Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam
Chương 1: Tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và thế
giới của Việt Nam.
1. Xu hướng hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới.
2. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam.
3. Lý luận chung về quá trình hội nhập và phát triển kinh tế
thương mại trong khu vực Asean.
3.1. Hội nhập Asean : Mục đích và kết cấu.
3.2. Nguyên tắc và nội dung các phương pháp tiến trình tham
gia hội nhập kinh tế thương mại Asean.
3.2.1. Nguyên tắc và nội dung quá trình tham gia hội nhập.
3.2.2. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập Asean.
4. Sự cần thiết để tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực
Asean.
Chương II: Thực trạng tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu
vực Asean – lộ trình thự hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương
mại Asean của Việt Nam.
1. Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế
Đánh giá quá trình tham gia hội nhập của Việt Nam
1.2.1. Những ưu điểm.
1.2.2. Những nhược điểm
2. Một số tác động của việc tham gia quá trình hội nhập kinh tế
2.1. Tác động của doanh nghiệp
2.2. Tác động của nhà nước
3. Lộ trình thực hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại
Asean.
3.1.Qúa trình phát triển khu vực kinh tế thương mại Asean.
3.2. Xây dựng lộ trình tham gia hội nhập thương mại Asean.
Chương III: Giải pháp xúc tiến khi tham gia hội nhập khu vực kinh
tế thương mại Asean.
1
1. Một số khó khăn vướng mắc trong lộ trình tham gia hội nhập.
2. Các giải pháp tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực
Asean
Đối với nhà nước.
Đối với doanh nghiệp.
Kết luận.
Chương 1: Tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và
thế giới của Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện mở cửa kinh tế quốc gia,
phát triển kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế quốc gia gắn liền với
kinh tế khu vực và thế giới, là tham gia ngày càng nhiều vào các
hoạt động kinh tế quốc tế vào hệ thống thương mại đa phương.
Thực chất của hội nhập kinh tế quốc tế là phát triển kinh tế quốc
gia trong sự cạnh tranh với kinh tế các nước trong khu vực và trên
thế giới. Do vậy, tiêu chuẩn để đánh giá quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của một quốc gia phải thể hiện ở việc thực hiện được các
mục tiêu phát triển ở mức độ cao trong điều kiện nền kinh tế, của
các doanh nghiệp trong nước.
2
Trong bối cảnh hiện nay, hôi nhập là qui luật tất yếu khách
quan đối với sự phát triển kinh tế của các nước do:
Do sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa
đời sống kinh tế thế giới nên không có một nước nào có thể phát
triển kinh tế một cách độc lập rõ rang được.
Do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã
vượt ra khỏi phạm vi quốc gia mang tính quốc tế thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ của phân công lao động quốc tế. Từ đó nó đòi hỏi
nền kinh tế mỗi quốc gia phải hội nhập với kinh tế khu vực và kinh
tế thế giới.
Do sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đã tạo điều kiện và đòi hỏi nền kinh tế của mỗi
quốc gia cần phải khai thác có hiệu quả những thành tựu khoa học
công nghệ của thế giưới để phát triển nền kinh tế quốc gia.
Do xu hướng hòa bình, hợp tác cùng phát triển đòi
hỏi các quốc gia trên thế giới cần phải thực hiện sự đối thoại thay
cho đối đầu về quốc gia.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế, trên thế giới không
một quốc gia nào có đủ lợi thế tất cả các nguồn lực, do hội nhập
kinh tế quốc tế là cần thiết để giải quyết những vấn đề khó khăn
của các nguồn lực cho việc phát triển kinh tê mà mỗi nước sẽ
không thể tự giải quyết được từ những nguồn lực bên trong của
mình.
Trong quá trình phát triển, nền kinh tế các nước đều
không muốn tự mình bị tụt hậu quá xa nên phải tìm mọi cách hội
nhập vào xu hướng chung. Hội nhập là một cuộc cạnh tranh gay
go, khốc liệt để phát triển nền kinh tế quốc gia, tạo điều kiện củng
cố an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc
thong qua việc thết lập các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đan
xen nhiều chiều, ở nhiều mức độ khác nhau với các quốc gia khác.
Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới để phát triển kinh
tế , trên cơ sở nhận thúc được vai trò quan trọng của việc mở rộng
quan hệ đối ngoại đối với việc phát triển nền kinh tế. Đại hội Đảng
lần thứ IX tiếp tục khẳng định thực hiện nhát quán đường lối đối
ngoại độc lập và phát triển.
3
Trong quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, chúng ta muốn
hợp tác lâu dài, có hiệu quả, tin cậy lẫn nhau với các nước trên cơ
sở các nguyên tắc:
Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dung vũ lực
hoặc đe dọa dung vũ lực,
Bình đẳng cùng có lợi.
Giải quyết các bất đồng, các tranh chấp bằng
thương lượng hòa bình.
Không có âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt
và cường quyền với các nước khác.
Việc chủ động hôi nhập phải trên tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiẹu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng
phát triển và mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam cần
phải tiến hành các bước cải cách kinh tế mạnh mẽmẽ hơn.Với mục
tiêu hội nhập là tự do hóa thương mại và đầu tư có ý nghĩa quyết
định đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội. Muốn
vậy, để hội nhập kinh tế, các nước cần thực hiện các hiệp định
thương mại, thực hiện các liên kết kinh tế quốc tế và các tổ chức
kinh tế quốc tế. Trong các Hiệp điịnh chính phủ, các quốc gia đưa
ra và thực hiện các cam kết
Cam kết dành ưu đãi cho các nước khác.
Cam kết về mức độ và tiến trình mở cửa hội nhập thị trường nội
địa
Cam kết về mức độ và tiến trình cắt giảm thúê quan, từng bước dỡ
bỏ hang rào phi thuế quan nhằm thực hiện tự do hóa thương mại và
đầu tư.
Cam kết thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử đãi ngộ tối
huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, nguyên tắc sự minh bạch chính sách
và pháp luật lien quan đến thương mại.
4
1. Xu hướng hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới.
Ngày nay xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế đang
gia tăng mạnh mẽ. Đây là xu hưứong tích cực nhằm khai thác tối
đa hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Phù hợp
với xu thế này, Việt Nam đã và đang tham gia tích cực và hiệu quả
vào Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN), khu vực mậu dịch tự do
Đông Nam Á – AFTA ( Asean Free Trade Area), diễn đàn hợp tác
châu Á – Thái Bình Dương APEC, hiệp hội thương mại Việt – Mỹ
và tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là bước ngoặt quan
trọng trong chính sách đổi mới toàn diện của Việt Nam trên tất cả
các lĩnh vực hợp tác thương mại, kể từ sau Đại hội Đảng VI (1986)
– Việt Nam đã xác định con đường phát triển kinh tế - xã hội cho
riêng mình.
Việc gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực cũng như các tổ chức
kinh tế thế giới được đánh giá : Đó vừa là cơ hội vừa là thách thức
đối với Việt Nam. Bên cạnh những lợi ích kinh tế - xã hội khi tham
gia vảtở thành thành viên các tổ chức thì Việt Nam phải tự điều
chỉnh cải cách chính sách quốc gia như chính sách thuế, thương
mại, ngân hàng cho phù hợp với luật chơi của các tổ chức này. Hay
nói cách khác là để có được những lợi íchvà tránh khỏi những thiệt
hại không đáng có thì Việt Nam phải có đường lối chính sách và
điều chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với cam két của các tổ
chức quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Nhận thức rõ vấn đề này, chính phủ Việt Nam trong thời gian qua
đã không ngừng đổi mới chính sách để phù hợp với yêu cầu phát
triển cũng như để thực hiện những cam kinh tếết quốc tế. Chính
phủ đã giao cho các bộ các ngành từng nhiệm vụ chiến lược cụ thể
nhằm thực hiện cải cách, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới.
2. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam:
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, thế giới đã có
những sự biến đổi to lớn, tiêu biểu là sự xuất hiện của các khu vực
kinh tế khổng lồ như : Liên minh châu âu ( EU), khối thị trường
5
chung khu vực Đông và Nam Phi, tổ chức thương mại thế giới
WTO.
Sự xuất hiện của các khu vực và tổ chức kinh tế này là kinh tếết
quả của xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
Đây là sự liên kết giữa các quốc gia với nhau nhằm mục đích mang
lại một khối lượng sản phẩm thế giới lớn hơn, thỏa mãn nhu cầu
cao hơn cho mỗi quốc gia.
Trong quá trình hình thành và phát triển tự nhiên, mỗi quốc gia có
một lợi thế so sánh riêng vè nguồn lực con người, tài nguyên thiên
nhiên, đất đai, khí hậu, địa lý đã tạo ra ức tranh đa dạng trong nền
kinh tế thế giới và chỉ khi nào có sự phối hợp giữa các nguòn lực
của các quốc gia thì mới có thể phát triển toàn diện được. Lợi thế
so sánh của quốc gia này sẽ hỗ trợ bổ sung cho thiếu hụt, hạn chế
của quốc gia kia, làm cho thé giới phụ thuộc lẫn nhau, đưa các
quốc gia gắn kinh tếết lại gần nhau trở thành một thực thể kinh tế
thông nhất.
Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học,
công nghệ, sức sản xuất ngày càng phát triển kéo theo sự đòi hỏi
cấp bách về thị trường tiêu thụ khiến cho quá trình cạnh tranh
giành giật thị trường giữa các quốc gia và các thực thể kinh tế ngày
càng trở nên gay gắt hơn. Nếu như mỗi quốc gia tồn tại độc lập,
đơn phương trong cả thị trường thế giới rộng lớn sẽ không thể tách
khỏi sức ép quá lớn thậm chí còn lâm vào suy thoái, thui chột sức
phát triển đất nước. Do vậy, tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài
lề của sự phát triển, đều phải tham gia liên kinh tếết kinh tế, nỗ lực
hội nhập vàp xu thế khu vực hóa toàn cầu hóa hiện nay, ra sức
cạnh tranh kinh tế và sự tồn tại và phát triển của chính mình.
Đứng trước đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế, Việt Nam đã và
đang cố gắng thay đổi một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp
trước đây bằng một nền kinh tế mở cửa hòa nhập với vận hội phát
triển kinh tế thế giới.
Việt Namới đường lối đổi mới và hòa nhập kinh tế quốc tế đúng
đắn. Việt Nam đã đi những bước đi thành công và vững chắc trong
tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của mình.
6
Ngày 17/10/1994 Việt Nam chính thức gửi đơn gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (Asean), từ ngày 25/7/1995 đã chính
thức tham gia tổ chức này và từ 1/1/1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ
thành viên chính thức của khu vực mậu dịch tự do Asean.
3.Lý luận chung về quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thương
mại trong khu vực Asean.
Tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã có
một vị thế mới trên diễn đàn quốc tế, Thế giới biết đến Việt Nam
voiứ tư cách một quốc ga đang trong giai đoạn nỗ lực cải cách
nhằm tìm kiếm cho mình những cơ hội để phát triển kinh tế. Khi
tham gia Asean, Việt Nam sẽ có cơ hội được hợp tác, giúp đỡ kinh
tế trên các phương diện như: thương mại, hải quan, công nghiệp,
nông – lâm – ngư nghiệp, lương thực, hợp tác về đầu tư, trong các
lĩnh vực khoáng sản, năng lượng, tài nguyên để dần dần phát triển
ngang bằng voiứ các thành viên trong khu vực.
Việt Nam tham gia hội nhập ASEAN Việt Nam với các hoạt động
kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trong hiệp hội phát triển
mạnh mẽ và vững chắc.Với các chính sách về kinh tế được hội
nhập,các chương trình phối hợp lập trường đối với các vấn đề
thương mại của ASEAN.
Trong những năm qua, ASEAN đã có nhiều biến chuyển to lớn
trong xây dựng khu vực tự do thương mại. Bên cạnh thương mại
hàng hoá, thương mại dịch vụ đang có vai trò ngày càng lớn hơn
trong đời sống kinh tế khu vực.
Lãnh đạo các nước ASEAN đặt ra lộ trình tự do hoá hoàn toàn thị
trường dịch vụ khu vực vào năm 2020. Trước mắt, phấn đấu năm
2010, tự do hóa hoàn toàn các lĩnh vực ưu tiên.
Hiện, các nước ASEAN đã kết thúc 3 vòng đàm phán, ký kết được
4 gói cam kết thuộc khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về
thương mại dịch vụ (AFAS) và đang tiến hành vòng đàm phán thứ
tư, thể hiện sự cố gắng của các thành viên. Tuy nhiên, do dịch vụ
đang là lĩnh vực mới mẻ với nhiều nước thành viên nên còn không
7
ít khó khăn, trở ngại, đòi hỏi các nước phải nỗ lực hơn nữa để có
thể phát triển thành công thị trường tự do của khu vực.
Phó thủ tướng Vũ Khoan khẳng định: “Việt Nam luôn xem dịch
vụ là lĩnh vực đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với
việc hình thành một thị trường tự do của ASEAN. Việt Nam đã,
đang và sẽ tích cực, chủ động trong việc cùng các nước tiến hành
đàm phán, tìm ra giải pháp để tự do hoá nhanh, sâu, rộng thị
trường dịch vụ khu vực”.
Đâylà cơ hội cho khu vực nhà nước và khu vực doanh nghiệp trao
đổi thông tin, ý tưởng, nhằm góp phần thúc đẩy việc hình thành thị
trường dịch vụ tự do của khu vực.
Việc hình thành và tăng cường các cơ chế, hình thức hợp tác và
lien kinh tế mới này đã và đang tạo nhiều cơ hôi thách thức cho
ASEAN, trong đó có Việt Nam :
Thứ nhất, việc thiết lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ đưa
ASEAN trở thành một khối có sự liên kết vững chắc, một thị
trường duy nhất có cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu
thông tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư vốn và nhân công có tay
nghề sẽ thúc đẩy cải cách hệ thống pháp luật và nền hành chính
quốc gia trong nước, tiếp cận được nhiều hơn các yếu tố bên ngoài,
nhất là vốn, thị trường và công nghệ hiện đại, làm tăng cơ hội việc
làm và nâng nhanh mức sống của dân chúng.
Thứ hai, sự thiết lập Cộng đồng an ninh ASEAN sẽ lam tăng
nhanh mức độ tin cậy và ý thức cộng đồng trong ASEAN, thúc
đẩy hợp tác chính trị , khinh tế an ninh nội khối lên tầm quan trọng
mới.Điều này sẽ tạo ra sự thăng bằng trong hợp tác khu vực và
quốc tế, giúp ASEAN vừa tăng cường tính mở, vừa duy trì được
bản sắc, phong cách ứng xử truyền thống của mình, làm tăng khả
năng phòng ngừa và tiến tới giải quyết các xung đột có thể xảy ra
trong tương lai.
8
Thứ ba, sự gia tăng giành ưu thế kiểm soát – chính trị giưa các
nước lớn tại Đông Nam Á, đặc biệt hơn là giữa Mỹ và Trung Quôc
cùng với cơ hội phát triển của thể chê thương mại tự do đa phương,
song phương về một mặt nào đó, cũng mở ra cơ hội rộng lớn về
hợp tác và tăng sức mặc cả của ASEAN trong các vấn đề quốc tế
khu vực. Điều này sẽ có lợ thế cho Việt Nam – nước có vị trí chiến
lược, đang thu hút sự chú ý của các nước lớn.
Tham gia ASEAN Việt Nam đã thực hiện các chính sách kinh tế
đường lối chính trị tạo điều kiẹn cho sự phát triển bền vững nền
kinh tế khu vực.Việt Nam tham gia vào xây dựng khu vực tụ do
thương mại tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế.
3.1. Hội nhập Asean : Mục đích và kết cấu :
Việt Nam tham gia ASEAN với các mục đích:
Một là, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các quốc gia
thành viên, thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực,
duy trì môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư,
tham khảo kinh nghiệm phát triển, trình độ khoa học-kỹ thuật, kỹ
năng điều hành quản lý, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam
hội nhập, phát triển thuận lợi, nâng cao khả năng cạnh tranh, góp
phần hỗ trợ thúc đẩy quá trình cải cách và công cuộc Đổi mới.
Ba là, đẩy mạnh hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên
ASEAN khác đóng góp vào việc củng cố hoà bình, ổn định và phát
triển ở khu vực và trên thế giới.
Bốn là, thông qua hợp tác ASEAN thúc đẩy quan hệ song phương
và đa phương của Việt Nam với các đối tác trong và ngoài khu
vực, nhất là các Bên Đối thoại của ASEAN, nhằm cải thiện và
9
nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, mở rộng quan
hệ với các nước lớn.
Năm là, tham gia ASEAN cũng là bước chuẩn bị, tích luỹ kinh
nghiệm và tranh thủ sự ủng hộ tích cực nhằm tạo thuận lợi cho
Việt Nam tham gia hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng hơn và
tham gia hiệu quả các thể chế hợp tác khác như Diễn đàn Khu vực
ASEAN (ARF), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình
Dương (APEC), Diễn đàn Á - ÂU (ASEM), Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO).
3.2. Nguyên tắc và nội dung các phương pháp tiến trình tham gia
hội nhập kinh tế thương mại Asean.
3.2.1. Nguyên tắc và nội dung quá trình tham gia hội nhập.
Nguyên tắc chủ đạo trong Asean là đồng thuận.
ASEAN sẽ không giống EU khi Hiến chương chung của Hiệp hội
ra đời. Khác với Liên minh Châu Âu (EU), một tổ chức mang tính
chất siêu quốc gia, Hiến chương ASEAN xác định tính chất hợp
tác của ASEAN là một tổ chức hợp tác khu vực liên chính phủ,
dựa trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các nước thành viên.
Tính chất liên chính phủ của ASEAN là nền tảng, quyết định nhiều
vấn đề cơ bản của ASEAN.
Tạo cơ sở pháp lý chung cho Hiệp hội nhưng Hiến chương
ASEAN không đề cập đến việc thành lập Quốc hội ASEAN, Toà
án ASEAN, trừng phạt hoặc treo tư cách thành viên khi có vi
phạm, ra quyết định bằng bỏ phiếu….
Mục đích và nguyên tắc của ASEAN là hoà bình, an ninh, ổn định
và hợp tác khu vực, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Không cho phép sử dụng lãnh thổ để chống lại nước thành viên
10
Cũng theo Hiến chương, ASEAN có mục tiêu liên kết, thu hẹp
khoảng cách phát triển, hướng về nhân dân và vai trò trung tâm
của ASEAN ở khu vực.
Nguyên tắc việc các nước không tham gia và không cho phép bất
kỳ quốc gia/đối tượng nào được sử dụng lãnh thổ của một nước
thành viên để chống lại một nước thành viên khác. Mọi tranh chấp,
bất đồng được quy định giải quyết thông qua biện pháp hoà bình,
thương lượng dựa trên các thoả thuận đã có của ASEAN.
Trường hợp bất đồng không giải quyết được hoặc có vi phạm
nghiêm trọng Hiến chương, vấn đề sẽ được trình lên cấp cao quyết
định.
Các nước thành viên tuy không phải thay đổi luật, nhưng sẽ cần có
sự điều chỉnh nhất định về một số quy định và thủ tục hành chính
trong nước để phù hợp hơn với các quy định của Hiến chương và
thực tiễn của hợp tác ASEAN.Mỗi nước thành viên phải cải tiến tổ
chức bộ máy trong nước, đồng thời đầu tư nguồn lực và nhân lực
để tham gia hợp tác ASEAN một cách chủ động và hiệu
quả. ASEAN sẽ có “quốc ca” chung.Hiến pháp ASEAN quy định
Hiệp hội sẽ có một "quốc ca chung" gọi là “ASEAN ca”. Sẽ có
cuộc thi tuyển sáng tác “ASEAN ca” ở mỗi nước thành viên để sau
đó lãnh đạo cấp cao các nước chọn ra “ASEAN ca” chính thức.
Hiến chương ASEAN cũng phê chuẩn lá cờ của ASEAN gồm bốn
màu: xanh da trời, đỏ, trắng, vàng, thể hiện bốn màu chủ đạo trên
quốc kỳ của các nước thành viên ASEAN.
Trong đó, màu xanh da trời biểu hiện cho hoà bình và ổn định.
Màu đỏ thể hiện dũng khí và sự năng động. Màu trắng là sự thuần
khiết và màu vàng là biểu trưng cho sự thịnh vượng. Bó lúa in trên
lá cờ tượng trưng cho ước mơ của các thành viên sáng lập ASEAN
về một ASEAN gắn bó bằng tình hữu nghị và đoàn kết..
11
Các nguyên tắc và nội dung gia nhập được thể hiện trong hiến
chương Asean:
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 (năm 2004), lãnh đạo các
nước ASEAN nhất trí xây dựng Hiến chương ASEAN; đến Hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ 11 (năm 2005) đề ra các nguyên tắc
chỉ đạo và quyết định lập Nhóm các nhân vật nổi tiếng (EPG) để tư
vấn cho việc xây dựng Hiến chương.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 13 (tháng 11-2007), lãnh đạo
các nước thành viên ký thông qua Hiến chương ASEAN và ra
Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm hoàn tất việc phê chuẩn
Hiến chương trong một năm, đến cuối năm 2008.
Hiến chương ASEAN gồm Lời nói đầu và 13 chương, 55 điều.
Về mục đích, nguyên tắc, Hiến chương khẳng định lại các mục
đích và nguyên tắc cơ bản của ASEAN, nhất là mục đích hòa bình,
an ninh, ổn định và hợp tác khu vực, nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền và không can thiệp công việc nội bộ của nhau; bổ sung
một số mục đích và nguyên tắc mới phù hợp tình hình, trong đó có
liên kết ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển, hướng về nhân
dân và vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực, nguyên tắc về
việc các nước không tham gia và không cho phép bất kỳ quốc gia,
đối tượng nào sử dụng lãnh thổ của một nước thành viên để chống
nước thành viên khác.
Về cơ cấu tổ chức, Hiến chương nêu rõ: Bộ máy sẽ bao gồm Hội
nghị cấp cao (là cơ quan quyết định chính sách cao nhất, mỗi năm
họp hai lần, thay vì mỗi năm một lần trước đây); bốn Hội đồng cấp
Bộ trưởng, trong đó ba Hội đồng về ba trụ cột của Cộng đồng
ASEAN (gồm chính trị - an ninh; kinh tế; văn hóa - xã hội) và một
Hội đồng điều phối chung (gồm các Bộ trưởng Ngoại giao); các
hội nghị bộ trưởng chuyên ngành; Ủy ban đại diện thường trực các
nước tại ASEAN; Ban Thư ký ASEAN và Tổng Thư ký ASEAN;
Ban Thư ký ASEAN quốc gia. Ngoài ra, ASEAN cũng sẽ lập Cơ
quan nhân quyền ASEAN.
12
Về cách thức ra quyết định, nguyên tắc chủ đạo là đồng thuận; khi
không đạt đồng thuận, Hội nghị cấp cao sẽ quyết định về cách thức
phù hợp.
Về giải quyết tranh chấp, bất đồng, Hiến chương khẳng định
nguyên tắc giải quyết hòa bình, thông qua thương lượng, dựa trên
các thỏa thuận đã có của ASEAN. Nếu không giải quyết được,
hoặc có vi phạm nghiêm trọng Hiến chương, vấn đề được trình Hội
nghị cấp cao quyết định.
Hiến chương ASEAN do những người đứng đầu Nhà nước hoặc
Chính phủ các nước thành viên ký phê chuẩn; có hiệu lực 30 ngày
sau khi tất cả các quốc gia thành viên phê chuẩn. Hiến chương
được xem xét, bổ sung, sửa đổi 5 năm một lần để phù hợp tình
hình thực tế.
Năm 1967, ASEAN được thành lập trên cơ sở một tuyên bố chính
trị. Hiến chương ASEAN ra đời là một văn kiện pháp lý, làm cho
ASEAN trở thành một tổ chức hợp tác khu vực có tư cách pháp
nhân. Hiến chương tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho
Hiệp hội gia tăng liên kết khu vực, trước hết là thực hiện mục tiêu
hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, giúp xây dựng
ASEAN trở thành một tổ chức gắn kết hơn và hoạt động hiệu quả
hơn, một thực thể chính trị - kinh tế liên kết hơn và có vai trò quan
trọng trong khu vực.
Sự ràng buộc về pháp lý, cùng với sự đổi mới về bộ máy tổ chức,
phương thức hoạt động của ASEAN sẽ giúp việc thực hiện các
thỏa thuận nghiêm túc và kịp thời, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hợp tác. ASEAN ngày càng liên kết chặt chẽ và vững mạnh trên cơ
sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, giúp duy trì môi trường hòa
bình và ổn định ở khu vực, đồng thời hỗ trợ các nước thành viên
phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập khu vực và thế giới.
Hiến chương tạo thế tốt hơn cho ASEAN trong hợp tác với các đối
tác bên ngoài khu vực, cũng như trong khuôn khổ khu vực rộng
lớn hơn. Bởi lẽ, tổ chức ASEAN có tư cách pháp nhân trở thành
một chủ thể trong quan hệ đối ngoại, nâng cao hình ảnh và vị thế
quốc tế của Hiệp hội.
13
Việt Nam đã chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào việc xây
dựng Hiến chương ASEAN ngay từ những ngày đầu khi mới xuất
hiện ý tưởng về văn kiện này. Ðiều đó thể hiện cam kết mạnh mẽ
của Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, góp
phần thúc đẩy hợp tác, phát triển trong ASEAN và khu vực.
Hiến chương ASEAN là một nhu cầu tất yếu khách quan, phản ánh
sự trưởng thành của ASEAN, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính
trị mạnh mẽ của các nước thành viên, nhất là của các nhà lãnh đạo
ASEAN, về mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết chặt chẽ và
vững mạnh hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương, hỗ trợ mục tiêu
hòa bình và phát triển của cả khu vực, cũng như của từng nước
thành viên.
3.2.2. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập Asean.
Cùng với các nước ASEAN, Việt Nam đã tham gia tích cực vào
việc xây dựng Hiến chương ASEAN ngay từ những ngày đầu.
Trong quá trình soạn thảo Hiến chương, Việt Nam đã góp phần
bảo vệ những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội như các
mục tiêu hòa bình, ổn định và liên kết khu vực, thu hẹp khoảng
cách phát triển trong ASEAN; các nguyên tắc cơ bản như đồng
thuận và không can thiệp, khẳng định tính chất liên chính phủ của
Hiệp hội; và một số nguyên tắc mới như các thành viên không
được sử dụng lãnh thổ của một nước thành viên để chống lại một
nước thành viên khác. Những đóng góp của Việt Nam đã góp phần
định hướng quan trọng trong quá trình soạn thảo nội dung Hiến
chương, tạo điều kiện để Hiến chương đáp ứng tốt hơn những yêu
cầu đặt ra cho ASEAN trong giai đoạn phát triển mới, được bạn bè
hoan nghênh và đánh giá cao.
Những đóng góp trên là sự tiếp nối của quá trình tham gia tích cực
và đóng góp to lớn của Việt Nam kể từ khi gia nhập ASEAN tháng
7/1995. Trong hơn 12 năm qua, với dân số hơn 84 triệu người và vị
trí địa-chiến lược và địa - kinh tế quan trọng, chính trị - xã hội ổn
định, thế và lực ngày càng gia tăng và chính sách đối ngoại rộng
14
mở, Việt Nam được các nước ASEAN và các đối tác bên ngoài
nhìn nhận là thành viên đóng vai trò tích cực đối với hòa bình, hợp
tác và phát triển trong ASEAN.
Hướng về tương lai, chúng ta cần nhận thức rõ những tác động
nhiều chiều, cả mặt thuận lợi và những thách thức của việc thực
hiện Hiến chương ASEAN và tiến trình xây dựng cộng đồng
ASEAN đối với tương lai phát triển của Hiệp hội cũng như sự
tham gia của từng nước thành viên, trong đó có Việt Nam. Sự ràng
buộc về pháp lý cùng với sự đổi mới về bộ máy tổ chức và phương
thức hoạt động của ASEAN sẽ giúp việc thực hiện các thỏa thuận
nghiêm túc và kịp thời hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp
tác. Một ASEAN ngày càng liên kết chặt chẽ và vững mạnh trên
cơ sở pháp lý là Hiến chương sẽ giúp duy trì môi trường hòa bình
và ổn định ở khu vực, hỗ trợ đắc lực cho Việt Nam và các nước
ASEAN khác phát triển kinh tế-xã hội cũng như hội nhập khu vực
và quốc tế, gia tăng vị thế quốc tế trong quan hệ với các đối tác bên
ngoài.
Song, việc thực hiện Hiến chương ASEAN cũng đòi hỏi mỗi nước
thành viên phải nghiêm túc hơn và chuyên nghiệp hơn trong việc
tham gia đàm phán và thực hiện các quyết định, thỏa thuận hợp tác
của ASEAN, quan tâm hơn đến các mục tiêu chung của ASEAN
nhằm đảm bảo sự gắn kết và lồng ghép hài hòa giữa các ưu tiên
phát triển của quốc gia và khu vực, điều chỉnh tổ chức bộ máy
trong nước cũng như đầu tư nguồn lực và nhân lực thích đáng hơn,
để tham gia hợp tác ASEAN một cách có chủ động và hiệu quả.
Tận dụng những mặt thuận lợi và khắc phục những thách thức kể
trên, chúng ta cần cần quán triệt những phương châm và định
hướng sau đây.
Một là, cần xác định tham gia hợp tác trong ASEAN có tầm quan
trọng chiến lược. Một ASEAN ổn định, đoàn kết, liên kết chặt chẽ
và vững mạnh là nhân tố quan trọng đảm bảo lợi ích an ninh và
phát triển của Việt Nam.
15
Hai là, cần có những suy nghĩ mới, cách làm mới, phương thức
mới về sự tham gia của ta trong ASEAN trên cơ sở kiên trì giữ
vững các vấn đề có tính nguyên tắc, nhưng linh hoạt về biện pháp
và cách thức tiến hành. Với thế và lực của đất nước tăng lên, Việt
Nam đang có những cơ hội rất thuận lợi đóng vai trò tích cực, có
trách nhiệm và chủ động hơn trong việc thực hiện Hiến chương
ASEAN, xây dựng cộng đồng ASEAN cũng như các thể chế, quy
tắc, quy định và các cơ chế ra quyết định của ASEAN nhằm nâng
cao vị thế, ảnh hưởng của Việt Nam trong ASEAN.
Ba là, cần có sự chỉ đạo tập trung và thống nhất của Chính phủ, sự
tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của các Bộ/ngành, đầu tư
thích đáng về nhân lực và nguồn lực, vì hợp tác ASEAN rất đa
dạng và phức tạp, không chỉ trong phạm vi khu vực Đông Nam Á
và 10 nước thành viên, mà gồm cả hợp tác Đông Á và với các đối
tác quan trọng trong khuôn khổ hợp tác ASEAN+1, ASEAN+3,
Tiến trình Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và Diễn đàn Khu
vực ASEAN (ARF), trong đó ASEAN giữ vai trò chủ đạo.
Bốn là, cần củng cố và tăng cường các bộ phận và cán bộ chuyên
trách về ASEAN của từng cơ quan; có kế hoạch cử cán bộ tham
gia và đảm nhận một số chức vụ trọng yếu trong ASEAN, khẩn
trương xúc tiến công tác chuẩn bị để Việt Nam đảm nhận tốt vai
trò Chủ tịch ASEAN trong cả năm 2010, trong đó có việc tổ chức
Hội nghị Cấp cao ASEAN và nhiều Hội nghị cấp Bộ trưởng. Đây
sẽ là cơ hội lớn để chúng ta tiếp tục khẳng định sự đóng góp quan
trọng trong việc thúc đẩy liên kết ASEAN, đồng thời nâng cao vai
trò, vị thế quốc tế của Việt Nam.
Cuối cùng, chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền
rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân về tình hình hợp tác ASEAN và
sự tham gia của Việt Nam trong ASEAN, qua đó nắm bắt nguyện
vọng và nhu cầu của người dân Việt Nam nhằm đưa các hoạt động
hợp tác ASEAN theo hướng thiết thực và hiệu quả.
16
4.Sự cần thiết để tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực
Asean:
Các nước ASEAN có vị trí đặc biệt đối với Việt Nam vì có nhiều
nét tương đồng về văn hóa, có quan hệ láng giềng, truyền thống và
gắn bó chặt chẽ về an ninh, chính trị kinh tế với Việt Nam.
Quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với các nước ASEAN và sự lớn
mạnh của Hiệp hội trong đó có đóng góp tích cực của Việt Nam đã
góp phần củng cố môi trường hòa bình, ổn định và phát triển ở khu
vực, hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế
của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới. Trong những năm tới,
Việt Nam tiếp tục nỗ lực thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN đi
vào chiều sâu, hiệu quả, đồng thời tích cực góp phần thực hiện
mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, nâng cao
vai trò của ASEAN ở trong khu vực và trên thế giới.
Thế giới đánh giá cao vai trò của ASEAN. ASEAN đã trở thành
một tổ chức khu vực rất thành công, phát triển năng động, hợp tác
chặt chẽ, có quan hệ đối tác mật thiết với nhiều quốc gia, và tổ
chức quan trọng hàng đầu thế giới. Sức mạnh và uy tín của
ASEAN ngày càng gia tăng khi Hiệp hội bao gồm cả 10 quốc gia
Đông Nam Á. Điều đó góp phần củng cố hòa bình, ổn định và sự
phồn vinh ở khu vực, tăng cường hợp tác và liên kết giữa các nước
thành viên, nâng cao vị thế của Hiệp hội trên trường quốc tế, tạo
tiền đề cho những bước phát triển mạnh mẽ tiếp theo. ASEAN
đóng vai trò nòng cốt trong đẩy mạnh sự hợp tác ở Đông Á và
Châu Á - Thái Bình Dương vì hòa bình và phát triển thông qua các
hoạt động của APEC, Diễn đàn Đông Á, Diễn đàn khu vực
ASEAN".ASEAN đã đạt được nhiều thành tích nổi bật trong phát
triển kinh tế và đẩy mạnh hòa hợp khu vực. ASEAN đã có nhiều
đóng góp quan trọng cho hòa bình, phát triển và thịnh vượng trong
khu vực.
17
Chương II: Thực trạng tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu
vực Asean – lộ trình thự hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương
mại Asean của Việt Nam:
ASEAN hiện có 11 nước (Brunei, Campuchia, Đông Timo,
Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt
Nam, Singapore). Diện tích toàn khối là 4.492.443 km2, chiếm
14,1% lãnh thổ châu Á và chiếm 3,3% diện tích toàn thế giới.
Quốc gia rộng nhất là Indonesia, tiếp đến là Myanmar, Thái Lan,
Malaysia, Việt Nam, Philippines, Lào, Campuchia, Đông Timo,
Brunei, Singapore. Dân số giữa năm 2004 là 548,2 triệu người,
chiếm dân số 14,1% châu Á và gần 8,6% toàn thế giới; đông nhất
là Indonesia, tiếp đến là Philippines, Việt Nam, Thái Lan,
Myanmar, Campuchia, Lào, Singapore, Đông Timo, Brunei.
Mật độ dân số đạt 122 người/ km2, tương đương với châu Á và
gấp 2,6 lần thế giới. Tỷ lệ dân số thành thị đạt 38,4%, xấp xỉ tỷ lệ
của châu Á và thấp hơn tỷ lệ 48% của toàn thế giới; cao nhất là
Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Philippines, Indonesia,
Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia, Đông Timo.
Tỷ lệ sinh đạt 2,2%, tỷ lệ chết 0,7%, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,5%, cao
hơn tỷ lệ 1,3% của châu Á và tỷ lệ 1,2% của toàn thế giới; thấp
nhất là Singapore, tiếp đến là Thái Lan, Đông Timo, Myanmar,
Việt Nam, Indonesia, Brunei, Philippines, Malaysia, Campuchia,
Lào.
Tuổi thọ bình quân đạt 68, cao hơn mức 67 của châu Á và thấp hơn
mức 69 của toàn thế giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei,
Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Myanmar,
Campuchia, Lào, Đông Timo.
GDP tính bằng USD theo tỷ giá thực tế của ASEAN năm 2003 đạt
khoảng 687 tỷ USD, chiếm 1,9% toàn thế giới; bình quân đầu
18
người đạt khoảng 1.253,2USD, thấp xa so với mức 5.684,2 USD
của toàn thế giới.
Nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương, thì GDP
bình quân đầu người năm 2001 cuả các nước trong khu vực như
sau: Singapore 22.680 USD, (năm 2002 là 24.040), tiếp đến là
Brunei 19.210, Malaysia 8.750 (năm 2002 đạt 9.120), Thái Lan
6.400, Philippines 3.840, Indonesia 2.940, Việt Nam khoảng 2.100,
Campuchia 1.860, Lào 1.620 (năm 2002 đạt 1.720), Myanmar
1.027.
1.Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Sự hội nhập kinh tế của ASEAN diễn ra trên diện rộng, nhưng đến
thời điểm này, trong con mắt của các nhà đầu tư và cộng đồng
quốc tế, hình ảnh hội nhập của ASEAN gắn liền với CEFT/AFTA
(AFTA- Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN). Đó là vì, CEFT/AFTA
là chương trình có những cam kết cụ thể và những cam kết này,
bước đầu, cũng đã có những tác động tới nền kinh tế các nước
thành viên. Các chương trình khác, như: đầu tư, dịch vụ, công
nghiệp, cũng đặt ra những mục tiêu cụ thể, nhưng các cam kết ràng
buộc chưa cao (đối với hầu hết các quốc gia, cam kết mới dừng lại
ở mức độ các thể chế, quy định hiện hành của quốc gia mình), và
chưa thực sự khuyến khích được cộng đồng doanh nghiệp và các
nhà đầu tư tham gia. Trong các lĩnh vực khác, như: giao thông vận
tải, sở hữu trí tuệ hay hợp tác chuyên ngành, mục tiêu của các
chương trình khá tham vọng, nhưng thực chất, các cam kết hầu
như không sâu sắc và mới chỉ dừng lại ở các chương trình hợp tác,
trao đổi thông tin, và đề ra những biện pháp tăng cường hợp tác
hơn nữa.
Sau 4 năm hội nhập kinh tế, ASEAN đã vấp phải cuộc khủng
hoảng tài chính (1997-1998). Qua cuộc khủng hoảng này, đã bộc
lộ rõ những yếu kém và tính dễ bị tổn thương của các nước
ASEAN nói chung; cũng như những khiếm khuyết cơ bản trong hệ
thống tài chính quốc tế. Điều này càng thể hiện sự phụ thuộc của
các nền kinh tế ASEAN vào các nền kinh tế lớn trên thế giới và sự
19
hội nhập kinh tế của ASEAN chưa đủ mạnh để có thể làm “trợ lực”
cho các nền kinh tế thành viên phát triển ổn định và bền vững,
tránh được những va đập của những “cú sốc” đến từ bên ngoài.
Trong bối cảnh như vậy, ASEAN nhận thấy cần nỗ lực đẩy nhanh
tiến trình hội nhập sâu rộng để hướng tới một nền kinh tế khu vực
thể hoá cao. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN (ngày 15/12/1997), các
nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Tầm nhìn 2020, đưa ra viễn
cảnh cho đến năm 2020, ASEAN sẽ là “Một nhóm hài hoà các dân
tộc Đông-Nam Á, rộng mở với bên ngoài, sống trong hoà bình, ổn
định và thịnh vượng, gắn bó với nhau bằng quan hệ đối tác trong
phát triển năng động và trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc
lẫn nhau”. Để thực hiện Tầm nhìn 2020, ASEAN đã đưa ra
Chương trình hành động Hà Nội (HPA), được thông qua tại Hội
nghị cấp cao ASEAN 6 tại Việt Nam (tháng 12/1998). Chương
trình này đã được thực hiện trong 6 năm, từ 1999 đến 2004. Đến
nay, HPA đã đi gần đến đích, mặc dù kết quả dường như vẫn còn
khiêm tốn do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Về thương mại hàng hoá: Về cơ bản, quá trình cắt giảm thuế
xuống từ 0-5%, theo AFTA, được thực hiện đúng tiến độ, thậm chí
còn được đẩy nhanh theo tiến độ thoả thuận tại Hội nghị cấp cao
1998. Tất cả 6 nước thành viên đầu tiên tham gia Hiệp định
CEPT/AFTA đã giảm thuế xuống từ 0-5% đối với hầu hết các mặt
hàng trong Danh mục Giảm thuế (trừ Malaixia còn 213 mặt hàng
linh kiện ôtô, Philipin và Inđônêxia còn một số các sản phẩm hoá
dầu). Các nước thành viên mới cũng đã đạt được những tiến bộ
tương tự.
Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin và viễn thông (ICT),
ASEAN đã nhất trí một lộ trình riêng nhanh hơn (để thực hiện
Hiệp định Khung e-ASEAN). Các nhà lãnh đạo ASEAN đã thống
nhất mục tiêu cuối cùng của AFTA là loại bỏ hoàn toàn thuế nhập
khẩu vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên như đã nói ở trên
gồm Brunây, Inđônêxia, Malaixia, Singapo, Philipin và Thái Lan
và năm 2015 đối với các nước thành viên khác, với một số linh
hoạt cho tới năm 2018. Để thực hiện quyết định này, 6 nước thành
viên trên đã đồng ý xoá bỏ thuế quan đối với 60% mặt hàng trong
20
- Xem thêm -