SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP NHẰM CẢI TẠO ĐẤT
ĐỒI NÚI TẠI HUYỆN QUAN SƠN"
Trang
1
PHẦN A - ĐẶT VẤN ĐỀ
Quan Sơn là huyện miền núi, vùng cao, biên giới, nằm về cực bắc của tỉnh Thanh
Hóa. Huyện có địa hình bán sơn địa với tổng diện tích tự nhiên là 93.017,03 ha. Trong đó
diện tích:
+ Đất nông nghiệp: 82.273,11 ha; chiếm 88,45% diện tích tự nhiên toàn huyện
- Đất sản xuất nông nghiệp: 2.521,16 ha; chiếm 2,71%;
- Đất cho sản xuất lâm nghiệp: 79.682,21 ha; chiếm 85,66%;
+ Đất phi nông nghiệp: 2.688,84 ha; chiếm 2,89%;
+ Đất chưa sử dụng: 8.055,08 ha; 8,66%.
Với hơn 36.636 người sinh sống. Trong đó có 6 xã giáp vùng biên giới và có 4 dân
tộc cùng sinh sống đó là: Thái, H.Mông, Kinh, Mường. Do trình độ dân trí chưa cao, sản
xuất manh mún, đời sống gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển. Tình
hình quản lý sử dụng đất đai trong những năm qua còn nhiều bất cập hiệu quả sử dụng
đất chưa cao ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội và ổn định đời sống
nhân dân trong huyện.
Trong khi đó đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là một trong những điều kiện
không thể thiếu cho hoạt đông sản xuất và đời sống con người. Việc xây dựng kế hoạch
sử dụng đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trước mắt mà cả lâu dài.Trong
thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước việc sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng tránh gây lãng phí hạn
chế sự hủy hoại đất và tránh phá vỡ môi trường sinh thái. Ngành lâm nghiệp có tác dụng
rất lớn đối với nền kinh tế có nhiều mặt không chỉ cung cấp đặc sản rừng mà còn tác
Trang
2
dụng giữ đất, điều tiết nguồn nước, chống ô nhiễm môi trường, điều hòa khí hậu, phòng
hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học và các giá trị cảnh quan, du lịch, văn
hóa…Vậy mà những năm qua dường như con người đã lãng quyên ý nghĩa quan trọng
đó, chỉ tập trung khai thác triệt để thỏa mãn nhu cầu trước mắt của mình.
Đầu tiên là sự khai thác kiệt quệ những loài gỗ quý, có giá trị cao về mặt kinh tế và
thẩm mỹ, làm giảm tính đa dạng sinh học, mất đi nguồn gen sinh vật quý và những giá trị
văn hóa tổn tại trong nó mà còn làm xuất hiện hàng loạt các biến đổi tiêu cực của khí hậu
như hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ozon hay sự xuất hiện của lũ quét gây thiệt hại nặng
nề về người và của.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiến trên nên tôi chọn đề tài: “Kỹ thuật nông lâm
kết hợp nhằm cải tạo đất đồi núi tại huyện Quan Sơn ” đề tài sẽ góp phần nghiên cứu
và phát triển một số cây trồng có nhiều tiềm năng trong phát triển nông nghiệp bền vững
ở vùng đất đồi núi dốc, của huyện Quan Sơn nói riêng và của tinh Thanh Hóa nói chung.
Trong tương lai, che phủ đất sẽ giảm đáng kể nhu cầu sử dụng phân hoá học, như vậy sẽ
tiết kiệm được năng lượng cần phải tiêu tốn để sản xuất ra các loại phân này. Điều này
cũng đồng nghiã với việc giảm thải vào khí quyển các khí hiệu ứng nhà kính, giảm ô
nhiễm môi trường. Sản phẩm nông nghiệp sẽ là những sản phẩm hữu cơ có độ an toàn
cao. Môi trường sinh thái sẽ được cải thiện, sức khoẻ cộng đồng sẽ được đảm bảo.
PHẦN B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Tổng quan tài liệu
Mỗi một đất nước, một đơn vị hành chính từ tỉnh, huyện, xã đều có chiến lược phát
triển cho tương lai. Nội dung xây dựng kỹ thuật nông lâm kết hợp là việc bố trí sử dụng
đất đai ổn định lâu dài theo các mục đích khác nhau để thỏa mãn những nhu cầu lương
thực và chất lượng, ngoài ra còn chú ý mở rộng diện tích đất canh tác, thay đổi giống cây
Trang
3
trồng, vật nuôi cho năng suất cao hơn, thực hiện khuyến nông, khuyến lâm để lợi dụng
tiềm năng đất đai một cách có hiệu quả nhất.
1. Hiện trạng sử dụng đất tại huyện Quan Sơn
Năm 2010
T
T
MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT
Diện
tích (ha)
Cơ cấu
93.01
Tổng diện tích tự nhiên
1
7,03
82.27
Tổng diện tích đất nông nghiệp
2.521,
Đất sản xuất nông nghiệp
1.543,
Đất trồng cây hàng năm
-
-
2,71
16
1.
1.1
88,45
3,11
1.
1
100
40
1,66
1.195,
Đất trồng lúa
10
1,28
Đất bằng trồng cây hàng năm
khác
348,3
0,37
0,97
0,00
1.
1.2
Đất trồng cỏ
Trang
4
Năm 2010
T
T
MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT
Diện
tích (ha)
1.
976,7
Đất trồng cây lâu năm
1.3
-
9
Đất trồng cây ăn quả lâu năm
9
48.62
Đất rừng sản xuất
-
-
3,99
52,27
35.09
Rừng tự nhiên
1,00
37,73
9.816,
Rừng trồng
73
10,55
3.716,
Đất trống
26
1.
2.2
85,66
2,21
1.
-
1,05
79.68
Đất lâm nghiệp
2.1
1,05
976,7
1.
2
Cơ cấu
4,00
31.05
Đất rừng phòng hộ
8,22
33,39
Trang
5
Năm 2010
T
MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT
T
Diện
tích (ha)
Cơ cấu
26.86
-
Rừng tự nhiên
9,84
28,89
1.513,
-
Rừng trồng
46
1,63
2.674,
-
Đất trống
92
2,88
1.
Đất nuôi trồng thuỷ sản
3
ngọt
2
Đất phi nông nghiệp
0,07
2,89
84
367,0
Đất ở
7
2.
1.1
69,74
2.688,
2.
1
0,07
Đất nuôi trồng thuỷ sản nước
1.
3.1
69,74
0,39
357,3
Đất ở nông thôn
6
0,38
Trang
6
Năm 2010
T
T
MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT
Diện
tích (ha)
Cơ cấu
2.
Đất ở đô thị
1.2
9,71
2.
550,7
Đất chuyên dùng
2
0,01
9
0,59
2.
2.1
Đất trụ sở cơ quan CT sự nghiệp
14,45
0,02
Đất quốc phòng an ninh
12,18
0,01
Đất SX kinh doanh phi NN
3,71
0,00
2.
2.2
2.
2.3
2.
520,4
Đất có mục đích công cộng
2.4
5
2.
2.
5
230,2
Đất nghĩa địa
4
0,56
7
Đất sông suối, mặt nước chuyên
dùng
0,25
1.540,
71
1,66
Trang
7
Năm 2010
T
T
MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT
Diện
tích (ha)
3
8.055,
Đất chưa sử dụng
426,4
Đất bằng chưa sử dụng
-
6
0,46
6.197,
Đất đồi núi chưa sử dụng
88
3.
2
8,66
08
3.
1
Cơ cấu
6,66
1.430,
Núi đá không cây
74
1,54
Đất chưa sử dụng hiện nay là 8.055,08 ha (chiếm 8,66% DTTN) có thể khai thác cho
phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp và sử dụng vào các mục đích khác.
2. Tổng quan sử dụng kỹ thuật nông lâm kết hợp ở Quan Sơn
2.1 Kỹ thuât nông lâm kết hợp trên đất đồi núi thấp
2.1.1. Hình thức canh tác.
Canh tác theo hình thức mô hình nông lâm kết hợp thường có diện tích đất từ 1,5 - 3
ha cho một hộ gia đình, bố trí trên một phần đồi hay cả quả đồi, cây trồng trên mô hình
này được phân bổ như sau:
Trang
8
* Rừng ở đỉnh và sườn cao, diện tích 1- 2 ha, trồng các loại cây lâm nghiệp như: Mỡ,
bồ đề, bạch đàn, keo để lấy gỗ, giữ nước và ngăn chặn xói mòn, những năm đầu cây lâm
nghiệp còn nhỏ ta có thể trồng xen các cay hoa màu ngắn ngày như dứa, đỗ, lạc.. để tận
dụng,cải tạo đất, đồng thời chăm sóc và ngăn chặn cỏ dại cho cây trồng chính.
* Diện tích 0,5 – 1 ha ở sườn đồi để làm nương ta có thể trồng lúa nước theo phương
thức ruộng bực thang, có đào rãnh và đắp bờ đất ngang đốc để giữ nước. Nhiều nơi đã
trồng xen đỗ lạc giữa các hàng cây hoặc các băng cây cốt khí hay cây gỗ, rộng 1 – 2m
cách nhau 10 -15m ngang dốc để giữ nước, làm phân xanh hoặc lấy gỗ củi.
* Ở chân đồi với diện tích từ 0,2– 0,3 ha, nơi thấp nhất, gần thung lũng, gần đường
đi lại, bà con trồng các loại cam, chanh, bưởi, táo,ổi, quyết… và các cây có giá trị hàng
hoá khác ở quanh nhà. Đối với hình thức canh tác trên đất đã bị bạc màu, thoái hoá, một
số giải pháp kỹ thuật nhằm chống xói mòn, tăng năng suất cây trồng sau đây thường được
áp dụng như sau:
Giải pháp kỹ thuật
Mô tả
1. Cải tạo đất nơi có địa hình dốc
Các loài cây họ đậu, cốt khí,
Hàng rào cây xanh
đậu triều,
Làm rãnh chống xói mòn
Chủ
yếu
dựa
vào
kinh
nghiệm truyền thống
Tạo ruộng bậc
cách nhỏ
thang khoảng
Dựa vào kinh nghiệm của địa
phương
Trang
9
Cây che phủ (lưu niên)
Trồng cây ăn quả lưu niên
(Nhãn, ải, xoài....)
Trồng xen vụ cây lương thực
Ngô, đậu, lạc .
Bón phân hợp lý tăng độ phì của
Bón các loại phân chuồng,
đất
phân xanh
2. Thâm canh cây lương thực
Trồng các loài cây lương thực đã
được cải thiện
Bón phân cho cây trồng hợp lý
3.
Các giống ngô, sắn, đậu
lạc,………
Bón phân hữu cơ
Trồng cây ăn quả/ cây lưu
niên
Cải tạo các vườn cây ăn quả hiện
Các loài cây bản địa có giá trị
kinh tế
có
Đa dạng các loại cây ăn quả đã
được cải tạo
Trồng thâm canh các loại cây
ăn quả
2.1.2. Lợi ích thu về từ các hình thức canh tác trên.
* Lợi ích có được từ rừng trồng sau 5- 10 năm thu được khoảng 45 – 100 m3 gỗ làm
nguyên liệu giấy trị giá 9 – 16 triệu đồng, bình quân 1,4 – 2 triệu đồng/năm, tuy không
thu được lợi ngay, nhưng các năm đầu có sản phẩm trồng xen, cành lá và cây tỉa thưa để
bán và đun nấu.
Trang
10
* Lợi ích từ sườn và chân đồi từ việc làm nương dẫy cũng cho 1,2 – 2 tấn lương thực
hàng năm để giải quyết cái ăn hàng ngày. Vườn cung cấp thực phẩm hàng ngày cho gia
đình, ngoài ra còn có thể bán các nông sản, được 1,5 – 3 triệu đồng tiền mặt mỗi năm để
mua sắm các thứ cần thiết. Như vậy là đất đai tuy xấu nhưng đã được sử dụng hợp lý và
tổng hợp, biết áp dụng những biện pháp canh tác đất dốc đơn giản, có đầu tư cao hơn nhờ
biết tận dụng lao động và thời gian tiềm năng sẵn có của gia đình mà đất đai được cải
thiện, duy trì được độ màu mỡ để canh tác được lâu dài hơn.
2.2 Kỹ thuật nông lâm kết hợp sử dụng ở vùng đồi núi cao
Diện tích đất đai ở khu vực vùng núi cao này chủ yếu là 2 nhóm đất: (1) Đất nâu
vàng, loại đất này có màu phổ biến là nâu vàng, thành phần cơ giới nặng, tầng đất trung
bình và dày thoát nước tốt, hình thát phẫu diện tương đối đồng nhất, cấu trúc khá tốt và
bền. Tuy nhiên một số nơi đất đã bị rửa trôi xói mòn, thoái hoá do sử dụng không hợp lý
đất trở nên khô cằn, nghèo dinh dưỡng. Loại đất này thường thích hợp với cây lâm
nghiệp, cây ăn quả, cây công nghiệp.(2) Đất mùn vàng đỏ trên núi, loại đất này nằm ở
vùng núi cao. Do địa hình cao dốc hiểm trở nên đất thường bị xói mòn mạnh, mặt khác
do quá trình phong hoá yếu nên đa số đất có phẫu diện không dày. Đất có phản ứng chua
vừa đến ít chua, hàm lượng mùn cao. Đất mùn vàng đỏ trên núi thích hợp cho áp dụng
các phương thức nông lâm kết hợpnhư sau:
Áp dụng các kỹ thuật luân canh tốt như: Luân canh cây lương thực, cây hoa màu họ
đậu. Canh tác và trồng các loại hoa màu dọc theo các đường đồng mức để chống xói
mòn, giữ đất và giữ nước. Sử dụng toàn bộ chất hữu cơ dư thừa có sẵn (các phẩm vật dư
thừa sau thu hoạch, phân động vật) để bón cho đất, chất hữu cơ có tác dụng cải tạo đất
làm cho đất tơi xốp và tăng độ phì của đất.
Trang
11
Đa dạng hoá cây trồng bao gồm cả trồng cây lâu năm. Cây lâu năm có giá trị phòng
hộ đặc biệt trên đất dốc. Cây ăn quả và cây công nghiệp có thể được trồng thành các
vườn nhỏ hoặc xen lẫn cây nông nghiệp, trồng rừng và bảo vệ rừng ở khu vực cao nhất
của trang trại. Các khu rừng này vừa có tác dụng bảo vệ đất và nước đồng thời cho sản
phẩm gỗ, củi phục vụ sinh hoạt. Bảo vệ đất trong giai đoạn bỏ hoá. Sử dụng các chất liệu
che phủ mặt đất bảo vệ đất khỏi phơi ra nắng gắt, bị bào mòn do gió và mưa.
Nuôi gia súc nhốt trong chuồng hay buộc tại chỗ. Vì chăn thả tự do có thể là nguyên
nhân gây ra xói mòn ở vùng cao. Đồng thời bà con không kiểm soát được bệnh dịch của
gia xúc, gia cẩm,và các vật nuôi dẽ bị chết rét về mùa đông.
3. Lợi ích từ các hệ thống nông lâm kết hợp.
3.1 Các lợi ích từ nông lâm kết hợp
Trong thực tiễn sản xuất cũng như nhiều công trình nghiên cứu trung và dài hạn ở
nhiều nơi trên thế giới đã cho thấy nông lâm kết hợp là một phương thức sử dụng tài
nguyên tổng hợp có tiềm năng thoả mãn các yếu tố của phát triển nông thôn và miền núi
bền vững. Các lợi ích mà nông lâm kết hợp có thể mang lại rất đa dạng, tuy nhiên có thể
chia thành 2 nhóm nhóm các lợi ích trực tiếp cho đời sống cộng đồng và nhóm các lợi ích
gián tiếp cho cộng đồng và xã hội.
3.2 Các lợi ích trực tiếp từ nông lâm kết hợp
Lợi ích thứ nhất cung cấp lương thực và thực phẩm: Nhiều mô hình nông lâm kết
hợp được hình thành và phát triển nhằm vào mục đích sản xuất nhiều loại lương thực
thực phẩm, có giá trị dinh dưỡng cao đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình. Điển hình là hệ
thống vườn ao chuồng (VAC) được phát triển rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn ở nước ta.
Trang
12
Ưu điểm của các hệ thống nông lâm kết hợp là có khả năng tạo ra sản phẩm lương thực
và thực phẩm đa dạng trên một diện tích đất mà không yêu cầu đầu vào lớn.
Lợi ích thứ 2 các sản phẩm từ cây thân gỗ: Việc kết hợp cây thân gỗ trên nông trại có
thể tạo ra nhiều sản phẩm như gỗ, củi, tinh dầu, v.v. Để đáp ứng nhu cầu về nguyên vật
liệu cho hộ gia đình.
Lợi ích thứ 3 tạo việc làm: Nông lâm kết hợp gồm nhiều thành phần canh tác đa
dạng có tác dụng thu hút lao động, tạo thêm ngành nghề phụ cho nông dân.
Lợi ích thứ 4 tăng thu nhập nông hộ: Với sự phong phú về sản phẩm đầu ra và ít đòi
hỏi về đầu vào, các hệ thống nông lâm kết hợp dễ có khả năng đến lại thu nhập cao cho
hộ gia đình. Giảm rủi ro trong sản xuất và tăng mức an toàn lương thực: Nhờ có cấu trúc
phức tạp, đa dạng được thiết kế nhằm làm tăng các quan hệ tương hỗ (có lợi) giữa các
thành phần trong hệ thống, các hệ thống nông lâm kết hợp thường có tính ổn định cao
trước các biến động bất lợi về điều kiện tự nhiên (như dịch sâu bệnh, hạn hán, v.v.). Sự
đa dạng về loại sản phẩm đầu ra cũng góp phần giảm rủi ro về thị trường và giá cho nông
hộ.
3.3. Các lợi ích từ nông lâm kết hợp trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường
3.3.1. Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên đất và nước
Qua nhiều năm nghiên cứu nông lâm kết hợp phối hợp với các kết quả nghiên cứu về
sinh thái học, nông nghiệp, lâm nghiệp và khoa học đất đã cho thấy các hệ thống nông
lâm kết hợp nếu được thiết kế và quản lý thích hợp sẽ có khả năng giảm dòng chảy bề
mặt và xói mòn đất duy trì độ mùn và cải thiện lý tính của đất và phát huy chu trình tuần
hoàn dinh dưỡng, tăng hiệu quả sử dụng dinh dưỡng của cây trồng và vật nuôi. Nhờ vậy
Trang
13
làm gia tăng độ phì của đất, tăng hiệu quả sử dụng đất và giảm sức ép của dân số gia tăng
lên tài nguyên đất (Young, 1997).
Bên cạnh đó, trong các hệ thống nông lâm kết hợp do hiệu quả sử dụng chất dinh
dưỡng của cây trồng cao nên làm giảm nhu cầu bón phân hóa học, vì thế giảm nguy cơ ô
nhiễm các nguồn nước ngầm (Young, 1997).
3.3.2. Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học.
Nông lâm kết hợp cung cấp một phần lâm sản cho nông hộ, đồng thời nông lâm kết
hợp có thể làm giảm tốc độ khai thác lâm sản từ rừng tự nhiên. Mặt khác, nông lâm kết
hợp là phương thức tận dụng đất có hiệu quả nên làm giảm nhu cầu mở rộng đất nông
nghiệp bằng khai hoang rừng. Chính vì vậy mà canh tác nông lâm kết hợp sẽ làm giảm
sức ép của con người vào rừng tự nhiên, giảm tốc độ phá rừng (Young,1997). Các hộ
nông dân qua canh tác theo phương thức này sẽ dần dần nhận thức được vai trò của cây
thân gỗ trong việc bảo vệ đất, nước và sẽ có đổi mới về kiến thức, thái độ có lợi cho công
tác bảo tồn tài nguyên rừng.
Việc phối hợp các loài cây thân gỗ vào nông trại đã tận dụng không gian của hệ
thống trong sản xuất làm tăng tính đa dạng sinh học ở phạm vi nông trại và cảnh quan.
Chính vì các lợi ích trên mà nông lâm kết hợp thường được chú trọng phát triển
trong công tác quản lý vùng đệm xung quanh các khu bảo tồn thiên nhiên
3.3.3. Nông lâm kết hợp và việc làm giảm hiệu ứng nhà kính.
Rất nhiều nhà nghiên cứu gợi ý rằng sự phát triển nông lâm kết hợp trên qui mô lớn
có thể làm giảm khí CO2 và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác (Dioxon, 1995,1996;
Schroeder, 1994). Các cơ chế của tác động này có thể là: Sự đồng hóa khí CO2 của cây
Trang
14
thân gỗ trên nông trại gia tăng lượng cacbon trong đất và giảm nạn phá rừng (Young,
1997).
II. Điều kiện tự nhiên, sinh thái môi trường của địa bàn nghiên cứu
1. Vị trí địa lý
1.1. Vị trí địa lý
Quan Sơn là một huyện miền núi,vùng cao,biên giới, nằm phía Tây Bắc tỉnh Thanh
Hóa, có vị trí địa lý:
từ 21006’15”-20024’30” vĩ độ Bắc;
và 104015’30”-105008’25” kinh độ Đông.
- Phía Bắc giáp huyện Quan Hóa.
- Phía Tây và Nam giáp nước CHDCND Lào.
- Phía Đông giáp huyện: Lang Chánh, Bá Thước.
Huyện Quan Sơn có diện tích tự nhiên 93.017,03ha; Dân số là hơn 36.636 người;
Mật độ dân số trung bình là 38,4 người/km2; Trên địa bàn huyện có 13 đơn vị hành chính,
bao gồm 12 xã và 1 thị trấn. Quan Sơn có Trung tâm huyện lỵ tại Km 35-Quốc Lộ 217, là
trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của huyện tuy nhiên kết cấu hạ tầng còn nhiều hạn
chế và cách thành phố thanh hóa khoảng 150km.
1.2. Vị trí địa lý kinh tế.
Huyện có vị trí địa lý chiến lược quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh
của khu vực miền núi và tỉnh Thanh Hóa;
Trang
15
Là vùng đầu nguồn của hệ thống sông Mã, có ý nghĩa rất lớn về vị trí phòng hộ, tạo
nguồn sinh thủy dự trữ nguồn nước, giảm tác động thiên tai và bảo vệ môi trường, tạo cân
bằng hệ sinh thái đối với cả tỉnh;
Trên địa bàn huyện có mạng lưới giao thông đường bộ đi qua như Quốc lộ 217, là
tuyến đường nối với đường 1A, cắt đường Hồ Chí Minh qua các trung tâm phát triển của
các huyện với nước bạn Lào. Là yếu tố thuận lợi cho việc giao lưu hợp tác và phát triển;
Gồm 6 xã giáp biên giới với 64 km đường biên với nước bạn Lào; có cửa khẩu quốc
tế Na Mèo và cửa khẩu tiểu ngạch Tam Thanh - Sầm Tớ, thuận lợi cho phát triển kinh tế
vùng biên, giao thương với nước bạn Lào, xây dựng biên giới hòa bình, hợp tác hữu nghị.
2. Địa hình địa mạo
Là huyện vùng cao, địa hình hiểm trở, diện tích bề mặt bị chia cắt mạnh bởi sông
Luồng và sông Lò, có các dãy núi cao kéo dài thành dải theo hướng Tây Bắc - Đông Nam
như: Pù Mằn - Sơn Hà cao 1247m; Pa Panh - Sơn Điện - Sơn Lư, cao 1146-1346m;
hướng núi thấp dần từ tây sang đông, trên 91% diện tích là đồi núi, với độ dốc cụ thể như
sau:
- Đất có độ dốc cấp I (< 3o): 4,48ha; chiếm gần 0,005% diện tích tự nhiên;
- Có độ dốc cấp II (4-8o): 214,86 ha; chiếm 0,23%;
- Có Độ dốc cấp III (9-15o): 2.285,21 ha; chiếm 2,46%;
- Có độ dốc cấp IV, V,VI(> 15o): 90.512,48 ha; chiếm 97,31%.
3. Khí hậu
Khí hậu thời tiết: Huyện Quan Sơn thuộc vùng khí hậu núi cao phía Tây Bắc của tỉnh
Thanh Hóa.
Trang
16
Nhiệt độ không khí trung bình năm 23oC, nhiệt độ không khí tối cao tuyệt đối 3940oC vào tháng 5, tháng 7; tối thấp tuyệt đối 2,6oC vào tháng 12, tháng 1.
Lượng mưa trung bình năm trên 1900 mm, mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng
10 (tháng có lượng mưa trên 100 mm). Tháng có lượng mưa < 100 mm là tháng 12; 1; 2;
3 và tháng 4.
Số ngày mưa 194 ngày/năm, tháng có số ngày mưa nhiều nhất là tháng 6;7; 8
Độ ẩm không khí tương đối trung bình năm 87%, thấp nhất 84% vào tháng 5,
cao nhất 88% vào tháng 8, tháng 9; Lượng bốc hơi trung bình năm 628,9 mm/năm, cao
nhất vào tháng 7 là 78 mm, thấp nhất vào tháng 1 là 40,3 mm; Tổng số giờ nắng trong
năm trung bình là 1.684 giờ; Bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng từ tháng 7 đến tháng 10,
trung bình 2 cơn/năm, thường mang theo mưa lớn gây lũ lụt.
Gió Tây Nam khô nóng trung bình 21,5 ngày/năm (từ tháng 4 - tháng 7); Giông tố
trung bình 99,5 ngày/năm; Gió mùa Đông Bắc trung bình 18 đợt/năm (từ tháng 10 - tháng
3); Số ngày rét đậm có sương giá trung bình 5,4 ngày/năm; Số ngày có khả năng sương
muối 1,2 ngày/năm (vào tháng 12 và tháng 1); Số ngày mưa phùn trung bình 48,2
ngày/năm (vào tháng 1-3); Số ngày hanh heo trung bình 11,4 ngày/năm (vào tháng 1112);
Thuận lợi của khí hậu thời tiết là tổng nhiệt độ năm cao, nhiệt độ không khí trung
bình năm cao, số giờ nắng cao, lượng mưa, ẩm độ lớn thích hợp cho thực vật, cây trồng
sinh trưởng và phát triển.
Nhưng bất lợi của thời tiết là luợng mưa phân bố không đều, tập trung vào mùa mưa
nên dễ gây ra hiện tượng lũ quét, lũ ống, sạt lở đất, đá lăn. Mùa đông ít mưa, khô hanh,
Trang
17
rét đậm, có xuất hiện sương giá và dễ gây nên hạn hán, cháy rừng. Mùa hè có gió Tây
Nam khô nóng, giông tố, mưa đá, bão, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân.
4. Thủy văn
Hệ thống sông suối của Quan Sơn được phân bố như sau. Sông Luồng bắt nguồn từ
Lào chảy qua các xã Na Mèo, Mường Mìn, Sơn Thủy chảy ra Nam Động huyện Quan
Hóa. Sông Lò Bắt nguồn từ Lào chảy qua các xã Tam Thanh, Tam lư, Sơn Lư,Thị Trấn,
Trung Thượng, Trung Tiến, Trung Hạ, Trung Xuân, đổ về sông Mã và nhiều suối khác
chảy về sông Lò, sông Luồng. Sông suối dốc, tốc độ dòng chảy lớn về mùa mưa lũ, là
nguy cơ gây lũ quét, lũ ống, sạt lở đất 2 bên bờ sông, suối ảnh hưởng trực tiếp đến nhà ở
và hoa mầu của nhân dân
Tuy nhiên Các xã phân bố ở vùng cao đã được quan tâm làm bể chứa nước nhưng
hiện nay nước cấp sinh hoạt còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
cũng như sản xuất của nhân dân..
5. Các nguồn tài nguyên
5.1. Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 93.017,03 ha, bao gồm những loại đất sau:
+ Đất nông nghiệp: 82.273,11 ha; chiếm 88,45% diện tích tự nhiên toàn huyện
- Đất sản xuất nông nghiệp: 2.521,16 ha; chiếm 2,71%;
- Đất cho sản xuất lâm nghiệp: 79.682,21 ha; chiếm 85,66%;
+ Đất phi nông nghiệp: 2.688,84 ha; chiếm 2,89%;
+ Đất chưa sử dụng: 8.055,08 ha; 8,66%.
Trang
18
Đất chưa sử dụng hiện nay là 8.055,08 ha (chiếm 8,66% DTTN) có thể khai thác
cho phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp và sử dụng vào các mục đích khác.
Địa chất: Với địa hình nêu trên, nền địa chất của huyện có các nhóm đá mẹ
chính như sau:
Nhóm đá Mác ma axít: có đá mẹ Granít, Riolít.
Nhóm đá Trầm tích; có đá Sa thạch, Phiến thạch, đá Vôi.
Từ các nhóm đá mẹ trên kết hợp khí hậu thời tiết đã hình thành nên các nhóm loại
đất khác nhau:
Nhóm đất Feralit trên núi (Fa; Fq; Fv) có màu vàng đến nâu vàng... hình thành trên
đá mẹ Mác ma axít, đá Sa thạch, đá Vôi. Nhóm đất Fa; Fq là phổ biến trên địa bàn tất cả
các xã trong huyện.
Nhóm đất mùn Halít trên núi cao (Ha; Hq) phân bố chủ yếu ở các đỉnh núi cao trên
1000 m.
Nhóm đất Feralit biến đổi do trồng lúa (Fl) phân bố chủ yếu ven đồi do khai hoang
xây dựng đồng ruộng sản xuất lương thực, hoa màu.
Nhóm đất phù sa bồi tụ ven sông, suối (Py) phân bố ven sông Luồng, sông Lò, suối
lớn thuộc đất canh tác trồng lúa, hoa màu.
Nhóm đất dốc tụ chân đồi (D), thường trồng màu, lương thực và trồng rừng.
5.2.Tài nguyên khoáng sản
Theo kết quả điều tra năm 2005 và 2007 ở trên địa bàn huyện Quan Sơn có các loại
khoáng sản sau
Trang
19
Mỏ chì, kẽm ở xã Sơn Thuỷ, Chì, bạc ở xã Sơn Hà, Sắt ở xã Tam Lư, Molipden ở
Mường Mìn, Graphit ở xã Na Mèo, về trữ lượng chưa xác định huyện Quan Sơn có
nguồn tài nguyên khoáng sản chủ yếu là đá Vôi, cát sỏi ở ven sông Lò, sông Luồng.
5.3. Tài nguyên rừng
Tổng diện tích đất lâm nghiệp của huyện nhiều chiếm phần lớn tổng diện tích tự
nhiên của huyện, với thảm thực vật rừng khá phong phú tạo thành quần thể tự nhiên có
vai trò quan trọng trong việc phòng hộ và cũng có một vai trò kinh tế nhất định, tuy nhiên
trong thời gian qua vẫn có một số diện tích đất rừng bị cháy. Rừng là nơi cung cấp
nguyên liệu phục vụ đời sống và góp phần chống xí mòn đất rất tốt.. Trong tương lai cần
chú ý tăng diện tích rừng khoanh nuôi bảo vệ rừng tăng độ che phủ rừng trong toàn
huyện đảm bảo cân bằng sinh thái và bảo vệ tài nguyên đất, chống xói mòn, bảo vệ sự đa
dạng sinh học và điều hòa nguồn nước.
Bên cạnh đó rừng và sản xuất ngành lâm nghiệp là thế mạnh của huyện Quan Sơn
được thể hiện trong các Nghị quyết và kế hoạch phát triển kinh tế của huyện.
Theo kết quả rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng tại Quyết định 2755/2007/QĐ-UBND
ngày 12-9-2007 của UBND tỉnh Thanh Hóa; Quyết định 346/QĐ-UBND ngày
26/01/2011 của UBDN tỉnh Thanh Hoá
Diện tích đất sử dụng vào mục đích lâm nghiệp đến là 79.682,21 ha chiếm 85,66%
tổng diện tích tự nhiên toàn huyện; trong đó rừng phòng hộ 31.058,22 ha; rừng sản xuất
48.623,99 ha.
Trữ lượng rừng ước tính có khoảng 2,3 triệu m 3 gỗ; 60 triệu cây luồng; 170
triệu cây tre nứa. Rừng giàu và rừng trung bình phân bố ở các dãy núi cao dọc biên
Trang
20
- Xem thêm -