hấp dẫn với tất cả đối tƣợng học sinh nhằm phát triển năng lực ở ngƣời học.
Tổ chức các trò chơi
Trò chơi là một loại hoạt động giải trí, thƣ giãn đồng thời là món ăn tinh thần
không thể thiếu trong cuộc sống của con ngƣời. Việc lựa chọn trò chơi phù hợp sẽ có tác
dụng rất tích cực tới con ngƣời nói chung và đặc biệt đối với thanh niên học sinh nói
riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức hoạt động vui chơi với nội dung kiến thức thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có Địa Lí. Cụm từ “học mà chơi, chơi mà học” không
còn xa lạ với nhiều ngƣời. Nhiều khi đƣợc coi nhƣ là khẩu hiệu trong học tập, là phƣơng
pháp học tập hiệu quả. Trò chơi trong dạy học không chỉ có các chức năng nhƣ:
Chức năng giáo dục: Trò chơi là phƣơng tiện giáo dục hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu
thiết thực của học sinh, tác động toàn diện đến tất cả các mặt khác nhau của nhân cách.
Về thể chất, tâm lí, đạo đức và xã hội. Trò chơi giúp các em nâng cao thể lực, rèn luyện
sự nhanh nhẹn, dẻo dai và bền bỉ, phát triển tốt các giác quan (thị giác, xúc giác, khứu
giác, thính giác..), các chức năng vận động, phát triển tốt các phẩm chất và năng lực tƣ
duy sáng tạo, linh hoạt. Ngoài ra trò chơi còn phát triển tốt các phẩm chất nhân cách
cho học sinh nhƣ tính tập thể, tính hợp tác, tính kỉ luật, tính sáng tạo, tính tự chủ tính
tích cực, sự nỗ lực ý chí, lòng dũng cảm , tính linh hoạt, sự tự tin, thân thiện, những
hình ảnh thẩm mĩ lành mạnh… Trò chơi giúp nâng cao những hiểu biết về tự nhiên, xã
hội về khoa học – kĩ thuật, văn hóa nghệ thuật , phát triển tốt năng lực tƣ duy, trí nhớ,
ngôn ngữ tƣởng tƣợng. Trò chơi tuy là một loại hình giải trí nhƣng cũng đòi hỏi học
15
sinh có tu duy, ứng dụng tri thức vào hành động, phát triển năng lực hoạt động. Muốn
để cho trò chơi là một con đƣợc học tập tích cực đòi hỏi phải có sự chọn lọc, tƣ duy
của ngƣời giáo viên trong cách lựa chọn trò chơi để tổ chức học tập trải nghiệm.
Chức năng giao tiếp: Trò chơi là một hình thức giao tiếp tạo cơ hội để học sinh
tham gia vào các mối quan hệ giao tiếp bạn bè, phát triển tốt năng lực giao tiếp. Trò chơi
đồng thời là một phƣơng tiện mà thông qua đó, học sinh có thể giao tiếp đƣợc với nhau
một cách tự nhiên, dễ dàng.
Chức năng văn hóa: trò chơi là một hình thức sinh hoạt văn hóa lành mạnh của
con ngƣời, thể hiện những đặc điểm văn hóa có tính bản sắc của mỗi dân tộc, mỗi cộng
đồng. Mỗi trò chơi là một giá trị văn hóa độc đáo. Tổ chức cho học sinh tham gia trò
chơi là một phƣơng pháp tái tạo văn hóa, bảo tồn văn hóa và phát triển văn hóa rất có
hiệu quả.
Chức năng giải trí: Trò chơi là một phƣơng thức giải trí tích cực và hiệu quả,
không gây áp lực quá lớn cho ngƣời học. Gần đây sự phát triển nhƣ vũ bão cũng gia tăng
thêm nhiều hiện tƣợng học sinh do quá áp lực căng thẳng trong học tập đã chọn những
giải pháp đáng tiếc. Thông qua trò chơi học sinh đƣợc tái tạo năng lực thần kinh và cơ
bắp sau thời gian học tập và trong thời gian học tập lao động căng thẳng. Trò chơi là
cách học thƣ giãn, thay đổi tâm trạng, giải tỏa mệt mỏi, tạo niềm vui và sự hứng thú.
Không chỉ học mà học sinh còn đƣợc rèn luyện thông qua những trò chơi mô phỏng.
Trò chơi đƣợc ứng dụng trong nhiều tình huống khác nhau của hoạt động trải
nghiệm nhƣ: khởi động, cung cấp tri thức, củng cố tri thức… Với mục đích lôi cuốn sự
tham gia của ngƣời học vào các hoạt động giáo dục còn tăng cƣờng trách nhiệm, tác
phong nhanh nhẹn, sự thân thiện hòa đồng khiến không khí học tập không quá khô khan
nhàm chán và lối mòn. Tùy theo từng trò chơi cụ thể mà quy mô tham gia khác nhau.
Trò chơi mang lại những thuận lợi trong quá trình tổ chức dạy học trải nghiệm rõ nét
nhất là: việc phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn và gây hứng thú cho học sinh , giúp học
sinh dễ tiếp thu kiến thức, rèn luyện tác phong nhanh nhẹn… Bên cạnh những thuận lợi
là khó khăn về mặt tổ chức lựa chọn địa điểm thời gian cho phù hợp để đảm bảo nội
dung chƣơng trình chuẩn.
Một số trò chơi đƣợc sử dụng nhiều trong các trƣờng phổ thông hiện nay nhƣ: trò
chơi học tập, trò chơi vận động, trò chơi mô phỏng game truyền hình…Có thể thấy tổ
chức trò chơi là hoạt động quen thuộc dễ thực hiện trong quá trình học tập trải nghiệm
và có ý nghĩa giáo dục tích cực.
16
Tổ chức các cuộc thi
Nếu nhƣ việc tổ chức trò chơi gây hứng thú, sự tự tin, nhanh nhẹn….thì việc sạo
ra các sân chơi, những cuộc thi cũng là hình thức hấp dẫn không kém thậm trí có sức lôi
cuốn và đạt hiệu quả học tập cao hơn trong việc giáo dục cá nhân hay nhóm hoặc tập thể
thông qua việc tìm ra ngƣời thắng cuộc trong mỗi cuộc thi.
Cuộc thi có mục đích nhằm lôi cuốn học sinh tham gia chủ động tích cực vào các
hoạt động của nhà trƣờng, góp phần đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, bộc lộ tài năng sự
sáng tạo của ngƣời học. Đồng thời bồi dƣỡng động cơ học tập tích cực kích thích quá
trình nhận thức. Làm cho những kiến thức không quá khô cứng dễ hiểu dễ nhớ. Việc tổ
chức có thể tổ chức ứng dụng trong nhà trƣờng, lớp học hay ngoài không gian trƣờng
học. Với việc tổ chức hội thi học sinh đƣợc thỏa sức sáng tạo không bị giới hạn đề cao
tính tập thể hay độc lập của học sinh. Đồng thời thông qua cuộc thi cũng có thể là sợi
dây gắn kết học sinh, giáo viên và ngay cả những ngƣời làm công tác xã hội.
Nội dung cuộc thi rất phong phú và dễ lồng ghép bất cứ nội dung giáo dục nào.
Và đó cũng là yêu cầu đặt ra đối với mỗi cuộc thi đều phải mang ý nghĩa giáo dục nhất
định. Việc lựa chọn cách thức thực hiện hay làm cho cuộc thi trở nên hấp dẫn mang tính
giáo dục hiệu quả đòi hỏi chất xám từ các nhà tổ chức mà không ai khác đó chính là
những thầy cô giáo ngƣời trực tiếp làm nhiệm vụ giáo dục. Nếu nhƣ tổ chức cuộc thi chỉ
là hình thức thì thật khó đem tới hiệu quả và bộc lộ hết năng lực của ngƣời học.
Cuộc thi có nhiều cách tổ chức dƣới nhiều hình thức khác nhau nhƣ: thi giải ô
chữ, đố vui về các địa danh trên đất nƣớc ta, hội thi kể chuyện theo tranh về môi trƣờng,
… Mỗi hình thức có thể tổ chức với một chủ đề trong đó mang một hay nhiều nội dung
giáo dục mà ở đó có sự gắn kết với nội dung chƣơng trình cũng nhƣ giáo dục kĩ năng
sống. Với việc tổ chức cuộc thi tạo ra nhiều ƣu điểm trong việc kích thích sự hứng thú,
gay cấn tăng sự sáng tạo tƣ duy và năng lực từ ngƣời học.
Tổ chức các câu lạc bộ
Đây là hình thức hoạt động ngoại khóa của một nhóm học sinh cùng sở thích, nhu
cầu, năng khiếu…dƣới định hƣớng của nhà giáo dục nhằm tạo môi trƣờng giao lƣu thân
thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh với các thầy cô giáo và
những ngƣời trƣởng thành khác. Hoạt động câu lạc bộ tạo cơ hội để học sinh chia sẻ
những kiến thức hiểu biết của mình về lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển
các kĩ năng của học sinh nhƣ: Trình bày, giao tiếp, lắng nghe và biểu đạt ý kiến, giải
17
quyết vấn đề…Thông qua các hoạt động của câu lạc bộ nhà giáo dục có thể hiểu và
quan tâm tới nhu cầu nguyện vọng và mục đích chính đáng của học sinh.
Hoạt động câu lạc bộ đòi hỏi lịch sinh hoạt định kì và với các chủ đề thảo luận nghiên
cứu khác nhau nhƣ: câu lạc bộ về biến đổi khí hậu, câu lạc bộ xanh…Việc thực hiện duy
trì câu lạc bộ đòi hỏi có những nguyên tác nhất định về: tinh thần, thời gian, địa điểm, sự
công bằng, sự công hiến sáng tạo, tôn trọng, bình đẳng…
Sinh hoạt tập thể
Hình thức sinh hoạt tập thể là hình thức tổ chức quen thuộc diễn ra thƣờng xuyên
tại các trƣờng học phổ thông. Đây là hình thức tổ chức có sự gắn kết cao, đồng thời cũng
là yếu tố chính để duy trì và phát triển các phong trào và đoàn thể thanh thiếu niên.
Sinh hoạt tập thể là hình thức chuyển tải những bài học về đạo đức, nhân bản,
luân lý, giá trị… đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, hấp dẫn. Để những buổi sinh
hoạt tập thể trở nên hấp dẫn không đơn điệu nhàm chán thì có thể tổ chức thành nhƣng
buổi sinh hoạt gần gũi với học sinh nhƣ: hát về biển đảo, vở kịch về môi trƣờng, trò chơi
về địa danh trên thế giới… Những hoạt động này giúp học sinh tiếp thu khắc sâu kiến
thức một cách tự nhiên, thoải mái nhất vừa bổ sung kiến thức vừa giúp các em vui chơi,
thƣ giãn….
Sinh hoạt tập thể giúp làm gia tăng sức mạnh đoàn kết, sự gắn bó vui tƣơng trẻ
trung của đoàn thể. Sinh hoạt tập thể không chỉ bị bó buộc trong không gian lớp học mà
còn có thể tổ chức thành các câu lạc bộ hay quy mô toàn trƣờng.
Lao động công ích
Lao động công ích là hình thức hoạt động mang tính tập thể cao. Có thể đƣợc tổ
chức trong khuôn viên nhà trƣờng hoặc làng xóm nhƣ: vệ sinh vƣờn trƣờng, sân trƣờng
lớp học; vệ sinh đƣờng làng ngõ xóm, trồng và chăm sóc vƣờn hoa, chăm sóc và bảo vệ
di tích lịch sử, các công trình công cộng, di sản văn hóa… Tuy nhiên việc lao động công
ích phải xuất phát từ việc làm của mỗi cá nhân, cái tâm của mỗi ngƣời góp sức mình để
tham gia xây dựng, tu bổ công trình công trình công cộng vì lợi ích chung của cộng đồng
nhằm bảo tồn các công trình, biết yêu quý giá trị lao động cũng nhƣ có những hành động
cần thiết để bảo vệ, phòng chống khắc phục hành động chƣa đúng đắn. Thông qua lao
động công ích học sinh đƣợc rèn luyện kĩ năng sống nhƣ: kĩ năng hợp tác, kĩ năng tìm
kiếm và xử lí thông tin, kĩ năng phát hiện và giải quyết vẫn đề, kĩ năng xác định giá trị…
Tổ chức tham quan dã ngoại
18
Đây là hình thức tổ chức học tập trải nghiệm hiệu quả nhất bởi tính hấp dẫn đối
với học sinh.
Mục đích của tham quan, dã ngoại là để học sinh đƣợc đi thăm, tìm hiểu và học
hỏi kiến thức, tiếp xúc với các danh thắng, các di tích lịch sử, văn hóa, công trình, nhà
máy hoặc một địa danh nổi tiếng của đất nƣớc ở xa nơi các em đang sống, học tập…giúp
các em có đƣợc những kinh nghiệm thực tế, từ mô hình, cách làm hay và hiệu quả trong
một lĩnh vực nào đó từ đó có thể áp dụng vào chính cuộc sống các em.
Nội dung tham quan dã ngoại có tính giáo dục tổng hợp đối với học sinh nhƣ: giáo dục
lòng yêu nƣớc, yêu thiên nhiên, giáo dục truyền thống cách mạng,… Tham quan dã
ngoại giúp tăng cƣờng cơ hội cho học sinh đƣợc giao lƣu, chia sẻ và thể hiện những khả
năng vốn có của mình. Đồng thời giúp các em cảm nhận đƣợc vẻ đẹp của quê hƣơng đất
nƣớc, hiểu đƣợc những giá trị truyền thống và hiện đại. Để từ đó rút ra cho mình những
bài học, những quan điểm cũng nhƣ lối sống phù hợp. Tận mắt chứng kiến, tự mình cảm
nhận giúp các em thấu hiểu đồng cảm cũng nhƣ phát triển các giá trị để từ đó thỏa sức
sáng tạo và tƣởng tƣợng
Các hình thức tham quan dã ngoại mà hiện nay đƣợc các nhà trƣờng phổ thông ở
thành phố lựa chọn để giáo dục trong môn Địa Lí: Tham quan các danh lam thắng cảnh,
di tích lịch sử văn hóa, nhà máy, xí nghiệp; tham quan các cơ sở sản xuất, làng nghề,
tham quan các viện bảo tàng, tham quan du lịch truyền thống. Mỗi hình thức tham quan
dã ngoại lại gắn với một chủ để học tập giáo dục trong chƣơng trình hay là nguồn bổ
sung kiến thức thực tiễn hoặc kĩ năng sống cần thiết cho học sinh.
Tham quan dã ngoại còn là cơ hội cho thầy - trò có sự gắn kết, giao lƣu để từ đó
giáo viên thấu hiểu nhu cầu, nguyện vọng của ngƣời học để từ đó thiết kế các chƣơng
trình học tập cho phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm môn học. Tham quan dã ngoại là cơ
hội, điều kiện tốt cho các em tự khẳng định mình, thể hiện tính tự quản, tính sáng tạo và
biết đánh giá sự cố gắng, sự trƣởng thành của bản thân. Cũng nhƣ giúp các em học tập
theo phƣơng châm “ học đi đôi với hành”, “ lí luận đi đôi với thực tiễn” học từ trải
nghiệm thông qua nhìn thấy chứng kiến thấy mà đúc rút những bài học kinh nghiệm cho
bản thân để vững bƣớc khi vào đời cụ thể hơn đây chính là bƣớc cụ thể hóa, “ xã hội
hóa” công tác giáo dục.
Tuy nhiên việc tổ chức tham quan dã ngoại không phải trƣờng nào cũng có cơ hội
và khả năng thực hiện do yếu tố kinh phí, đảm bảo thời gian chƣơng trình, sự đồng thuận
từ phía phụ huynh, xã hội.
19
- Xem thêm -