Chương I:
1.1
Giới thiệu môn học
Giới thiệu chung về môn thị trường chứng khoán
Để dáp ứng nhu cầu về mục tiêu thực hiện việc đổi mới về nội dung và
chương trình đào tạo chuyên nghành kinh tế, theo hướng tiếp cận với những
kiến thức hiện đại và năng động của nền kinh tế thị trường môn học thị
trường chứng khoán ra đời với mục đính cung cấp cho sinh viên các ngành
kinh tế những kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Nội dung của môn học này chứa đựng những kiến thức cơ bản về thị trường
chứng khoán theo chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó cũng giới thiệu những
nét đặc thù của quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
Việt Nam. Qua việc nghiên cứu môn học này sinh viên sẽ được trang bị nhữg
hiểu biết chung về thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, cơ cấu tổ
chức hoạt động, cũng như các loại hàng hóa chứng khoán từ cơ bản đến
phát sinh
Đây là những tri thức ban đầu hết sức bổ ích và cần thiết để người đọc có
thể hiểu và tham gia thị trường chứng khoán.
1.2 Những kiến thức chính trong môn thị trường chứng
khoán.
1.2.1 Sự hình thành.
Do sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về tích vốn trong xã hội tăng
lên và trở nên đa dạng, phong phú; người thì cần vốn cho mục đích tiêu dùng
hay đầu tư, người thì có vốn nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lời. Đầu tiên, họ
tìm gặp nhau trực tiếp trên cơ sở quen biết. tuy nhiên sau đó, khi cung cầu
vốn không ngừng tăng lên thì hình thức vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan
hệ quen biết không đáp ứng được; Vậy cần phải có một thị trường cho cung
và cầu gặp nhau, đáp ứng các nhu cầu tài chính của nhau – Đó là thị trường
tài chính. Thông qua thị trường tài chính, nhiều khoản vốn nhàn rỗi được huy
động vào tiêu dùng, đầu tư, tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế.
Căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn, thị trường tài chính bao gồm:
Thị trường tiền tệ: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính ngắn
hạn dưới một năm.
Thị trường vốn: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và
dài hạn.
Tóm lại, ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân chưa cao và
nhu cầu về vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn. Theo thời gian, sự phát triển kinh tế,
nhu cầu về vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao; Chính vì vậy, Thị
trường vốn đã ra đời để đáp ứng các nhu cầu này. Để huy động được vốn dài
hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp,
Chính phủ và doanh nghiệp còn huy động vốn thông qua hình thức phát hành
chứng khoán. Khi một bộ phận các chứng khoán có giá trị nhất định được phát
hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán chứng khoán; và đây chính là sự ra đời
của Thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ phận của Thị trường vốn
nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán các loại.
1.2.2 Khái niệm.
Thị trường chứng khoán: là một bộ phận quan trọng của Thị trường
vốn, hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong
xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các
dự án đầu tư.
1.2.3 Kiến thức chính của môn thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán
các loại chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp
và thứ cấp. do vậy thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát
hành và trao đổi.
Thị trường sơ cấp: người mua mua được chứng khoán lần đầu từ
những người phát hành;
Thị trường thứ cấp: nơi diễn ra sự mua đi bán lại các chứng khoán đã
được phát hành ở Thị trường sơ cấp.
Hàng hóa giao dịch trên Thị trường chứng khoán bao gồm: các cổ
phiếu, trái phiếu và một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm
Vị trí của Thị trường chứng khoán: Trong thị trường Tài chính có hai thị
trường lớn là:
Thị trường Tài chính ngắn hạn (Thị trường tiền tệ);
Thị trường Tài chính dài hạn (Thị trường vốn): bao gồm Thị trường tín
dụng dài hạn (gồm Thị trường cho vay thế chấp và thị trường cho thuê
tài chính); và Thị trường chứng khoán.
Đặc điểm chủ yếu của Thị trường chứng khoán:
Được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, người cần vốn và
người cung cấp vốn đều trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không
có trung gian tài chính;
Là thị trường gần với Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mọi người
đều tự do tham gia vào thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên thị
trường chứng khoán, mà giá cả ở đây được hình thành dựa trên quan
hệ cung – cầu
Về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được
phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều
lần trên thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán đảm bảo cho các
nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của họ thành tiền mặt bất cứ
lúc nào họ muốn.
1.3 Chọn đề tài
Lý do trọn đề tài
Phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) là việc rất quan trọng và cần
thiết khi nước ta phát triển một nền kinh tế hàng hoá. Vốn tư bản sẽ trở thành
hàng hoá và tất yếu phải có một thị trường để có thể thực hiện việc trao đổi. Với
lịch sử phát triển hàng trăm năm và được tổ chức một cách hết sức chặt chẽ,
TTCk từ lâu nay đã được coi là một thể chế tài chính bậc cao và hoàn thiện nhất
của nền kinh tế thị trường, nếu thiếu nó, như nhiều chuyên gia kinh tế học vẫn
nói, nền kinh tế thị trường thiếu tính hoàn hảo.
Vai trò cơ bản của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế được thể
hiện rất rõ bằng việc tạo dựng một kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh
nghiệp (DN) từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó phải kể đến các nguồn vốn
nước ngoài.Thực tế hiện nay, nhu cầu vè vốn của các DN rất lớn. Thống kê từ
những thông tin điều tra do các DN cung cấp cho thấy, trong năm 2000, nhu cầu
vốn hoạt động kinh doanh của các DN cần khoảng 20 nghìn tỷ đồng Việt Nam,
tính bình quân mỗi DN cần khoảng 84 tỷđồng.
Nếu tính đến 2005 con số này vào khoảng 30 nghìn tỷ đồng,trung bình
mỗi DN cần khoảng 100 tỷ đồng. Mặt khác, các DN có nhu cầu mở rộng sản
xuất kinh doanh nhưng huy động vốn lại chủ yếu từ vay vốn ngắn hạn ngân
hàng, lượng vốn vay lại không được đáp ứng đầy đủ.
Từ những khó khăn đó, TTCH với tư cách là kênh huy động vốn dài hạn
sẽ tháo gỡđược những khó khăn trên. Hiện nay, ngoài sự quan trọng và cần
thiết, TTCK cũng là vấn đề thời sự, nóng bỏng trong nền kinh tế Việt Nam. Đây
cũng là vấn đề khá mới mẻ đối với người Việt Nam.Với tư cách là một sinh viên
một nhà đầu tư tương lai, em rất quan tâm tới vấn đề này.
Vì vậy, em cũng mạnh dạn chọn đề tài “Ảnh hưởng của lạm phát tới thị
trường chứng khoán Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu chuyên đề môn học của
mình. Do trình độ và thời gian có hạn, nên không thể tránh được những sai sót,
em rất mong nhận được ý kiến của cô giáo Trần Thị Yến, người đã hướng dẫn
em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương II: Ảnh hương của lạm phát đến thị
trường chứng khoán Việt Nam.
2 .1 Thực trạng lạm phát những năm gần đây và ảnh
hưởng của nó tới thị trường chứng khoán.
2.1.1 Tổng quan vấn đề lạm phát (Giai đoạn 20102013)
Phân tích chứng khoán nói chung không thể thiếu những phân tích về ảnh
hưởng của lạm phát đến cung - cầu phát hành và giao dịch chứng khoán, nhất là
chứng khoán có thu nhập cố định. Đồng thời, giá trị các khoản đầu tư chứng
khoán luôn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi diễn biến của lạm phát và đây là một trong
những rủi ro cơ bản trong đầu tư chứng khoán nói chung. Hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết – xương sống của thị trường chứng
khoán – cũng chịu tác động trực tiếp và gián tiếp ở các mức độ khác nhau bởi
lạm phát; và điều này đến lượt nó sẽ gây ra biến động giá cổ phiếu niêm yết trên
thịtrường.
Trên cơ sở đó, bài viết này tập trung vào tìm hiểu ảnh hưởng của lạm
phát đến thị trường chứng khoán dưới một số góc độ cơ bản liên quan đến cung
cầu và hành vi đầu tư cổ phiếu. Phương pháp phân tích là áp dụng các lý thuyết
kinh tế và kiểm chứng trong thực tế diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thời kỳ được xét từ 2010 đến nay là giai đoạn lạm phát “hoành hành” và diễn
biến ngoài tầm kiểm soát tại nhiều thời điểm đi kèm với sự suy giảm đáng kể của
thị trường chứng khoán trong nước.
Thứ nhất, lạm phát ảnh hưởng gián tiếp đến thị trường chứng khoán
thông qua tác động đến tình hình sản xuất hàng hoá, dịch vụ của các doanh
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp niêm yết nói riêng. Lạm phát là biểu hiện
của sự tăng lên và kéo dài của mức giá cả chung trong nền kinh tế; và một trong
những nguyên nhân dẫn tới lạm phát là do chi phí tăng cao (lạm phát chi phí
đẩy). Do vậy, lạm phát tăng thường đồng nghĩa với việc chi phí đầu vào cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tăng lên. Ví dụ, lạm phát khiến
chi phí lãi vay của doanh nghiệp đắt đỏ hơn bởi vì các tổ chức cho vay như
ngân hàng thương mại đã phải nâng lãi suất huy động lên để đảm bảo lãi suất
thực dương cho người gửi tiền. Khi chi phí sản xuất tăng cao, giá thành các sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sẽphải tăng theo để đảm bảo sản xuất – kinh
doanh hoặc có lợi nhuận. Tuy nhiên, sức tiêu thụ sản phẩm-dịch vụ của doanh
nghiệp sẽ sụt giảm do giá bán cao, đặc biệt trong ngắn hạn và khi người tiêu
dùng tìm tới các sản phẩm thay thế. Điều này khiến cho lợi nhuận mục tiêu của
doanh nghiệp khó được đảm bảo và thậm chí sụt giảm, dẫn tới lợi nhuận kỳ
vọng của doanh nghiệp trong tương lai bị định giá thấp. Kết quả là giá cổ phiếu
của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường bị ảnh hưởng theo hướng suy giảm
với các mức độ khác nhau. Nếu lạm phát càng tăng mạnh thì hệ quả này diễn ra
càng nhanh và giá cổ phiếu càng bị ảnh hưởng mạnh. Nếu lạm phát tăng quá
cao lại diễn ra trong môi trường chính sách tiền tệ - tài khoá thắt chặt thì hậu quả
còn nặng nề hơn vì thanh khoản trên thị trường bị co hẹp đáng kể do luồng vốn
lưu thông trên thị trường sụt giảm. Điều này trên thực tế đã diễn ra rõ nhất trong
năm 2012. Trong bối cảnh lạm phát lên tới mức hai con số kỷ lục như trên, các
doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do thiếu vốn đầu tư và thị trường bị thu
hẹp. Do vậy, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết trong quý 2 và
quý 3/2012 thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm 2010, dẫn tới giá cổ phiếu sụt
giảm mạnh trên thị trường.
Thứ hai, lạm phát tăng cao sẽ ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán
thông qua con đường thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm
phát. Có thể xem xét ảnh hưởng này trước hết với trái phiếu theo mô hình định
giá trái phiếu như sau:
Trong đó:
P0 : Giá trái phiếu đầu kỳ
Pn: Giá bán trái phiếu cuối kỳ n
Cn: Lãi suất coupon thời kỳ n
YTM: Lợi suất khi đáo hạn của trái phiếu
Khi cơ quan quản lý triển khai chính sách tiền tệ thắt chặt trong môi
trường lạm phát, mức lãi suất chung trên thị trường có xu hướng tăng. Điều này
dẫn tới yêu cầu và thực tế lợi suất khi đáo hạn (YTM) của trái phiếu tăng theo.
Do quan hệnghịch biến giữa giá và lợi suất trái phiếu, giá trái phiếu trên thị
trường sẽ giảm xuống và để tránh rủi ro này, nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu có xu
hướng bán ra trái phiếu hoặc cơ cấu lại danh mục đầu tư. Hệ quả là thị trường
trái phiếu diễn ra tình trạng bán tháo trái phiếu và gây ảnh hưởng tiêu cực tới thị
trường đấu thầu và huy động vốn trái phiếu. Trên thị trường chứng khoán Việt
Nam đã từng diễn ra hiện tượng này vào cuối năm 2013 khi nhiều tổ chức đầu
tư nước ngoài đẩy mạnh bán ra trái phiếu do lo ngại lãi suất thị trường tăng để
kiềm chế lạm phát.
Đối với thị trường cổ phiếu, ảnh hưởng tiêu cực của lạm phát có thể được
giải thích thông qua mô hình định giá cổ phiếu Gordon như sau:
Trong đó:
P0: Giá cổ phiếu thời kỳ đầu
Div (0,1): Cổ tức (thời kỳ đầu và cuối kỳ)
kE: Lợi suất yêu cầu khi đầu tư vào cổ phiếu
g: Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức hàng năm của doanh nghiệp
Do việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát,
tương tự như trên, lãi suất trên thị trường có xu hướng tăng. Từ kết quả trên đây
đối với thị trường trái phiếu (YTM tăng), và lãi suất danh nghĩa khi gửi tiền trên
hệ thống ngân hàng đã tăng, nhà đầu tư sẽ khó có thể chấp nhận một mức lợi
suất đầu tư vào cổ phiếu thấp (kE). Nói cách khác, lợi suất yêu cầu kE sẽ phải
tăng theo, do vậy chênh lệch lợi suất đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng của doanh
nghiệp (kE – g) tăng lên, đồng nghĩa với giá cổ phiếu (P0) giảm xuống. Với dự
báo giá cổ phiếu giảm như vậy, thị trường cổ phiếu sẽ chuyển sang giai đoạn
suy thoái do các hoạt động bán trước cổ phiếu để phòng ngừa rủi ro giảm giá.
Mặt khác, khi lạm phát và lãi suất tăng, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp
chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng xấu theo hướng giảm đi do chi phí tăng và lợi nhuận
kỳ vọng sụt giảm. Hệ quả của điều này cũng là (kE – g) tăng lên và dẫn tới xu
hướng tương tự (giá cổ phiếu giảm xuống).
Như vậy, trong môi trường lạm phát tăng cao, giao dịch trên thị trường
chứng khoán nhìn chung bị ảnh hưởng theo hướng tiêu cực một cách ngẫu
nhiên thông qua cơ chế tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt được triển khai
có hiệu quả (khiến lãi suất thực dương).
Để kết luận, có thể nói ảnh hưởng của diễn biến lạm phát đến thị trường
chứng khoán tại Việt Nam trong 4 năm qua là hoàn toàn mang tính khách quan
và phù hợp với các quy luật thị trường. Nói cách khác, không có sự “trái quy luật”
nào diễn ra trong quan hệ giữa diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam
và lạm phát thời gian qua. Việc thực thi phối hợp các chính sách kinh tế khác
nhau nhằm mục tiêu định hướng lạm phát đã thực sự khiến cho thị trường
chứng khoán vận động theo những hướng khác nhau một cách logic. Chỉ khi
nào việc quản lý điều hành thị trường tiền tệ, tài khoá và các chính sách khác
không đồng bộ mới xảy ra việc cơ chế tác động của lạm phát đến thị trường
chứng khoán không hoạt động hoặc kém hiệu lực. Để có thể xác định được một
cách chính xác nhất ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán như
thế nào, cần phải có những nghiên cứu nhằm xây dựng các mô hình kinh tế
lượng để có thể đo lường mức độ ảnh hưởng của lạm phát cùng với các biến số
độc lập khác đến giao dịch chứng khoán trên thị trường. Tuy nhiên, điều này là
một trở ngại không nhỏ liên quan đến nguồn số liệu và tính phức tạp của bản
thân vấn đề. Do vậy, việc áp dụng các lý thuyết kinh tế để giải thích cho những
thực tế như đã trình bày ở trên là điều cần thiết.
2.1.2 Tổng quan vấn đề thị trường chứng khoán
( Giai đoạn 2010 – 2013).
Giai đoạn 2010 đến nay diễn ra việc thu hẹp chính sách tiền tệ. Các gói
hỗ trợ lãi suất đã được chấm dứt và lãi suất cơ bản đã hai lần được nâng lên:
8%/năm (từ 1/12/2012) và 9%/năm (từ 5/11/2013). Các loại lãi suất chính khác
cũng được điều chỉnh tăng mạnh. Ngoài ra, cơ quan quản lý còn tiếp tục điều
chỉnh kỳ hạn và khối lượng bơm tiền qua nghiệp vụ thị trường mở (bắt đầu thực
hiện từ giữa tháng 10/2013) để kiểm soát và hạn chế bớt dòng tiền đổ vào nền
kinh tế. Đây rõ ràng là các biện pháp nhằm thu hẹp tiền tệ để hướng tới mục tiêu
kiềm chế lạm phát khi mà chỉ báo này (CPI) đã tăng lên tới trên 9% năm 2013.
Mặc dù đã chấm dứt các biện pháp nới lỏng tiền tệ - tài khoá từ giai đoạn trước
và thực hiện thu hẹp tiền tệ, nhưng do tăng trưởng tín dụng vẫn cao (29,81%
tính đến 31/12/2013, vượt quá mục tiêu 25%), đồng thời tăng trưởng tổng
phương tiện thanh toán năm 2013 cũng ở mức cao so với tăng trưởng GDP
(25,3% so với 6,78%) và một số nguyên nhân khác, nên chỉ số lạm phát vẫn
tăng và đã vượt lên gần mức hai con số. Trong bối cảnh lạm phát cao như vậy,
giao dịch trên thị trường chứng khoán không còn sức tăng mạnh như năm trước,
trải qua những diễn biến tăng giảm thất thường và nhìn chung sụt giảm. Được
đánh giá ở các chỉ tiêu sau:
Về số lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ (một chủ thể quan trọng trên thị
trường, gọi chung là CP) niêm yết trên thị trường chứng khoán có 825, bao gồm
304 trên HOSE, 383 trên HNX và 138 trên UPCOM.
Về chỉ tiêu này, trong những năm qua có một số điểm cần lưu ý. Số CP
niêm yết đã tăng khá trong 13 năm qua (từ 41 cuối năm 2010 lên 825 cuối tháng
9/2013). Tuy nhiên, hiện có một số vấn đề đáng quan tâm.
1. So với tổng số công ty cổ phần của cả nước đang hoạt động (hơn
70.000), thì số CP niêm yết vẫn còn quá ít (mới chiếm khoảng 12%).
2. Gần đây trên thị trường đã xuất hiện tình trạng số CP niêm yết mới ít
hơn số huỷ niêm yết (12/28).
3. Hiện còn khá nhiều DN lớn, DN hoạt động có hiệu quả, có sức hấp dẫn
vẫn chưa lên sàn; trong khi không ít DN đã lên sàn từ khá sớm hoặc trước đây
có sức hấp dẫn lớn nhưng nay lại gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Phần
nhiều DN niêm yết có quy mô nhỏ, quan trọng hơn là chất lượng của không ít
DN trên sàn còn yếu kém kể cả về hiệu quả hoạt động, cả về công tác hạch
toán, cung cấp công khai, minh bạch thông tin...
Theo đó, trong thời gian tới, cần phải đưa thêm nhiều DN lớn hấp dẫn lên
sàn, trên cơ sở đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước ở một số DN
thuộc các ngành lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ hoặc phải có cổ
phần chi phối, đồng thời, cần phải củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, chất
lượng hạch toán và cung cấp thông tin của các DN đã niêm yết.
Về giá trị vốn hoá thị trường/GDP tính đến hết tháng 9/2013 đạt khoảng
27,9% GDP 2012 (đã được Tổng cục Thống kê tính lại và tính đầy đủ hơn đối
với bất động sản). Tuy nhiên, tỷ lệ này còn thấp so với một số năm trước. Để
tăng giá trị vốn hoá/GDP, thị trường cần phải được tăng thêm nhiều DN lớn hơn
nữa (hiện còn đứng ngoài thị trường).
Về tổng giá trị giao dịch trên thị trường trong 9 tháng 2013 đã đạt 1.342 tỷ
đồng, tuy còn thấp hơn trong một số thời kỳ trước (năm 2009 là 2.600 tỷ đồng,
năm 2010 là 2.469 tỷ đồng), nhưng đã khá hơn thời kỳ khó khăn 2011-2012.
Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài tăng mạnh (khối lượng mua ròng 9 tháng
tăng 82%, giá trị mua ròng đạt 3.777 tỷ đồng, tăng 198,4% so với cùng kỳ năm
trước). Cùng với sự nới lỏng chính sách tiền tệ thì lượng tiền vào thị trường
trong thời gian tới đây sẽ tăng, có thể dần dần đạt mức 2.000 tỷ đồng/phiên vào
cuối năm.
Về số lượng nhà đầu tư. Hiện có khoảng gần 1 triệu tài khoản của nhà
đầu tư trên thị trường. Trong 9 tháng qua, có 551 nhà đầu tư nước ngoài được
cấp mã giao dịch (208 cá nhân, 344 tổ chức), tăng 65,5% so với cùng kỳ năm
trước (cá nhân tăng 10,1%, tổ chức tăng 138,9%). Ở đây có vấn đề cần chú ý là
số lượng nhà đầu tư không những thấp so với dân số, lao động, mà còn chủ yếu
là các nhà đầu tư cá nhân và cũng có không ít tài khoản đã lâu không giao dịch;
số nhà đầu tư là tổ chức còn chiếm tỷ trọng nhỏ (dưới 10%), ngược với các
nước phát triển. Tính đầu cơ, phong trào, đám đông còn khá nặng. Rất nhạy
cảm với tin đồn, nên sự biến động trong nhiều trường hợp là thái quá...
Về điểm số. Điểm số của VN-Index đến cuối tháng 9 đạt trên 492 điểm,
cao gấp trên 4,9 lần khi thị trường chứng khoán ra đời, với tốc độ tăng bình quân
1 năm đạt 13%/năm; so cuối tháng 9/2013 với cuối năm trước đã tăng trên 19%,
HNX tăng 6,8%, UPCOM tăng 0,2%; trong đó của một số mã còn tăng cao hơn
nhiều (HTL, VHG, PMS, TCM, PTB, CYC, DCL, MNC, SCL, HLY,…). Đó là
những tốc độ tăng thuộc loại khá. Tuy nhiên, điểm số chung trên sàn Hà Nội
(HNX) chỉ còn bằng khoảng 61% khởi điểm ra đời; hiện có đến 57% tổng số mã
đã ở mức dưới mệnh giá!...
Trong điều kiện lạm phát chậm lại liên tiếp từ gần 2 năm qua, lãi suất tiết
kiệm giảm xuống, hiện còn ở mức thấp; chính sách tiền tệ, tài khoá có xu hướng
nới lỏng, tăng trưởng tín dụng cao dồn vào cuối năm, lãi suất cho vay dần trở về
như thời kỳ trước khủng hoảng; thị trường bất động sản chưa hồi phục, thị
trường vàng đã kết thúc thập kỷ tăng và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định
hiện nay, nhiều chuyên gia đã dự đoán, chỉ số VN-Index có thể vượt qua mốc
500 điểm, thậm chí còn có dự đoán vượt 550 điểm và chỉ số HNX sẽ vượt qua
mốc 70 điểm vào cuối năm 2013; theo đó, lợi nhuận trên thị trường chứng khoán
sẽ có sự hấp dẫn trở lại trong những tháng tới; đó là chưa kể việc chia cổ tức…
Về huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Vốn huy động qua phát
hành thêm cổ phiếu và cổ phần hoá 6 tháng 2013 mới đạt 5 nghìn tỷ đồng, giảm
20% so với cùng kỳ năm trước; vốn huy động qua phát hành trái phiếu Chính
phủ đạt 123 nghìn tỷ đồng, tăng 67% so với cùng kỳ năm trước; dòng vốn FII
vào thuần trên thị trường chứng khoán đạt 404 triệu USD, cao gấp 8 lần so với
cùng kỳ. Trong khi việc tiếp cận vốn từ hệ thống tín dụng ngân hàng còn thấp,
việc tăng huy động vốn trên thị trường chứng khoán là rất có ý nghĩa, bởi thị
trường chứng khoán là kênh huy động vốn quan trọng, lại là kênh huy động dài
hạn. Khi các loại hình quỹ mới được thành lập và hoạt động, thực hiện việc nới
“rom”, thì tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng
khoán được mở rộng... sẽ góp phần tăng lượng vốn huy động trên thị trường
chứng khoán.
Về chính sách và điều hành trên thị trường chứng khoán đã có sự cải
thiện trong thời gian qua và được tiếp tục cải tiến trong thời gian tới. Đề án tái cơ
cấu tương đối toàn diện thị trường này được thực hiện sẽ tạo điều kiện cho thị
trường chứng khoán phát triển tốt hơn.
Thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn dài hạn; là chỉ báo quan
trọng của kinh tế vĩ mô, nên tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô. Đến lượt nó, ổn
định kinh tế vĩ mô sẽ tác động đến thị trường chứng khoán. Thị trường chứng
khoán bước đầu có dấu hiệu khởi sắc và là kênh đầu tư có tỷ lệ lợi nhuận cao
nhất hiện nay.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước như vậy, thị trường
chứng khoán Việt Nam đã phản ánh khá xác thực tình hình kinh tế vĩ mô,
đà tăng trưởng kinh tế, các tác đ ộng chính sách vĩ mô cũng như diễn biến
TTCK quốc tế.
Trong năm 2010, TTCK Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ nhờ các
chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ, đặc biệt là chính sách hỗ trợ
lãi suất, miễn giảm và hoãn thuế thu nhập. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao
trong năm 2010 một mặt góp phần thúc đẩy tăng trưởng nhưng cũng góp
phần giúp TTCK tăng mạnh trởlại. Ngoài ra, lạm phát giảm bớt trong năm
này cũng tạo thêm lòng tin về ổn định kinh tế vĩ mô.
Năm 2012 do áp lực lạm phát và lãi suất tăng cao, nhập siêu cao,
trong khi đó tăng trưởng tín dụng, cung tiền giảm so với năm 2009 nên chỉ
số VNIndex đã giảm 2,04%. Mặc dù vậy, TTCK Việt Nam tiếp tục đạt được
những kết quả rất tích cực trên các mặt quan trọng: giá trị vốn hóa đạt 39%
GDP, tăng 17,1% so với năm 2010; huy động vốn thực tế đạt 98,7 nghìn tỷ
đồng, gấp 3 lần so với năm 2010; giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt
2.480 tỷ đồng; dòng vốn nước ngoài vào thuần trên 1 tỷ USD; số lượng tài
khoản các nhà đầu tư tăng 38%...
Trong những tháng đầu năm 2013, TTCK có xu hướng sụt giảm. Cho
đến hết tháng 4, chỉ số VNIndex giảm 4,58 điểm, tương đương 0,9% nhưng
riêng tháng 5 có sự sụt giảm mạnh, giảm 58,71 điểm tương đương 12,2% do
lo ngại về vấn đề giải chấp nhằm đáp ứng yêu cầu về giảm dư nợ tín d
ụng phi sản xuất của Ngân hàng Nhà nước xuống 22% vào cuối tháng 6.
Trong tháng 6, chỉ số có sự phục hồi so với tháng 5, VNIndex tăng 5,2% do
áp lực giải chấp đã được giải tỏa phần nào.
Tuy nhiên, tính từ đầu năm cho tới cuối tháng 6, VNIndex giảm
10,5% so với cuối năm 2012. Giá trị giao dịch bình quân cổ phiếu, chứng
chỉ quỹ mỗi phiên trong trong 6 tháng đ ầu năm là 1.164,6 tỷ đồng, bằng
47% so với mức bình quân năm 2010. Mức vốn hóa cuối tháng 6 đạt 686
nghìn tỷ đồng, giảm 40 nghìn tỷ đồng, tương đương trên 5,5% so với cuối
năm 2012; mức vốn hóa so với GDP giảm xuống 36% từ mức 39% cuối
2012. Huy động vốn qua TTCK cũng gặp khó khăn do TTCK giảm sút và
mặt bằng lãi suất cao. Tính chung 6 tháng, vốn huy động qua trái phiếu
Chính phủ và Chính phủ bảo lãnh đạt 35,1 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2,7 lần
so với cùng kỳ năm 2010, chiếm gần 90% tổng vốn huy động qua TTCK từ
đầu năm. Tuy nhiên, vốn huy động qua phát hành thêm cổ phiếu chỉ đạt 4,5
nghìn tỷ đồng, tương đương 16% và vốn huy động qua đấu giá cổ phần hóa
đạt 0,56 nghìn tỷ đồng, bằng 68% so với cùng kỳ năm trước. Dòng vốn đầu
tư gián tiếp nước ngoài cũng sụt giảm. Cho đến cuối tháng 6, có khoảng
46% các công ty niêm yết có giá thị trường thấp hơn mệnh giá và 74% các
công ty niêm yết có giá thị trường thấp hơn giá trị sổ sách; có 45% các công
ty niêm yết có hệ số P/E thấp hơn 5. Do giá chứng khoán và khối lượng
giao dịch sụt giảm mạnh nên nhiều công ty chứng khoán thua lỗ; hoạt động
tự doanh và hoạt động môi giới cũng không hiệu quả do thu không đủ bù
chi; hoạt động tư vấn đầu tư, phát hành, niêm yết, bảo lãnh cũng bị thu hẹp.
2.1.3 Tác động của lạm phát đến thị trường chứng
khoán. ( giai đoạn2010 – 2013)
Hiện nay. Với các nước đang phát triển, tỉ lệ lạm phát ở mức 5% là chấp
nhận được. Nhưng tại Việt Nam, lạm phát trong 7 tháng đầu năm đã lên tới
8,4%, rất cao so mức trung bình của thế giới và khu vực (2,5%-3,5%).
Mặc dù lạm phát và chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
nhưng rất ít các NĐT cá nhân trong nước quan tâm đến vấn đề này. Điều này có
thể giải thích bằng một số lý do: TTCK Việt Nam mới được 7 tuổi, chưa trải qua
một lần test thử cơn bệnh lạm phát nên các NĐT cá nhân cũng chưa quan tâm
tới sự tác động của lạm phát tới giá cổ phiếu. Một phần sự thờ ơ này có lý do từ
thói quen lướt sóngcủa các NĐT trong nước, ít quan tâm đến các nhân tố tác
động vào giá chứng khoán trong dài hạn. Thời gian qua, chỉ số Vn-Index dao
động với biên độ rất mạnh, mối bận tâm của các NĐT cá nhân vẫn hướng về sự
biến động của thị giá hằng ngày. Thêm nữa, thị trường lại liên tiếp đón nhận các
tin xấu: Chỉ thị 03, báo cáo của HSBC và Merryll Lynch, nguy cơ khủng hoảng tài
chính toàn cầu... làm phân tán sự quan tâm của các NĐT. Theo các chuyên gia
kinh tế, lạm phát tăng cao trong 7 tháng đầu năm là do: Tình trạng dịch bệnh gia
súc, cúm gia cầm, cộng với thời tiết không thuận lợi đã làm giảm mạnh nguồn
cung lương thực, thực phẩm, đẩy giá lương thực thực phẩm tăng cao; Giá một
số hàng hóa đầu vào cơ bản, đặc biệt là giá dầu lửa tăng mạnh trên thế giới đã
tạo nên sức kéo tăng giá ở rất nhiều ngành khác; Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
tăng mạnh, Ngân hàng Nhà nước bơm tiền mua 7 tỷ đô la Mỹ, tương đương với
việc ném ra thị trường hơn 112.000 tỷ đồng (khoảng 10% GDP), tăng tỉ lệ dự trữ
ngoại tệ mục đích bảo đảm sự an toàn trong thanh toán quốc tế.
Thông thường, chỉ số tiêu dùng (CPI) ôn hòa, ổn định ở mức khoảng 5%
là điều kiện lý tưởng để TTCK hoạt động bình thường, tránh sốc nóng, lạnh
trong giả định các nhân tố khác liên quan đến TTCK không đổi. Còn khi CPI tăng
gây ảnh hưởng đến TTCK qua 4 cơ chế sau:
1. CPI tăng sẽ trực tiếp làm tăng khó khăn cho các doanh nghiệp gắn với
việc phải tăng lãi vay tín dụng, tăng lương và các chi phí đầu vào khác,từ đó làm
tăng chi phí sản xuất và giá bán đầu ra, gây khó khăn về thị trường và nguy cơ
đổ vỡ các kế hoạch, các hợp đồng kinh doanh nhiều hơn.
Điều này làm giảm lợi nhuận kinh doanh và lợi tức cổ phiếu, các Báo cáo tài
chính kém sáng sủa và Chứng khoán của các doanh nghiệp cũng trở nên kém
hấp dẫn
hơn, đồng nghĩa với việc giảm sút nhiệt tình đầu tư và sự sôi động của TTCK…
2. CPI tăng sẽ làm tăng áp lực buộc nhà nước phải thực hiện chính sách
tín dụng thắt chặt, như giảm hạn mức tín dụng, tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi
suất cơ bản và lãi chiết khấu ngân hàng,các điều kiện tín dụng khác cũng ngặt
nghèo hơn, khiến các nhà
đầu tư chứng khoán tiếp cận nguồn tín dụng khó khăn và đắt đỏ hơn, vì vậy làm
giảm đầu tư vào TTCK…
3. CPI tăng sẽ kéo theo việc phải tăng lãi suất ngân hàng, khiến lãi suất
ngân hàng trở nên hấp dẫn hơn kinh doanh chứng khoán, thúc đẩy việc tăng
mức gửi tiết kiệm hoặc mua vàng để bảo toàn tiền vốn của nhà đầu tư, điều này
cũng khiến làm thu hẹp dòng đầu tư trên TTCK…
4. CPI tăng có thể còn gây 2 tác dụng trái chiều khác là :Tăng bán ra các
chứng khoán "xấu" để rút vốn khỏi TTCK, và tăng mua vào những chứng khoán
"tốt" để "ẩn nấp" lạm phát. Xu hướng bán tháo chứng khoán thường xảy ra khi
trên TTCK có nhiều hàng hoá-chứng khoán chất lượng thấp và xuất hiện nhiều
các tín hiệu làm giảm sút lòng tin của các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư
không chuyên nghiệp, vốn
mỏng…
Như vậy. Lạm phát có thể tác động trực tiếp đến tâm lý nhà đầu tư và giá
trị của các khoản đầu tư trên thị trường chứng khoán. Lạm phát tăng là một
trong những biểu hiện bất ổn của nền kinh tế. Do vậy, lạm phát tăng cao có thể
dẫn tới nguy cơ khủng hoảng niềm tin vào nền kinh tế, nhất là khi Chính phủ tỏ
ra bất lực trong việc kiềm chế lạm phát leo thang. Trong môi trường này, tâm lý
nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng và
thị trường chứng khoán sẽ không còn là một địa chỉ thu hút vốn đầu tư bởi
nó cũng chính là một “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Nếu điều này xảy ra,
sẽ xuất hiện “tâm lý bầy đàn” trong việc bán tháo cổ phiếu do khủng hoảng
niềm tin. Hậu quả sẽ là cung cổ phiếu lớn gấp nhiều lần so với cầu và thị
trường diễn ra tình trạng kém thanh khoản nghiêm trọng. Điều này càng trở
nên hiện thực khi các nhà đầu tư cảm thấy sự mất mát trên thị trường chứng
khoán do giá trị các khoản vốn đầu tư vào chứng khoán của họ đã bị giảm đi
về mặt giá trị tương đối so với môi trường khi lạm phát chưa tăng. Sự trớ
trêu trong hoàn cảnh này là thị trường chứng khoán càng trở nên kém hấp
dẫn hơn so với các hình thức đầu tư khác như gửi tiết kiệm do lãi suất đã
được tăng để đảm bảo lãi thực trên hệ thống ngân hàng, hoặc so với đầu tư
vào vàng do sức tăng giá của vàng lớn hơn với vai trò là “nơi trú ẩn” an toàn
trong môi trường bất ổn kinh tế. Có lẽ hiện thực này đã diễn ra ứng với 4 cơ
chế nêu trên với những biểu hiện rất rõ như lạm phát tăng đáng kể, lãi suất
trên thị trường tiền tệ tăng cao, giá vàng leo lên các mức kỷ lục lịch sử và thị
trường chứng khoán nhìn chung đi xuống. Nếu chưa kể đến các yếu tố kinh
tế khác có tác động như ảnh hưởng của thị trường thế giới, cung tiền, tính
chất mùa vụ, v.v…, những diễn biến trên rõ ràng chịu ảnh hưởng của môi
trường lạm phát và diễn ra phù hợp với các quy luật kinh tế
2.2
Đánh giá chung về ảnh hưởng của lạm phát đến thị
trường chứng khoán Việt Nam
Sự gia tăng trong mức giá chung hàm ý giảm sức mua của đồng tiền. Có
nghĩa là, khi mức chung của giá cả tăng lên, mỗi đơn vị tiền tệ mua được ít hàng
hóa và dịch vụ hơn. Ảnh hưởng của lạm phát được phân bố không đều trong
nền kinh tế, và kết quả là có những chi phí ẩn để một số và lợi ích cho người
khác điều này làm giảm sức mua của tiền bạc. Với lạm phát, những phân đoạn
trong xã hội mà sở hữu tài sản vật chất, chẳng hạn như bất động sản, chứng
khoán vv... Được hưởng lợi từ giá trị cổ phần của họ đi lên, trong khi những
người tìm kiếm để có được chúng sẽ cần phải trả nhiều tiền hơn. Khả năng của
họ để làm như vậy sẽ phụ thuộc vào mức độ mà thu nhập của họ là cố định. Ví
dụ, sự gia tăng trong thanh toán cho người lao động và người về hưu thường tụt
hậu so với lạm phát, và cho một số người có thu nhập cố định. Ngoài ra, các cá
nhân hoặc tổ chức có tài sản tiền mặt sẽ phải trải nghiệm một sự suy giảm sức
mua của đồng tiền. Tăng mức giá (lạm phát) làm xói mòn giá trị thực của tiền
(đồng tiền chức năng) và các mặt hàng khác có tính chất tiền tệ cơ bản. Khách
nợ có khoản nợ được với lãi suất danh nghĩa cố định của lãi suất sẽ giảm lãi
suất "thực sự" như tỷ lệ lạm phát tăng. Lãi suất thực tế trên một khoản vay là lãi
suất danh nghĩa trừ đi tỉ lệ lạm phát. Ví dụ, khi tỷ lệ lạm phát là 3%, một khoản
vay với lãi suất danh nghĩa 5% sẽ có một tỷ lệ lãi suất thực tế khoảng 2%. Bất kỳ
sự gia tăng bất ngờ nào trong tỷ lệ lạm phát sẽ làm giảm lãi suất thực. Các ngân
hàng và cho vay khác điều chỉnh cho rủi ro lạm phát này bằng cách bao gồm cả
phí bảo hiểm rủi ro lạm phát với các khoản vay lãi suất cố định, hoặc cho vay với
tỷ lệ điều chỉnh.
Bên cạnh một số kết quả đạt được, tình hình kinh tế xã hội đang nổi lên những vấn đề đáng lưu ý sau đây :
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy vẫn tiếp tục giữ ở mức
cao nhưng đã có biểu hiện chậm lại. Đáng lưu ý, tốc độ tăng
trưởng trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng thấp hơn kế
hoạch và mức tăng cùng kỳ năm 2013, tháng sau thấp hơn
tháng trước. Xuất khẩu tuy tiếp tục tăng nhưng đã gặp một
số khó khăn và có dấu hiệu chậm lại, trong khi đó, nhập siêu
- Xem thêm -