LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay đời sống của con người ngày càng cao, họ không những có nhu
cầu đầy đủ về vật chất mà còn có nhu cầu được thoả mãn về tinh thần như vui
chơi, giải trí và du lịch. Do đó, du lịch là một trong những ngành có triển vọng.
Ngành du lịch Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước khác trên thế
giới nhưng vai trò của nó thì không thể phủ nhận. Du lịch là một ngành “công
nghiệp không có ống khói”, mang lại thu nhập GDP lớn cho nền kinh tế, giải quyết
công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần truyền bá hình ảnh Việt Nam ra
toàn thế giới. Nhận thức được điều này, Đảng và nhà nước đã đưa ra mục tiêu xây
dựng ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Việc nghiên cứu về du lịch trở nên cấp thiết, nó giúp chúng ta có một cái
nhìn đầy đủ, chính xác về du lịch. Điều này có ý nghĩa cả về phương diện lí luận
và thực tiễn. Nó giúp du lịch Việt Nam đạt được những thành tựu mới, khắc phục
được những hạn chế, nhanh chóng đưa du lịch phát triển đúng với tiềm năng của
đất nước, nhanh chóng hội nhập với du lịch khu vực và thế giới.
Báo cáo thực tập của em đề cập đến những nhận thức cơ bản về du lịch,
"Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch ở Việt Nam". Do sự hạn chế về kiến
thức và thời gian nên không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự
đóng góp chỉ bảo của các thầy cô giáo.
Trang 1
CHƢƠNG I
TĂNG TRƢỞNG VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH LÀ TẤT YẾU
KHÁCH QUAN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRUỜNG
1) Khái niệm về tăng trƣởng và phát triển kinh tế
1.1) Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng kết quả đầu ra hoạt động của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là năm, quý).
Giả sử kết quả đầu ra của nền kinh tế của một quốc gia được ký hiệu là Y:
Yo là kết quả đầu ra của năm 0, Yn là kết quả đầu ra của năm n. Khi đó tăng
trưởng của nền kinh tế của năm n so với năm 0 được biểu thị bằng mức tăng
trưởng tuyệt đối hoặc tốc độ tăng trưởng như sau:
Mức tăng trưởng tuyệt đối:
Yn = Yn - Y0
Tốc độ tăng trưởng:
g = Lỗi! = Lỗi!
1.2) Phát triển kinh tế
1.2.1) khái niệm:
Phát triển kinh tế là quá trình thay đổi theo hướng tiến bộ về mọi mặt kinh
tế- xã hội của một quốc gia trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng trưởng.
1.2.2) Nội dung chủ yếu của phát triển kinh tế
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dài hạn, Đây là điều kiện tiên quyết để tạo
ra những tiến bộ về kinh tế- xã hội, nhất là ở các nước đang phát triển thu nhập
thấp.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế- xã hội thay đổi theo hướng tiến bộ. Xu hướng
tiến bộ của quá trình thay đổi này ở những nước đang phát triển, đang hoặc chưa
trải qua quá trình công nghiệp hoá thể hiện ở quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá và đô thị hoá; đó không đơn thuần là sự giă tăng về
quy mô, mà còn bao hàm việc mở rộng chủng loại và nâng cao chất lượng sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra; hoạt động của nền kinh tế ngày càng gia
Trang 2
tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh, tạo cơ sở cho việc đạt được những tiến bộ xã
hội một cách sâu rộng.
Thứ ba, những tiến bộ kinh tế- xã hội chủ yếu phải xuất phát từ động lực
nội tại. Đến lượt mình kết quả của những tiến bộ kinh tế đạt được lại làm gia tăng
không ngừng năng lực nội sinh của nền kinh tế (thể hiện ở những tiến bộ về công
nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nguồn vốn trong nước…).
Thứ tư, đạt được sự cải thiện sâu rộng chất lượng cuộc sống của mọi
thành viên trong xã hội như là hàng đầu và là kết quả của sự phát triển. Đương
nhiên một kết quả như thế không chỉ là sự ra tăng thu nhập bình quân đầu ngươi,
một số bình quân có thể che lấp đằng sau nó sự phân phối bất bình đẳng, nạn đói
nghèo, thất nghiệp và những thụ hưởng khác về giáo dục, y tế, văn hoá…
1.2.3) Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để phát triển kinh tế. Ở những nước
đang phát triển, đặc biệt là những nước đang phát triển có mức thu nhập bình quân
đầu người thấp, nếu không đạt được mức tăng trưởng tương đối cao và liên tục
trong nhiều năm, thì khó có điều kiện kinh tế để cải thiện mọi mặt của đời sống
kinh tế- xã hội.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần, không phải là điều
kiện đủ để phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế có thể được thực hiện bởi những
phương thức khác nhau và do đó có thể dẫn đến những kết quả khác nhau. Nếu
phương thức tăng trưởng kinh tế không gắn với sự thúc đẩy cơ cấu kinh tế xã hội
theo hướng tiến bộ, không làm gia tăng, mà thậm chí còn làm xói mòn năng lực
nội sinh của nền kinh tế, sẽ không thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Nếu phương thức
tăng trương kinh tế chỉ đem lại lợi ích kinh tế cho nhóm dân cư này, cho vùng này,
mà không hoặc đem lại lợi ích không đáng kể cho nhóm dân cư khác, vùng khác
thì tăng trưởng kinh tế như vậy sẽ khoét sâu vào bất bình đẳng xã hội. Những
phương thức tăng trưởng như vậy, rốt cục, cũng chỉ là kết quả ngắn hạn, không
những không thúc đẩy được phát triển, mà bản thân nó cũng khó có thể tồn tại
được lâu dài.
2) Các chỉ tiêu tăng trƣởng và phát triển kinh tế
Trang 3
2.1) Tổng sản phẩm trong nước (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân
(GNP)
Các chỉ tiêu GDP và GNP thông qua sử dụng thước đo tiền tệ có thể tổng
hợp được kết quả đầu ra hết sức phong phú và đa dạng về chủng loại, mục đích sử
dụng về chất lượng của nền kinh tế. Nhờ đó cung cấp một công cụ hữu hiệu cho
việc đánh giá sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của một quốc gia.
2.1.1) Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là giá trị thị trường của tất cả các hàng
hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra bởi các yếu tố sản xuất trong lãnh thổ
kinh tế của một nước trong một thời kỳ nhất định.
Ba phương pháp đo lường tổng sản phẩm thu nhập trong nước:
Thứ nhất, phương pháp sản xuất còn gọi là phương pháp giá trị gia tăng.
Theo phương pháp này GDP tổng hợp giá trị gia tăng của mọi doanh nghiệp trong
nền kinh tế. Giá trị gia tăng được tính bằng cách lấy giá trị tổng sản lượng trừ đi
giá trị của tất cả các hàng hoá và dịch vụ mua ngoài đã được sử dụng hết trong quá
trình sản xuất của doanh nghiệp.
Thứ hai, phương pháp thu nhập đo lường GDP trên cơ sở thu nhập tạo ra
trong quá trình sản xuất hàng hoá chứ không phải là giá trị của bản thân hàng hoá.
GDP= w + i + R +Pr +Te
Trong đó: w là thu nhập từ tiền công, tiền lương
i là tiền lãi nhận được từ cho doanh nghiệp vay tiền
R là thuê đất đai, tài sản
Pr là lợi nhuận
Te là thuế gián thu mà chính phủ nhận được
Thứ ba, phương pháp chi tiêu sử dụng các thông tin từ luồng chi tiêu để
mua hàng hoá và dịch vụ cuối cùng. Vì tổng giá trị hàng hoá bán ra phải bằng tổng
số tiền được chi ra để mua chúng, nên tổng chi tiêu để mua hàng hoá và dịch vụ
cuối cùng phải bằng GDP
GDP= C +I +G +X - M
Trong đó: C là các khoản chi tiêu của các hộ gia đình về hàng hoá và dịch
vụ
Trang 4
I là tổng đầu tư của khu vực tư nhân
G là chi tiêu của chính phủ về hàng hoá và dịch vụ
X – M là xuất khẩu ròng
2.1.2) Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
Tổng sản phẩm quốc dân đo lường toàn bộ thu nhập hay giá trị sản xuất
mà các công dân của một quốc gia tạo ra trong một thời kỳ nhất định, không kể
trong hay ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
GNP= GDP + thu nhập ròng nhận được từ nước ngoài
2.2) Các chỉ tiêu tăng trƣởng kinh tế
Mức tăng trưởng kinh tế tuyệt đối:
GDPn = GDPn - GDP0
Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
g = Lỗi! = Lỗi!
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của một giai đoạn:
g= n
GDPn GDPo
-1
GDPo
2.3) Các chỉ tiêu phát triển kinh tế
Để phản ánh nội dung khác nhau của khái niệm phát triển kinh tế cần phải
có các nhóm chỉ tiêu khác nhau:
-
Nhóm chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế: tốc độ tăng trưởng kinh
tế hàng năm hay bình quân năm của một giai đoạn nhất định.
-
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh sự biến đổi về cơ cấu kinh tế xã hội: chỉ
số cớ cấu kinh tế theo ngành trong GDP; chỉ số cơ cấu về hoạt động ngoại thương;
tỷ lệ dân cư sống trong khu vực thành thị trong tổng số dân; tỷ lệ lao động làm việc
trong các ngành công nghịêp, nông nghiệp và dịch vụ…
-
Nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng cuộc sống gồm:
Thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng thu nhập bình
quân đầu người.
Các chỉ số về dinh dưỡng: số calo bình quân/ người/ năm.
Trang 5
Các chỉ số về giáo dục: tỷ lệ người biết chữ, số năm đi học bình
quân… Các chỉ số này phản ánh trình độ phát triển giáo dục của một quốc gia và
mức độ hưởng thụ dịch vụ giáo dục của dân cư.
Các chỉ số về y tế: tỷ lệ trẻ em trong các độ tuổi, số bác sĩ trên một
nghìn dân… Các chỉ số này phản ánh trình độ phát triển y tế của một quốc gia và
mức độ hưởng thụ các dịch vụ y tế của dân cư.
Các chỉ số phản ánh về công bằng xã hội và nghèo đói: tỷ lệ nghèo đói
và khoảng cách nghèo đói, chỉ tiêu phản ánh mức độ bình đẳng giới, chỉ số phản
ánh công bằng xã hội. Ngoài ra, có thể có các chỉ tiêu khác như các chỉ tiêu phản
ánh sử dụng nước sạch hay các điều kiện về kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội khác…
Chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số này được tổng hợp từ ba
-
chỉ số: thu nhập bình quân đầu người, mức độ phổ cập giáo dục, tuổi thọ trung
bình. Như vậy HDI không chỉ phản ánh mức sống vật chất, mà còn đo lường cả
mức sống tinh thần của dân cư. HDI đo lường chính xác hơn chất lượng cuộc sống
của dân cư.
3) Khái niệm về du lịch và các loại hình du lịch
3.1) Khái niệm về du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du
lịch vẫn chưa thống nhất.
Do hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi
người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Do vậy có bao nhiêu tác giả nghiên
cứu về du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa.
Dưới con mắt của Guer Freuler thì “du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ
này là một hiện tượng của thời đại chúng ta, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu
khôi phục sức khoẻ và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát
sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên”.
Kaspar cho rằng du lịch không chỉ là hiện tượng di chuyển của cư dân mà
phải là tất cả những gì có liên quan đến sự di chuyển đó. Chúng ta cũng thấy ý
tưởng này trong quan điểm của Hienziker và Kraff “du lịch là tổng hợp các mối
Trang 6
quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các
cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ”.
(Về sau định nghĩa này được hiệp hội các chuyên gia khoa học về du lịch thừa
nhận)
Theo các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn
thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Nhà kinh tế học Picara- Edmod
đưa ra định nghĩa: “du lịch là việc tổng hoà việc tổ chức và chức năng của nó
không chỉ về phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do
khách chỉ ra và của những khách vãng lai mang đến với một túi tiền đầy, tiêu dùng
trực tiếp hoặc gián tiếp cho các chi phí của họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và
giải trí.”
Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn bách khoa toàn thư Việt
Nam đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Theo các
chuyên gia này, nghĩa thứ nhất của từ này là “một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan
tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh…”. Theo định nghĩa thứ hai, du lịch được coi là “một ngành kinh
doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt nâng cao hiểu biết về thiên nhiên,
truyền thông lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất
nước, đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế,
du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức
xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Để tránh sự hiểu lầm và không đầy đủ về du lịch, chúng ta tách du lịch
thành hai phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu là:
-
Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi
của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng
cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu
thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ của các cơ sở chuyên cung
ứng.
-
Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy
sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi
Trang 7
của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao
nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.
3.2) Các loại hình du lịch
Hoạt động du lịch có thể phân nhóm theo các nhóm khác nhau tuỳ thuộc
tiêu chí đưa ra. Hiện nay đa số các chuyên gia về du lịch Việt Nam phân chia các
loại hình du lịch theo các tiêu chí cơ bản dưới đây.
3.2.1) Phân chia theo môi trường tài nguyên
-
Du lịch thiên nhiên
-
Du lịch văn hoá
3.2.2) Phân loại theo mục đích chuyến đi
-
Du lịch tham quan
-
Du lịch giải trí
-
Du lịch nghỉ dưỡng
-
Du lịch khám phá
-
Du lịch thể thao
-
Du lịch lễ hội
-
Du lịch tôn giáo
-
Du lịch nghiên cứu (học tập)
-
Du lịch hội nghị
-
Du lịch thể thao kết hợp
-
Du lịch chữa bệnh
-
Du lịch thăm thân
-
Du lịch kinh doanh
3.2.3) Phân loại theo lãnh thổ hoạt động
-
Du lịch quốc tế
-
Du lịch nội địa
-
Du lịch quốc gia
3.2.4) Phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch
-
Du lịch miền biển
-
Du lịch núi
-
Du lịch đô thị
Trang 8
-
Du lịch thôn quê
3.2.5) Phân loại theo phương tiện giao thông
-
Du lịch xe đạp
-
Du lịch ô tô
-
Du lịch bằng tàu hoả
-
Du lịch bằng tàu thuỷ
-
Du lịch máy bay
3.2.6) Phân loại theo loại hình lưu trú
-
Khách sạn
-
Nhà trọ thanh niên
-
Camping
-
Bungaloue
-
Làng du lịch
3.2.7) Phân loại theo lứa tuổi du lịch
-
Du lịch thiếu niên
-
Du lịch thanh niên
-
Du lịch trung niên
-
Du lịch người cao tuổi
3.2.8) Phân loại theo độ dài chuyến đi
-
Du lịch ngắn ngày
-
Du lịch dài ngày
3.2.9) Phân loại theo hình thức tổ chức
-
Du lịch tập thể
-
Du lịch cá thể
-
Du lịch gia đình
3.2.10) Phân loại theo phương thưc hợp đồng
-
Du lịch trọn gói
-
Du lịch từng phần
4) Vị trí, vai trò của ngành du lịch và hệ thống các ngành của nền
kinh tế quốc dân
Trang 9
Xu hướng mang tính quy luật của cơ cấu kinh tế thế giới chỉ ra rằng tỉ
trọng nông nghiệp từ chiếm vị thế quan trọng đã dần nhường cho công nghiệp và
cuối cùng vai trò của kinh tế dịch vụ sẽ chiếm vai trò thống soái. Hiện nay ở các
nước có thu nhập thấp, các nước Nam Á, châu Phi nông nghiệp vẫn còn chiếm trên
30% GNP, công nghiệp khoảng 35%. Trong khi đó các nước có thu nhập cao như
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Italia…trên 70% GNP do nhóm ngành dịch vụ đem lại,
nông nghiệp chỉ đóng khoản 3-5% tổng sản phẩm quốc dân.
Vai trò của du lịch trong ngành dịch vụ cũng ngày càng rõ nét. Theo hội
đồng du lịch và lữ hành thế giới, năm 1994 du lịch quốc tế trên toàn thế giới đã
chiếm 6% GNP, tức là có doanh thu gần 4000 tỷ đô la, vượt trên công nghiệp ô tô,
thép, điện tử và nông nghiệp. Du lịch thu hút trên 200 triệu lao động chiếm hơn
12% lao động trên thế giới.
Ở Việt Nam xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng đã được thể hiện
rõ qua các năm: Năm 2001, nông nghiệp chiếm 23,24% GDP, công nghiệp chiếm
57,91% GDP, dịch vụ chiếm 38,63% GDP. Năm 2005, nông nghiệp chiếm 21,76%
GDP, công nghiệp chiếm 60,41% GDP, dịch vụ chiếm 38,15% GDP. Với tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm thì du lịch đóng góp lớn cho nền kinh tế. Du lịch
đã nộp hàng ngàn tỷ đồng vào ngân sách nhà nước. Ngoài ra cùng với sự phát triển
của du lịch cũng dễ tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Với
những thuận lợi, những mặt tích cực mà phát triển du lịch đem lại thì du lịch thực
sự có khả năng làm thay đổi bộ mặt kinh tế của nước ta.
5) Vai trò của ngành du lịch đối với tăng trƣởng và phát triển kinh
tế của đất nƣớc
Trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như là một sở thích, một
hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một
nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa, xã hội ở các nước. Về mặt
kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều
nước công nghiệp phát triển. Mạng lưới du lịch đã được thiết lập ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Các lợi ích kinh tế mang lại từ du lịch là điều không thể phủ
nhận, thông qua việc tiêu dùng của du khách đối với các sản phẩm của du lịch.
Nhu cầu của du khách bên cạnh việc tiêu dùng các hàng hoá thông thường còn có
Trang 10
những nhu cầu tiêu dùng đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức, học hỏi, vãn cảnh,
chữa bệnh, nghỉ ngơi, thư giãn…
Sự khác biệt giữa tiêu dùng dịch vụ du lịch và tiêu dùng các hàng hoá khác
là tiêu dùng các sản phẩm du lịch xảy ra cùng lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra
chúng. Đây cũng là lý do làm cho sản phẩm du lịch mang tính đặc thù mà không
thể so sánh giá cả của sản phẩm du lịch này với giá cả của sản phẩm du lịch kia
một cách tuỳ tiện được. Sự tác động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng
sản phẩm du lịch tác động lên lĩnh vực phân phối lưu thông và do vậy ảnh hưởng
đến các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Bên cạnh đó, việc phát triển du lịch
sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, vì sản phẩm du lịch mang
tính liên ngành có quan bệ đến nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Khi một khu
vực nào đó trở thành điểm du lịch, du khách ở mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu
về mọi hàng hoá dịch vụ tăng lên đáng kể. Xuất phát từ nhu cầu này của du khách
mà ngành kinh tế du lịch không ngừng mở rộng hoạt động của mình thông qua mối
quan hệ liên ngành trong nền kinh tế, đồng thời làm biến đổi cơ cấu ngành trong
nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa, các hàng hoá, vật tư cho du lịch đòi hỏi phải có
chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp, hấp dẫn. Do đó nó đòi hỏi
các doanh nghiệp phải không ngừng sáng tạo cải tiến, phát triển các loại hàng hoá.
Để làm được điều này, các doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư trang thiết bị hiện
đại, tuyển chọn và sử dụng công nhân có tay nghề cao đáp ứng được nhu cầu của
du khách.
Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác dụng làm biến đổi cán cân
thu chi của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước có địa điểm du
lịch, làm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ của đất nước đó. Ngược lại, phần chi ngoại
tệ sẽ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều người đi du lịch ở nước ngoài.
Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động du lịch làm xáo trộn hoạt động luân
chuyển tiền tệ, hàng hoá, điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng
kinh tế kém phát triển hơn, kích thích sự tăng trưởng kinh tế ở các vùng sâu, vùng
xa…
Một lợi ích khác mà ngành du lịch đem lại là góp phần giải quyết vấn đề
việc làm. Bởi các ngành dịch vụ liên quan đến du lịch đều cần một lượng lớn lao
Trang 11
động. Du lịch đã tạo ra nguồn thu nhập cho người lao động, giải quyết các vấn đề
xã hội.
Du lịch Việt Nam trong thời gian qua cũng đã đóng góp rất nhiều cho sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Tốc độ tăng trưởng hơn 14%/năm
gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
6) Kinh nghiệm phát triển du lịch ở một số nƣớc và của Việt Nam
Du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt, điều này có nghĩa là
tài nguyên và môi trường là nhân tố cơ bản để tạo ra sản phẩm du lịch. Trong các
điều kiện đặc trưng đối với sự phát triển du lịch, các chuyên gia nghiên cứu về du
lịch đều khẳng định rằng tài nguyên du lịch là yếu tố quyết định và quan trọng
nhất. Nhận thức rõ điều này nhiều nước đã đưa ra những chính sách nhằm bảo vệ
các tài nguyên du lịch, trong đó bảo vệ môi trường là một yếu tố quan trọng.
Trung Quốc là một trong những nước đã đạt được thành tựu lớn trong việc
bảo vệ môi trường để phát triển du lịch. Từ năm 1997, chính phủ Trung Quốc đã 7
năm liền tổ chức toạ đàm trong thời gian họp quốc hội để nghe báo cáo về môi
trường. Qua đó chính phủ Trung Quốc có những biện pháp cụ thể để cải tạo và bảo
vệ môi trường. Các cơ chế chính sách về bảo vệ môi trường được thiết lập, tăng
vốn đầu tư bảo vệ môi trường, khuyến khích mọi người dân bảo vệ môi trường.
Với sự cố gắng của chính phủ, của toàn dân Trung Quốc nạn ô nhiễm môi trường
đã được kiểm soát toạ thuận lợi cho du lịch phát triển một cách bền vững. Chính
phủ Trung Quốc không ngừng tăng vốn đầu tư vào bảo vệ môi trường, từ năm
1996 đến năm 2000, Trung Quốc đã chi 360 tỉ nhân dân tệ. Nhờ đó Trung Quốc
đã xây dựng và bảo vệ hơn 1227 khu bảo tồn thiên nhiên, hàng triệu hecta rừng với
nhiều chủng loại động thực vật phong phú rất phù hợ cho phát triển du lịch sinh
thái- một loại hình du lịch có xu thế tăng trong thời gian gần đây. Để bảo vệ sự
phong phú của sinh vật, Trung Quốc là một trong những nước tham gia ký kết rất
sớm “công ước tính đa dạng sinh vật”. Đồng thời chính phủ Trung Quốc tập trung
sửa đổi và đưa ra luật mở để nâng cao hiệu quả trong việc bảo vệ môi trường. Tính
đến nay, đã có 6 bộ luật, hơn 30 đạo luật về bảo vệ môi trường đã được ban hành,
do đó môi trường Trung Quốc đã được kiểm soát và cải tạo đáng kể.
Trang 12
Môi trường không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch mà nó còn ảnh
hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của con người, do đó việc bảo vệ môi
trường được nhiều nước quan tâm như Singapo, Nhật Bản… Nhờ đó, du lịch ở
những nước này đã phát triển mạnh, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế nói
chung.
Bởi vị trí, vai trò của du lịch đem lại không chỉ về mặt kinh tế mà còn về
mặt xã hội, văn hoá, môi trường…là rất lớn nên trong những năm qua du lịch đã
được Đảng và nhà nước quan tâm phát triển. Trải qua hơn 40 năm hình thành và
phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và
nhà nước, các cấp, các ngành, sự hưởng ứng của nhân dân, sự giúp đỡ, hỗ trợ quốc
tế và nỗ lực của toàn ngành, du lịch Việt Nam đã có những phát triển vượt bậc,
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với du lịch các nước trong khu vực, trở thành
ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên du
lịch Việt Nam còn có những khó khăn, hạn chế cả về chủ quan lẫn khách quan, nên
phát triển chưa ổn định, thiếu bền vững, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng
du lịch to lớn của đất nước.
Hơn 40 năm phát triển và đổi mới ngành du lịch đã cho những kinh
nghiệm quý báu:
Một là: từ định hướng đúng đắn của Đảng việc quán triệt đầy đủ vai trò và
tác dụng nhiều mặt của du lịch, cũng như những mặt trái, những hiện tượng tiêu
cực có thể phát sinh và đi liền với hoạt động du lịch ở mọi cấp, mọi ngành hiện
nay là rất cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong tình hình thế giới hiện nay
với xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và xã hội hoá du lịch, quan hệ về mọi mặt
giữa các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh trì phát triển du lịch là
hướng chiến lược, yếu tố góp phần trực tiếp vào sự phát triển kinh tế- xã hội, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Hai là: du lịch chỉ phát triển nhanh, bền vững khi có một chiến lược quốc
gia về phát triển du lịch và được cụ thể hoá bằng chương trình hành động quốc gia.
Cần có một sự chỉ đạo tập trung thống nhất, đúng hướng và nhanh chóng từ cấp
cao trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và nhà nước đến các cấp thừa hành ở các bộ,
Trang 13
ngành trung ương và địa phương, tạo môi trường cho du lịch phát triển đúng
hướng và hiệu quả.
Ba là: quản lý nhà nước về du lịch cần tăng cường trên tất cả các lĩnh vực:
cơ chế chính sách ưu tiên phát triển, phù hợp với điều kiện đất nước và hợp với
thông lệ quốc tế và xu thế phát triển du lịch thế giới; phải đâu tư ban đầu bằng
ngân sách nhà nước và huy động nhiều nguồn vốn khác; có bộ máy tổ chức tương
ứng nhiệm vụ chính trị, đảm bảo ổn định, quan tâm đào tạo phát triển nguồn nhân
lực du lịch và giáo dục du lịch toàn dân; phối hợp đồng bộ, thường xuyên liên
ngành, địa phương ở tất cả hoạt động liên quan đến du lịch trong va ngoài nước.
Bốn là: ngành du lịch phải đi đầu làm nòng cốt trong nghiên cứu, triển
khai chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển du lịch và thể
chế hoá thành các luật lệ, biện pháp và chương trình cụ thể. Thường xuyên nghiên
cứu thông tin, kinh nghiệm phát triển du lịch thế giới, tổng kết thực tiễn kịp thời để
phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn về du lịch của các ngành, các địa phương.
Trang 14
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH Ở NƢỚC TA
TRONG THỜI GIAN QUA
1) Sự cần thiết phát triển du lịch ở nƣớc ta
Trải qua hai cuộc chiến tranh đất nước ta đã bị tàn phá nặng nề, nền kinh
tế suy sụp, dân ta nghèo khổ, các nước còn e dè trong quan hệ với ta. Trước tình
hình đó nước ta cần phát triển kinh tế, khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Đảng
và nhà nước đã nhận thức được tầm quan trọng của mỗi ngành trong đó có ngành
du lịch.
Đảng và nhà nước đã xác định “du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp
quan trọng mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội
hoá cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng
của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và
phát triển kinh tế xã hội của đất nước” (Trích pháp lệnh du lịch 2/1999) và coi
“phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển
kinh tế xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
(Trích chỉ thị 46/CTTW ban bí thư trung ương đảng khoá VII, 10/1994) và “phát
triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn” (Trích văn kiện đại hội
đảng khoá IX)
Ảnh hưởng của du lịch đến kinh tế: Du lịch đã đóng góp rất lớn vào sự
phát triển kinh tế của đất nước. Tình đến thời điểm này, hoạt động du lịch đã mang
lại doanh thu hàng tỉ USD và nộp vào ngân sách nhà nước hàng ngàn tỉ đồng.
Hàng năm các ngành cố gắng xuất khẩu hàng hoá để thu ngoại tệ về cho đất nước
và du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả nhất. Bởi du lịch là một ngành “xuất
khẩu tại chỗ” những hàng hoá công nghiệp, tiêu dùng… được trao đổi qua con
đường du lịch, các hàng hoá được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế
quan mậu dịch quốc tế. Mặt khác, du lịch còn là ngành “xuất khẩu vô hình” hàng
hoá du lịch. Đó là cảnh quan thiên nhiên, khí hậu, giá trị của di tích lịch sử, văn
hoá…
Trang 15
Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế
giới hiện nay cũng như ở Việt Nam là giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong tổng sản phẩm xã hội và trong số người có việc làm. Để đi tìm hiệu
quả của đồng vốn thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều
ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỷ xuất lợi nhuận cao, vì vốn đầu tư vào du
lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải mà khả năng
thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật không phức tạp. Chính đặc điểm này rất phù hợp
với tình hình nước ta- một nước còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu vốn đầu tư, sự cần
thiết hiện đại hoá nền kinh tế Việt Nam điều đó có ý nghĩa to lớn. Du lịch là cầu
nói giao lưu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với chính sách mở cửu của đảng và nhà
nước do đó phát triển du lịch là việc cần thiết đối với nước ta.
Ngoài những lợi ích về mặt kinh tế mà du lịch đem lại, du lịch còn có ý
nghĩa về mặt xã hội. Du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khoẻ và tăng cường
sức sống cho người dân. Trong một chừng mực nào đó du lịch có tác dụng hạn chế
bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Mặt khác qua
những chuyến du lịch mọi người có điều kiện tiếp xúc với nhau, gần gũi nhau hơn
nhờ đó mọi người hiểu nhau hơn và làm tăng thêm tình đoàn kết trong cộng đồng.
Bên cạnh đó do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì hàng
loạt máy móc đã được tạo ra thay thế con người trong quá trình lao động sản xuất
do đó dẫn đến một lượng người bị thất nghiệp và gây sức ép lên nền kinh tế của
đất nước. Nhưng nhờ có sự phát triển của du lịch và dịch vụ mà một lượng lớn
những người này đã có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định. Chính du lịch đã
góp phần làm giảm gánh nặng cho nền kinh tế của dất nước, góp phần đưa nền
kinh tế của nước nhà phát triển ổn định và nhanh chóng.
Ảnh hưởng của du lịch đến văn hoá: một trong những chức năng của du
lịch là giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng. Khi đi du lịch, du khách luôn muốn
được xâm nhập vào các hoạt động văn hoá của địa phương qua đó du khách có
thêm những hiểu biết mới. Du lịch còn góp phần cho việc phục hồi và phát triển
văn hóa dân tộc. Nhu cầu về nâng cao nhận thức văn hoá trong chuyến đi của du
khách thúc đẩy các nhà cung ứng chú ý, yểm trợ cho việc khôi phục, duy trì, các di
tích, lễ hội, sản phẩm làng nghề… Du lịch đã góp phần đưa hình ảnh đất nước ta
Trang 16
đến với bạn bè quốc tế đồng thời giúp chúng ta có cái nhìn rộng hơn bên ngoài mà
qua đó ta làm cho cuộc sống tinh thần trở nên phong phú và đầy đủ hơn.
Ảnh hưởng của du lịch đến môi trường: mục đích chủ yếu của du khách
khi đi du lịch là được tiếp xúc, đắm mình trong thiên nhiên, được cảm nhận một
cách trực giác sự hùng vĩ, trong lành, tươi mát và nên thơ của các cảnh quan thiên
nhiên. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc hơn về tự nhiên, thấy được giá trị
của thiên nhiên đối với đời sống con người. Điều này có nghĩa là bằng thực tiễn
phong phú, du lịch sẽ góp phần rất tích cực vào sự nghiệp giáo dục môi trường,
một vấn đề toàn thế giới đang hết sức quan tâm.
Nhu cầu du lịch nghỉ ngơi tại những khu vực có nhiều cảnh quan thiên
nhiên đã kích thích việc tôn tạo, bảo vệ môi trường. Để đáp ứng nhu cầu du lịch
phải dành những khoảng đất đai có môi trường ít bị xâm phạm, xây dựng các công
viên bao quanh thành phố, thi hành các biện pháp bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn
nước, không khí nhằm tạo nên môi trường sống phù hợp với nhu cầu của du khách.
Để gia tăng thu nhập từ du khách phải có chính sách maketing, chính sách tu bổ
bảo vệ tự nhiên để điểm du lịch ngày càng hấp dẫn.
Ảnh hưởng của du lịch đến an ninh, chính trị: trước hết cần khẳng định du
lịch là chiếc cầu nối hoà bình giữa các dân tộc trên thế giới. Hoạt động du lịch giúp
cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, hiểu hơn về giá trị văn hoá của đất nước
bạn.
Ngoài những mặt tích cực mà du lịch đem lại thì còn có những tác động
tiêu cực từ du lịch. Do đó chúng ta cần phải nhận thức rõ để có hướng phát triển
đúng đắn. Với những gì du lịch đem lại cho kinh tế, xã hôi, văn hoá, môi trường…
thì việc phát triển du lịch ở nước ta là điều rất cần thiết để phục vụ cho sự xây
dựng và phát triển đất nước trở thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
2) Tiềm năng phát triển du lịch ở nƣớc ta
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á,
vừa có biên giới lục địa, vừa có hải giới rộng lớn, là cửa ngõ đi ra Thái Bình
Dương của một số nước và của vùng Đông Nam Á. Nước ta nằm ở vành đai nhiệt
đới bắc bán cầu, đúng vào khu vực gió mùa Đông Nam Á, do đó, mang lại đặc
Trang 17
trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa Châu Á. Nhờ đó mà Việt Nam có hệ thống động
thực vật phong phú, đa dạng. Việt Nam còn có những danh thắng đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới như vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An,
cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn, vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bảng ngoài ra còn có
di sản văn hoá thế giới phi vật thể là nhã nhạc Huế. Chúng ta còn thu hút du khách
nước ngoài bằng hàng loạt các điểm du lịch sinh thái kéo dài khắp ba miền tổ
quốc: Bản Gốc, Mẫu Sơn, Sa Pa, Thác Mơ, hồ Ba Bể, vườn quốc gia Ba Vì, Mai
Châu, Tam Cốc- Bích Động, Cát Tiên, khu ngập nước Văn Long, Bà Nà, Đồng
Tháp Mười, địa đạo Củ Chi, U Minh… Hiện nay, du lịch sinh thái đang được
nhiều du khách quan tâm nên đây là điều kiện tốt để du lịch Việt Nam khai thác
tiềm năng sẵn có. Mặt khác lãnh thổ nước ta kéo dài từ Bắc vào Nam tiếp giáp với
biển cũng tạo cho chúng ta những bãi biển cát mịn và đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy,
Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu…
Ngoài những thắnh cảnh tươi đẹp, Việt Nam còn có rất nhiều các làng
nghề, lễ hội truyên thống. Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề truyền thống của
nước ta rất lớn, mỗi làng nghề gắn với một vùng văn hoá, hệ thống di tích và
truyền thống riêng, với cung cách sáng tạo sản phẩm riêng của mình. Du khảo hết
các làng nghề truyền thống, du khách có thể thấy rõ bản sắc cũng như đặc trưng
của bộ mặt nông thôn Việt Nam. Hiện nay, cả nước đã có hơn 2000 làng nghề thủ
công thuộc 11 nhóm nghề chính như: cói, sơn mài, mây tre đan, gốm sứ, thêu ren,
dệt, gỗ, đá, giấy, tranh dân gian. Đi dọc Việt Nam du khách có thể thấy nhiều vùng
quê mà mật độ làng nghề truyền thống dày đặc rải từ bắc vào nam. Những cái nôi
của làng nghề là Hà Nôi, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thừa Thiên
Huế… Thực tế, hiện nay du khách muốn đến tận làng nghề nhìn cảnh cây đa, bến
nước, sân đình, thăm các di tích của một làng nghề truyền thống Việt Nam, tìm
hiểu các vị tổ làng nghề hoặc các danh nhân văn hoá. Làng nghề truyền thống Việt
Nam chứa đựng tiềm năng dồi dào về du lịch còn bởi vì du khách muốn đến tận
nơi xem các công đoạn nghệ nhân làm ra sản phẩm và cũng muốn tận tay tham gia
làm sản phẩm theo trí tưởng tượng của riêng mình. Tìm hiểu về văn hoá và truyền
thống làng nghề là điều mà du khách trong và ngoài nước quan tâm.
Trang 18
Việt Nam còn có các tài nguyên có giá trị lịch sử, các tài nguyên có giá trị
văn hoá thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Với lịch sử
hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã tạo dựng được một nền văn
hoá phong phú và độc đáo. Không những vậy 54 dân tộc anh em cùng chung sống
trên một mảnh đất, lại có bao phong tục, tập quán, lễ hội khác nhau tạo nên sự đa
dạng cho sản phẩm du lịch Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ. Đặc biệt con
người Việt Nam thân thiện, hiếu khách đã tạo sự thoải mái cho du khách.
Chính tất cả những tiềm năng trên là một nền tảng để du lịch Việt Nam
phát triển, hội nhập với các nước trên thế giới. Nhưng vấn đề là chúng ta tận dụng
những tiềm năng đó như thế nào nó phụ thuộc vào cách làm của chúng ta.
3) Thành tựu ngành du lịch nƣớc ta đạt đƣợc trong thời gian qua
Nhận thức được vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân và việc đánh giá đúng các tiềm năng để phát triển du lịch, Đảng
và nhà nước ta trong thời gian qua đã đưa ra những chính sách hỗ trợ cho sự phát
triển của ngành du lịch. Trong thời gian qua du lịch Việt Nam đã có những thành
tựu và những tiến bộ vững chắc.
Ngay từ những năm mới thành lập, trong điều kiện chiến tranh, cơ sở vật
chất còn thiếu thốn, đội ngũ cán bộ còn ít, trình độ nghiệp vụ hạn chế, ngành du
lịch đã có nhiều cố gắng, đáp ứng nhu cầu phục vụ các đoàn khách của đảng, nhà
nước và các đoàn khách quốc tế.
Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, phạm vi mở rộng trên toàn quốc,
tăng cường phát triển nhân lực, cơ sở vật chất kĩ thuật dần được cải thiện, đa dạng
hoá hình thức hoạt động, từng bước du lịch khẳng định được vị trí, vai trò của một
ngành kinh tế tổng hợp. Nhờ vậy mà ngành du lịch có thể nhanh chóng thích nghi
được và phát triển một cách năng động trong quá trình chuyển đổi cơ chế của thời
kỳ mới. Đảng và nhà nước đã có sự quan tâm và quyết tâm đưa ngành du lịch Việt
Nam phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn. Từ những đề xuất của ngành, ban
Trang 19
chỉ đạo nhà nước về du lịch được thành lập do một phó thủ tướng làm trưởng ban.
Đồng thời thủ tướng chính phủ cũng phê duyệt “chương trình hành động quốc gia
về du lịch” và triển khai khá hiệu quả từ năm 2000 đến nay. Một loạt các văn bản
pháp lý như: pháp lệnh du lịch, các nghị định hướng dẫn thi hành và gần đây nhất
là luật du lịch được thông qua và đưa vào thực hiện. Bên cạnh đó ngành còn tiến
hành nghiên cứu, xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đất
nước, các vùng du lịch trọng điểm, và hơn 50 tỉnh, thành phố. Nhờ vào sự đồng bộ
về cơ chế chính sách, môi trường pháp luật đã tăng cường nguồn lực đầu tư phát
triển du lịch, cơ sở hạ tầng, nhân lực và nâng cao nhận thức xã hội đối với du lịch.
Những thành tựu của ngành du lịch trong thời gian qua đã được phản ánh
phần nào qua những con số. Số lượng khách du lịch vào Việt Nam ngày càng tăng,
doanh thu về du lịch, thu nhập xã hội từ du lịch và nộp vào ngân sách nhà nước có
mức tăng trưởng cao, không thua kém các ngành kinh tế hàng đầu đất nước. Từ
năm 1996 đến 2005, lượt khách quốc tế đã tăng hơn 500 ngàn lượt người lên 3,33
triệu lượt người, tăng 7,8 lần. Khách du lịch nội địa tăng từ 1,5 triệu lượt người lên
11,7 triệu lượt người, tăng gấp 8 lần. Thu nhập xã hội từ du lịch tăng nhanh, năm
2001 đạt 20500 tỷ đồng, so với năm 1991 gấp khoảng 9,4 lần. Hoạt dộng du lịch
đã tạo 22 vạn lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp giải quyết được
phần nào nạn thất nghiệp ở nước ta. Theo số liệu mới nhất, trong sáu tháng đầu
năm 2006 ngành du lịch Việt Nam đã đón nhận hơn 1,8 triệu lượt khách du lịch
quốc tế. Ngành du lịch Việt Nam đang rất tin tưởng vào mục tiêu đón 3,5 triệu lượt
khách quốc tế trong năm nay trở thành hiện thực.
Trong 5 năm qua, với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển
cơ sở hạ tầng lên tới 2141 tỷ đồng đã góp phần không nhỏ khuyến khích các địa
phương thu hút đầu tư du lịch dựa trên lợi thế từng vùng. Nhìn chung, cơ sở hạ
tầng có bước chuyển mạnh mẽ. Hiện nay, cả nước có hơn 5900 cơ sở lưu trú với
hơn 120 nghìn phòng. Phương tiện vận chuyển như đường bộ, đường thuỷ, đường
sắt, đường không được hiện đại hoá. Nhiều khu du lịch, sân gôn, công viên chuyên
đề và cơ sở vui chơi được đưa vào hoạt động và đủ điều kiện đón hàng triệu khách
mỗi năm. Tốc độ tăng trưởng của du lịch đạt bình quân hơn 11%/năm cả về cơ sở
hạ tầng, số lượng du khách.
Trang 20
- Xem thêm -