Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
Xã hội loài người là một bộ phận đặc biệt của thế giới vật chất,phục tùng
những qui luật tồn tai và phát triển củat riêng mình.Con người không phải do
một lực lượng huyền bí,siêu nhiên nào sáng tạo ra mà ra đời từ thế giới động vật
và vì vậy,con người là một bộ phận của giới tự nhiên,là sản phẩm cao nhất của
giới tự nhiên.Và điểm tiến bộ đó chính là lao động.Lao động,sản xuất vật chất là
lực lượng chủ yếu và quyết định làm cho xã hội phát triển tiến lên từ xã hội
nguyên thuỷ cho tới ngày nay.Phải chăng,sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng
có của con người và của xã hội loài người. Đó là trình hoạt động có mục đích và
không ngừng sáng tạo của con người.Theo Enghen : “điểm khác biệt căn bản
giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ : loài vật may lắm chỉ biết hái
lượm, trong khi con người sản xuất”
Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất,sản xuất tinh thần và sản xuất
ra bản thân con người.Enghen viết: “Lao động đã sáng tạo ra bản thân con
người”.Ba quá trình này không tách biệt nhau,trong đó sản xuất vật chất giữ vai
trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội và xét đến cùng,quyết định toàn bộ
sự vận động của đời sống xã hội.Sản xuất vật chất là quá trình con người sử
dụng công cụ lao động tác động (trực tiếp hay gián tiếp) vào tự nhiên,cải biến
các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội,nhằm thoả mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển-nhu cầu phong phú và vô tận của con người.
Sản xuất kinh doanh là một phần của sản xuất vật chất,hiểu một cách đơn
giản thì sản xuất kinh doanh là quá trình sử dụng các yếu tố sản xuất : con người
và tư liệu lao động để sản xuất ra của cải vật chất.Những của cải vật chất này
được mang ra xã hội,hay là thỉtường để trao đổi và buôn bán,chủ yếu là để thu
lợi nhuận cao.Trong thời đại ngày nay,công việc đó là công việc của một nhà
sản xuất,nhà kinh doanh; thu lại lợi nhuận cao thì sản phẩm của họ phải được
bán chạy,phải có chất lượng cao.Nếu muốn làm tốt việc đó thì họ phải xác định
được “nội dung” và “hình thức” của sản phẩm mà mình sản xuất ra.
Để tìm hiểu rõ hơn thì ta sẽ đi nghiên cứu về việc phát triển các sản phẩm
xe máy trên thị trường Việt Nam và đặc biệt là các sản phẩm xe máy của hãng
Yamaha với thị trường chính là thủ đô Hà Nội.
vËn dông ph¹m trï néi dung vµ h×nh thøc ¸p dông vµo
qu¸ tr×nh s¶n xuÊt kinh doanh trong viÖc ph¸t triÓn
xe m¸y trªn thÞ trêng viÖt nam
Phần I
Cơ sở lý luận
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
1.Khái niệm nội dung và hình thức
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt,những yếu tố,những quá trình tạo
nên sự vật.
Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật,là hệ thống các mối
liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
Ví dụ,nội dung của một cơ thể dộng vật là toàn bộ các yếu tố vật chất tế
bào,các khí quan cảm giác,các hệ thống,các quá trình hoạt động của các hệ
thống…để tạo nên cơ thể đó.Hình thức của một cơ thể động vật là trình tự sắp
xếp,liên kết các tế bào,các hệ thống…tương đối bền vững của cơ thể.Nội dung
của quá trình sản xuất là tổng hợp tất cả những yếu tố vật chất như con
người,công cụ lao động, đối tượng lao động,các quá trình con người sử dụng
công cụ để tác động vào đối tượng lao động,cải biến nó tạo ra sản phẩm cần
thiết cho con người.Còn hình thức của quá trình sản xuất là trình tự kết hợp,thứ
tự sắp xếp tương đối bền vững các yếu tố vật chất của quá trình sản xuất,quy
định đến vị trí của người sản xuất,quy định đến vị trí của người sản xuất đối với
tư liệu sản xuất và sản phẩm của quá trình sản xuất.
Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bề ngoài nào đấy,nhưng hình thức của
chủ nghĩa duy vật biện chứng nói đến trong cặp phạm trù nội dung và hình thức
chủ yếu không phải là cái hình thức bề ngoài đó,mà là cái hình thức bên trong
của sự vật,tức là cơ cấu bên trong của nội dung.Ví dụ,mỗi tác phẩm văn học đều
được in thành một cuốn sách nào đấy và đều có kích thước nhất định,hình dáng
nhất định,màu sắc và sự trang trí ở ngoài bìa nhất định…Nhưng đó mới chỉ là
hình thức bề ngoài.Nó không đóng vai trò quan trọng.Cái quan trọng là hình
thức bên trong của tác phẩm được in trong cuốn sách ấy,cụ thể đó là bố cục của
tác phẩm,là các hình tượng nghệ thuật,là ngôn ngữ,phong cách,bút pháp…được
dùng để diễn đạt nội dung,diễn đạt những tư tưởng,những vấn đề của cuộc sống
mà tác phẩm muốn nêu lên. Đó mới là cái hình thức mà chủ nghĩa duy vật biện
chứng muốn bàn đến trong cặp phạm trù nội dung và hình thức.
2.Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
2.1.Sự thống nhất và gắn bó giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau,không tách rời
nhau.Không có một hình thức nào lại không chứa nội dung và cũng như là
không có nội dung nào lại không tồn tại trong hình thức. Điều đó là do nội dung
bao gồm những mặt,những yếu tố,những quá trình tạo nên sự vật,trong khi
đó,hình thức lại chính là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
yếu tố ấy.Như vậy là các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung vừa tham gia
vào các mối liên hệ tạo nên hình thức.
Tuy nhiên,không phải nội dung và hình thức bao giờ cũng phù hợp
nhau,không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ thể hiện ra trong một hình thức
nhất định và một hình thức bao giờ cũng chỉ chứa đựng trng một nội dung nhất
định.Thực ra,không bao giờ có sự phù hợp hoàn toàn tuyệt đối giữa nội dung và
hình thức,bởi lẽ ,các yếu tố,quá trình tạo nên nội dung ở trong trạng thái vận
động,biến đổi không ngừng,trong khi đó hệ thống các mối liên hệ giữa
chúng,tức là hình thức lại tương đối bền vững, ổn định.Kết quả là giữa nội dung
và hình thức bao giờ cũng có một “độ lệch”,một sự không phù hợp nhất định
nào đấy.
Tuy nhiên,giữa nội dung và hình thức cũng không bao giờ có thể có sự
không phù hợp nhau hoàn toàn,tuyệt đối,vì trong trường hợp đó,sự thống nhất
tương đối giữa nội dung và hình thức đã bị phá vỡ và sự vật sẽ không còn là sự
vật cũ nữa.Như vậy,sự phù hợp giữa nội dung và hình thức bao giờ cũng là sự
phù hợp với một độ lệch nhất định. Độ lệch đó nhiều hay ít tuỳ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể.Chính vì có độ lệch đó nên cũng một nội dung trong tình hình
phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức và ngược lại,cùng một hình thức
có thể thể hiện những nội dung khác nhau.
Do tình hình đặc biệt đó nên một vấn đề quan trọng đặt ra là phải tận dụng
tất cả mọi loại hình thức có thể có,kể cả một số hình thức cũ để phục vụ cho nội
dung mới.Lenin đã kịch liệt phê phán thái độ chỉ thừa nhận những hình thức cũ,
đồng thời ông cũng bác bỏ quan niệm phủ nhận mọi hình thức cũ. Lenin đòi hỏi
phải khai thác mọi loại hình thức có thể có,mới cũng như cũ,lấy cái nọ để bổ
sung cho cái kia,không phải để điều hoà cái mới và cái cũ mà là để làm cho bất
cứ hình thức nào cũng trở thành một công cụ giành thắng lợi hoàn toàn và cuối
cùng,quyết định dứt khoát cho chủ nghĩa cộng sản.Lenin viết “ Chủ nghĩa giáo
điều hữu khuynh cứ khăng khăng chỉ thừa nhận những hình thức cũ,nó đã hoàn
toàn phá sản vì nó không nhận thấy nội dung mới.Chủ nghĩa giáo điều tả khuynh
lại khăng khăng tuyệt đối phủ nhận những hình thức cũ nhất định nào đó mà
không thấy rằng nội dung đang tự mở lấy một con đường xuyên qua tất cả mọi
hình thức;rằng nhiệm vụ của những người cộng sản chúng ta,là phải nắm lấy hết
thảy những hình thức đó,học cách lấy hình thức này bổ sung hết sức nhanh
chóng cho hình thức khác,lấy hình thức này thay thế cho hình thức khác…”
2.2.Vai trò quyết định của nội dung so với hình thức trong quá trình vận
động và pháti triển của sự vật
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất của sự vật.Khuynh hướng chủ đạo
của nó là khuynh hướng biến đổi.Còn hình thức là mặt tương đối ổn định,bền
vững của sự vật.Khuynh hướng chủ đạo của hình thức là khuynh hướng ổn
định.Sự biến đổi,phát triển cảu sự vạt bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi,phát
triển của nội dung.Còn hình thức cũng biến đổi,nhưng biến đổi chậm hơn. Ít hơn
so với sự biến đổi nội dung.Khi nội dung biến đổi thì hình thức cũng buộc phải
biến đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.Vì vậy,so với hình thức thì nội dung
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.Ví dụ,nội dung giai cấp của Nhà nước bao
giờ cũng quyết định hình thức Nhà nước phù hợp với nó.Việc chuyển sang phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải có cơ chế quản lí tương ứng.Trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật,không thể
diễn tả được nội dung bi thảm dưới hình thức hài hước hay ngược lại…Dưới sự
tác động lẫn nhau của những mặt trong sự vật,hoặc giữa các sự vật với nhau
trước hết làm cho yếu tố của nội dung biến đổi trước,còn những mối liên kết
giữa các yếu tố của nội dung,tức là hình thức thì chưa biến đổi ngay,vì vậy hình
thức sẽ trở nên lạc hậu hơn so với nội dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm sự
phát triển của nội dung.Do xu hướng chung của sự phát triển của sự vật,hình
thức không thể kìm hãm mãi mãi sự phát triển của nội dung mà sẽ phải thay đổi
cho phù hợp với nội dung mới.
2.3.Sự tác động tích cực ngược trở lại của hình thức đối với nội dung.
Tuy nội dung giữ vai trò quyết định so với hình thức nhưng điều đó hoàn
toàn không có nghĩa là hình thức chỉ là cái bị động, đi theo nội dung.Trái lại,sau
khi xuất hiện dưới ảnh hưởng của nội dung,hình thức sẽ mở đường và thúc đẩy
sự phát triển của nội dung;trong trường họp ngược lại,nó sẽ kìm hãm sự phát
triển ấy.
Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình
phát triển của sự vật.Lúc đầu,những biến đổi diễn ra trong nội dung chưa ảnh
hưởng tới hệ thống mối liên hệ tương đối bền vũng của hình thức.Nhưng khi
những biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó,hệ thống mối liên hệ
tương đối bền vững ấy của hình thức bắt đầu trở nên chật hẹp và bắt đầu kìm
hãm sự phát triển của nội dung.Hình thức không còn phù hợp với nội dung mới
nữa.Sự không phù hợp ấy tiếp tục phát triển và tới một lúc nào đó thì xảy ra sự
xung đột giữa nội dung và hình thức:nội dung mới phá bỏ hình thức cũ và trên
cơ sở của hình thức vừa mới hình thành,nó tiếp tục biến đổi,phát triển và chuyển
sang một trạng thái mới về chất.Ví dụ,trong các hình thái kinh tế-xã hội có giai
cấp đối kháng,lúc đầu quan hệ sản phù hợp với lực lượng sản xuất là hình thức
Phần II
Cơ sở thực tiễn
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
1.Tình hình,thực trạng của thị trường xe máy Việt Nam
1.1.Sự phát triển xe máy ở Việt Nam.
Ở các nước phát triển như: Mĩ,Nhật,Anh…,là những nước có mức sống
cao,phương tiện đi lại chủ yếu là ô tô,gần như mọi nhà đều có ít nhất 1 cái ô tô
để đi lại. Ở Việt Nam,mức sống chưa cao nên phương tiện đi lại chủ yếu của
người dân không phải là ô tô mà là xe máy.Hiện nay,xe máy là phương tiện đi
lại phổ biến ở Việt Nam,nó gần như là một phương tiện không thể thiếu trong
mỗi gia đình, đặc biệt là ở thành thị. Trên thị trường hiện có rất nhiều loại xe
máy, được chế tạo bởi các hãng khác nhau bao gồm cả nội địa, liên doanh và
nhập khẩu từ nước ngoài về; với mẫu mã đa dạng, kiểu dáng phong phú và giá
cả cũng có nhiều mức, phụ thuộc vào nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.Bên
cạnh đó, do cạnh tranh nên trên thị trường các hãng xe máy luôn cải cách mẫu
mã, nâng cao chất lượng sản phẩm để thu hút người tiêu dùng một cách tối đa;
chủ yếu là các hãng liên doanh với nước ngoài như Nhật Bản: Yamaha, Honda,
Suzuki…Các hãng này đã có mặt trên thị trường Việt Nam từ những năm đầu
của thập kỷ 90 và rất có uy tín về chất lượng và hình thức. Do đời sống của nhân
dân ngày càng được cải thiện,nhu cầu đi lại ngày càng cao, điều đó đã tạo điều
kiện rất thuận lợi cho thị trường xe máy vì với thực trạng cơ sở giao thông vận
tải chưa phát triển thì xe máy là phương tiện đi lại thuận tiện nhất.Chính vì
vậy,thị trường xe máy đã biến đổi rất nhiều trong 10 năm trở lại đây.Nếu như
trong giai đoạn cuối thời kì bao cấp,chỉ nhà nào thật khá giả mới có được một
chiếc xe “Simson” hay “Cub”, “81” .Và những chiếc xe thời kì này muốn cho
“nổ” thì phải “đạp”,việc đó tốn rất nhiều thời gian và công sức,vì thế,sau đó là
một loạt loại xe mới ra đời : “82”,”Dream”…là những chiếc xe có “đề”,không
cần “đạp” cho xe “nổ” mà chỉ cần “đề”. Còn đối với những gia đình khá giả hiện
nay thì lựa chọn số một của họ khi mua xe máy là xe ga : SH, Dylan, Spacy,…
với giá khoảng hơn 50 triệu/chiếc-một mức giá khá cao so với thu nhập trung
bình của người dân hiện nay.Tuy nhiên,một gia đình không khá giả lắm thì cũng
có thể tự sắm cho mình một chiếc xe máy để đi lại với giá khá “mềm”,khoảng 56 triệu/chiếc.
Nói chung,xe máy đang là phương tiện phổ biến và ưa chuộng nhất Việt
Nam,do đó,các hãng xe máy đang tiếp tục cho ra đời nhiều loại xe mới được cải
tiến cả về hình thức lẫn nội dung.
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
1.2.Xe máy Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng
Công nghiệp xe máy Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng
Theo số liệu của Hiệp hội Xe đạp, xe máy Việt Nam, đến nay toàn ngành
có 52 doanh nghiệp sản xuất - lắp ráp xe máy, trong đó có 22 doanh nghiệp
Quốc doanh, 7 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Số cơ sở trong
nước nhiều, nhưng sản lượng chỉ đạt khoảng 1,4 triệu chiếc/năm. Trong khi đó,
7 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại có sản lượng vượt trội, (1,73 triệu
chiếc/năm). Lợi nhuận trước thuế của số doanh nghiệp trong nước cũng thấp
hơn 7 doanh nghiệp FDI. Đây chính là khoảng giãn cách khá lớn giữa số đông
doanh nghiệp trong nước với số ít các liên doanh nước ngoài. Nguyên nhân thì
có nhiều, nhưng giới chuyên môn đều khẳng định là đầu tư của các doanh
nghiệp trong nước còn manh mún và nhỏ lẻ, chưa liên kết để tạo thành sức
mạnh. Hơn nữa, công nghệ của các doanh nghiệp trong nước tụt hậu khá xa so
với các doanh nghiệp FDI, chưa chế tạo trọn bộ động cơ thương hiệu Việt
Nam.
Về mặt công nghệ, các doanh nghiệp trong nước chủ yếu nhập khẩu động
cơ, cụm linh kiện và phụ tùng chính yếu, còn lại các chi tiết phụ như đệm, đèo
hàng, giỏ, chân chống, khung sườn chế tạo trong nước nhằm tận dụng giá nhân
công rẻ. Các doanh nghiệp này cũng triệt để khai thác thị trường trôi nổi phụ
tùng, linh kiện do các doanh nghiệp nhập khẩu. Chính vì vậy, chất lượng xe
máy không ổn định. Hệ thống phân phối cũng không biết liên kết dựa vào nhau,
mạnh ai nấy làm, vốn nhỏ, đầu tư phân tán nên có doanh nghiệp sau mỗi quyết
định điều chỉnh giá của Chính phủ, hoặc các quyết định quản lý của Bộ Giao
thông vận tải và Bộ Thương mại là lao đao vì hàng tồn kho.
Hiện nay, có 3 dòng công nghệ phổ biến ở các doanh nghiệp, đó là:
- Công nghệ Nhật Bản: Đạt trình độ cao, chất lượng tốt, lợi nhuận lớn, tập
trung
ở
các
liên
doanh
như
Honda,
Yamaha,
Suzuki
- Công nghệ Đài Loan: Đạt trình độ tiên tiến, sản phẩm chất lượng tốt, giá
bán thấp hơn so với công nghệ Nhật Bản. Điển hình là Công ty SYM.
- Công nghệ Trung Quốc: Công nghệ trung bình, nhiều công đoạn vẫn
phải làm thủ công, nên chất lượng không đồng đều, giá bán thấp nên lợi nhuận
không
cao.
Hàng năm, ngành công nghiệp xe máy trong nước tuy non trẻ, nhưng cũng tạo
ra chỗ làm cho khoảng 100 ngàn lao động trong các nhà máy, xưởng lắp ráp,
sửa chữa bảo hành, các đại lý bán xe máy… Đến quý I năm 2005, theo thống
kê của toàn ngành, có 10 doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền lắp ráp trên
30.000 xe một năm. Có 60% dây chuyền trên 150 công nhân. Các doanh
nghiệp dưới 50 công nhân hầu như không tồn tại do cạnh tranh quyết liệt. Có
tới 45 doanh nghiệp mới nội địa hoá được 40%, hai doanh nghiệp nội địa hoá
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
đến 60%. Một số doanh nghiệp đã bắt tay với nhau không đầu tư từ A đến Z,
mà có sự phân công chiếm lĩnh thị trường trong nước như vỏ, khung sườn,
moay ơ, bộ điện... hoặc chuyên sản xuất các cụm chi tiết chủ lực, có doanh
nghiệp đã xuất khẩu được sản phẩm ra nước ngoài. Nhưng cho đến nay, theo
nhận định của Bộ Thương mại, thì một số chi tiết khó thuộc cụm động cơ (như
bánh răng ly hợp, vòng bi, ngắt số, bộ khởi động…) trị giá khoảng 30 USD
trong giá thành một chiếc xe vẫn chưa được đầu tư sản xuất trong nước.
Thị trường trong nước và trên thế giới vẫn có nhu cầu lớn về xe máy, đặc
biệt là ở các nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng dành cho ô tô còn yếu kém,
nên phương tiện giao thông chủ yếu vẫn là xe máy. Theo số liệu của Cục Đăng
kiểm Việt Nam, nếu năm 1995 cả nước sản xuất lắp ráp được 62.000 xe, thì
đến năm 2004, sản lượng đã tăng gấp 23 lần. Nhiều doanh nghiệp như Công ty
T&T, Công ty Hoa Lâm, Công ty TNHH Đức Phương, Lisohaka đã xuất khẩu
được xe sang thị trường Đông Ti Mo, ăng Gô La, Đôminica, Nam Phi… còn
các công ty liên doanh chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường khu vực châu á.
Riêng Honda Việt Nam một năm xuất khẩu đạt kim ngạch gần 25 triệu USD.
Bình quân số người dân/xe, năm 1990 là 23,8, đến nay đạt gần 7 người/1xe
máy. Thị trường xuất khẩu còn tiềm năng rất lớn, do các nước thuộc thế giới
thứ ba, là bạn hàng với Việt Nam đang có tăng trưởng kinh tế mạnh, đặc biệt là
ở châu á và châu Phi.
Như vậy, cơ hội cho ngành xe máy Việt Nam phát triển trong những năm
tới là rất lớn. Song, cũng chưa thoát khỏi những thách thức lớn trước sự cạnh
tranh và xu thế phát triển công nghệ như vũ bão trên thế giới. Vì vậy, những
vấn đề đặt ra cần được tháo gỡ với ngành công nghiệp xe máy Việt Nam là:
Thứ nhất, thuế suất đối với ngành hàng này phải mềm dẻo và linh hoạt,
phải có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp mới đi vào sản xuất, chưa có
lợi nhuận cao.
Thứ hai, trong 5 năm tới, ngành xe máy tập trung nguồn lực chế tạo trọn
bộ động cơ thương hiệu Việt Nam. Giải quyết được vấn đề động cơ hiệu suất
cao, thân thiện với môi trường sẽ thuận lợi trong quảng bá sản phẩm ra nước
ngoài.
Thứ ba, phải sớm qui hoạch lại ngành xe máy, định hướng nhiệm vụ
chính cho các cụm công nghiệp, cụm doanh nghiệp chuyên làm các chi tiết với
trình độ cao. Giai đoạn này, doanh nghiệp phải đưa công nghệ tự động hoá vào
các khâu then chốt vì giá nhân công không rẻ không còn là lợi thế nữa. Chỉ có
tự động hoá mới tạo ra năng suất cao và ổn định chất lượng sản phẩm.
Thứ tư, chiến lược đầu tư phát triển toàn ngành xe máy phải hướng tới
xuất khẩu, vì thị trường trong nước sẽ sớm bão hoà và thị trường ô tô sẽ chiếm
chỗ, một số thành phố lớn sẽ hạn chế sử dụng xe máy. Vì vậy, công tác tiếp thị,
nghiên cứu thị trường quốc tế, quảng bá sản phẩm phải đi trước và tiến hành
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
ngay từ bây giờ.
Cuối cùng, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp, nhất thể hoá các doanh
nghiệp xe máy theo quy luật thị trường, tiến tới sự hình thành các tập đoàn, hay
tổng công ty có vốn lớn, tập trung được nguồn lực và chất xám để giải quyết
bài
toán
phát
triển
ngành
công
nghiệp
xe
máy.
Dự báo ở giai đoạn 2005 - 2010, sản lượng xe máy toàn quốc sẽ đạt 17
triệu chiếc/năm, chủ yếu sẽ dành cho xuất khẩu, bình quân 6 người có 1 xe
máy. Để đạt công suất nói trên, việc tăng đầu tư tập trung theo chiều sâu cho
ngành công nghiệp xe máy với mục tiêu nội địa hoá 100% sản phẩm đang là
thách thức rất lớn với ngành công nghiệp xe máy Việt Nam
1.3.Một số khó khăn khi phát triển thị trường xe máy.
1.3.1.Xe máy “made in Việt Nam”
Nếu căn cứ vào giấy phép cấp cho các dự án đầu tư sản xuất,kinh doanh xe
máy đều thể hiện tính nhất quán phát triển đồng thời công nghệ chế tạo và công
nghệ lắp ráp,trong đó,công nghệ chế tạo được đặt lên hàng đầu,nhưng thực tế ở
các dự án,chế tạo đã đặt xuống hàng thứ,thậm chí có dự án,công nghệ chế tạo
không có tên trong danh mục đầu tư! Điều này còn thấy rõ hơn khi thực hiện
chủ trương về nội địa hoá ở thân xe và các chi tiết nhựa,còn động cơ,các phụ
tùng,linh kiện khác nội địa hoá chỉ thực hiện với tỉ lệ rất nhỏ,bởi thế,ngành công
nghiệp xe máy nước ta ra đời và hoạt động đã hàng chục năm mà chúng ta vẫn
chưa có được xe máy “made in Việt Nam” với đúng và đầy đủ ý nghĩa của nó!
Có ý kiến cho rằng vì sức ép bảo đảm trật tự an toàn giao thông ở các
thành phố đã khiến công nghiệp xe máy bị chững lại.Cứ cho là vậy,song một
vấn đề đặt ra : thị trường xe máy ở các thành phố thu hẹp là đúng nhưng còn
nông thôn-một thị trường rộng lớn với trên 50 triệu người tiêu dùng,nhu cầu về
xe máy rất đa dạng,ngành công nghiệp xe máy đâu đã đáp ứng và nó vẫn vẹn
nguyên ở dạng tiềm năng!
Đã có nhiều nghìn tỉ đồng được đầu tư vào ngành này để rồi hàng
năm,hàng trăm tỉ đồng tiền lãi vay đang phải trả cho tình trạng không hoạt
động.Nhiều dây chuyền công nghệ,trang thiết bị kỹ thuật đang dần xuống
cấp,trong đó không ít đang trở thành phế liệu vì khi nhập,chúng vốn đã lạc hậu.
Đời sống của hàng chục nghìn lao động đã tuyển chọn, đào tạo đang đòi việc
làm.Nhiều tài sản hữu hình và vô hình đã xây dựng,mua sắm ,tạo dựng dần trở
thành vô dụng,mai một…Quả là gánh nặng cho các nhà đầu tư đồng thời cũng
đang là sự lãng phí vật chất của xã hội nên không thể coi thường.
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Cách đây không lâu, đã có dư luận cho rằng một số Doanh nghiệp xe máy
trong nước vi phạm sở hữu công nghiệp bằng việc lắp ráp xe,nhái kiểu dáng xe
của người khác,dán nhãn mác của mình bán ra thị trường.Dù rằng có thể cảm
thông,chia sẻ với lo toan bươn chải của các Doanh nghiệp nhưng cũng không
nên vì “cái khó bó cái khôn” để rồi cứ “làm bậy”.Thực tế này ngày càng làm
đậm thêm thực trạng đã không mấy sáng sủa của ngành xe máy nước ta, đòi hỏi
phải sớm đưa ra những quyết định đúng đắn và sáng suốt.
Chiến lược phát triển công nghiệp xe máy đến năm 2010 là “sẽ không
thành lập Doanh nghiệp mới.khuyến khích các Doanh nghiệp hiện có liên
doanh,liên kết hình thành những cơ sở sản xuất có quy mô công nghiệp chuyên
môn hoá,hợp tác hoá cao,thành lập các tập đoàn xe máy,tập trung chết tạo động
cơ, đầu tư cho tư vấn thiết kế và chuyển giao công nghệ;xây dựng thương hiệu
xe máy Việt Nam đủ sức cạnh tranh”.
Từ trên 50 Doanh nghiệp,nay còn 20 Doanh nghiệp trụ lại,trừ số 10 Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì hơn 10 Doanh nghiệp này hầu hết là Doanh
nghiệp tư nhân ra đời theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước,hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp dưới hình thức các Công ty trách nhiệm hữu hạn,Công ty cổ
phần có qui mô vừa và nhỏ. Để chiến lược trên trở thành hiện thực có nghĩa là
các Doanh nghiệp phải tiến hành “Cuộc cách mạng đầu tư” tức là công nghệ chế
tạo sẽ là “xương sống “ hoạt động của Doanh nghiệp;mặt khác về công tác quản
lí, điều hành cũng nhiều việc phải bàn,phải làm để xúc tiến hỗ trợ các Doanh
nghiệp thực sự có hiệu quả.
Chiến lược phát triển đến năm 2010 với mục tiêu đáp ứng nhu cầu trong
nước bình quân 1,3 triệu chiếc xe/năm,tỉ lệ nội địa hoá toàn xe trên 90%,động cơ
trên 80% vào năm 2010 xuất khẩu 300 nghìn xe,quả là một viễn cảnh sáng sủa
cho ngành công nghiệp xe máy ở nước ta.Tuy nhiên sự chậm trễ đổi mới từ cả 2
phía,các Doanh nghiệp xe máy cũng như vai trò quản lí điều hành để tạo lập môi
trường đầu tư trong nước nói chung,với công nghiệp xe máy nói riêng thật thông
thoáng,cởi mở và bình đẳng thì xe máy “made in Việt Nam” vẫn là sự mong đợi.
1.3.2.Khó khăn khi đăng ký sở hữu kiểu dáng xe máy.
Vạn sự bất tín…
Như thừa nhận từ không ít Doanh nghiệp,phần lớn xe máy tiêu thụ mạnh
trên thị trường, được người tiêu dùng ưa chuộng đều có kiểu dáng mẫu mã của
xe Nhật Bản. Đây là yếu tố hấp dẫn khiến nhiều nhà sản xuất không phải đầu tư
tốn kém cho thiết kế kiểu dáng mà vẫn có xe đẹp để bán.Và lâu nay,tình trạng xe
máy nhái kiểu dáng các hãng tên tuổi nước ngoài, được tiêu thụ tràn lan trên thị
trường là một thực tế không thể phủ nhận và điều này là nguyên cớ dẫn tới một
số vụ kiện tụng về nhãn hiệu,kiểu dáng xe máy trong thời gian qua.Chính vì
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
vậy,trong nhiều năm qua,các cơ quan quản lý không khỏi e dè khi xem xét cấp
chứng nhận sở hữu kiểu dáng cho Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xe gắn
máy Việt Nam.
Những thực ra, đó chỉ là những “con sâu làm rầu nồi canh”.Nhiều Doanh
nghiệp vẫn cho rằng,nếu bản thân họ sản xuất các mẫu xe được thị trường ưa
chuộng,dễ bán thì vẫn dễ bị nghi ngờ là vi phạm sở hữu kiểu dáng công
nghiệp.Thực tế đã chứng minh rất nhiều mẫu xe đưa đến Cục Sở hữu trí tuệ để
đăng ký kiểu dáng bị từ chối thẳng thừng vì “không khác biệt cơ bản” với mẫu
xe đã được cấp đăng ký,hoặc “có khác biệt cơ bản nhưng lắp ráp từ linh kiện
phổ biến rộn rãi.”.Vậy xe máy của chúng tôi phải thế nào mới có thể được công
nhận là khác biệt cơ bản với những xe máy của hãng khác?”. Đại diện một
Doanh nghiệp đã phải thốt ra đầy bức xúc tại cuộc gặp gỡ Doanh nghiệp lắp
ráp,sản xuất xe máy,do Hiệp hội xe đạp,xe máy Việt Nam(VBMA) tổ chức.Bởi
thực tế,Doanh nghiệp không thể cứ bỏ tiền cho sáng chế rồi lại nhận được cái
lắc đầu từ cơ quan cấp văn bằng bảo hộ!
Tắc vì đâu?
Theo ông Hoàng Văn Tân,Phó Cục trưởng cục Sở hữu trí tuệ,Cục chủ yếu
giám định kiểu dáng xe qua ảnh các phụ tùng nhựa của xe đăng ký vì…Cục
không có kho chứa(?!).Còn máy xe và các phụ tùng khác thì thuộc lĩnh vực sáng
chế.Cũng theo ông Tân,trong số 169 đơn yêu cầu bảo hộ sở hữu kiểu dáng xe
máy(103 Doanh nghiệp nước ngoài,66 Doanh nghiệp trong nước )chỉ có 69 mẫu
được cấp chứng nhận,trong đó thật đáng buồn : Doanh nghiệp trong nước chỉ
bảo hộ được 9 mẫu(khoảng 13%!).Quả thực ,sở hữu kiểu dáng xe máy hiện đang
là lĩnh vực tranh chấp nổi cộm nhất trong tất cả các tranh chấp hàng hoá thương
mại với 55 đề nghị thẩm định kiểu dáng xe từ các cơ quan công an,thanh tra
chuyên ngành,quản lý kinh tế(chiếm 22% tổng số vụ việc yêu cầu thẩm định để
xử lý tranh chấp trong lĩnh vực hàng hoá).
Việc đăng ký khó khăn một phần cũng là do có quá nhiều đầu mối liên
quan đến các vấn đề sở hữu trí tuệ gồm cơ quan công an,thanh tra chuyên
ngành,quản lý thị trường,Sở Khoa học công nghệ,Cục Sở hữu trí tuệ,Toà án…và
có tới trên 50 đơn vị giám định hàng hoá khiến Doanh nghiệp phải cùng lúc gửi
đơn đến nhiều nơi. Ông Tân cho biết thêm: Cục Sở hữu trí tuệ không phải là cơ
quan duy nhất có chức năng giám định và kết luận vi phạm sở hữu công
nghiệp.Tất cả 64 Sở Khoa học công nghệ tại các tỉnh thành đều có quyền giám
định và kết luận nhưng tất cả các nơi đều dồn về Cục Sở hữu trí tuệ.Nhiều vụ
việc,cơ quan quản lý kinh tế trình kết luận của Sở Khoa học công nghệ thì
không được các bên kiện tụng chấp nhận mà lại yêu cầu phải có kết luận của
Cục Sở hữu trí tuệ.Việc cứ dồn về Cục Sở hữu trí tuệ(số lượng đơn năm 2004
tăng hơn năm 2003 37%)nên Cục không thể giải quyết nhanh được. Để giải
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
quyết bức xúc đó,Hiệp hội xe đạp,xe máy Việt Nam đã đưa ra ý tưởng thiết kế
một số kiểu dáng do Hiệp hội đứng tên sở hữu.Các Doanh nghiệp hội viên có
thể sử dụng các thiết kế này vào sản xuất.
Ông Lê Anh Tuấn,Phó Chủ tịch Hiêp hội xe đạp,xe máy Việt Nam cho
rằng : sản phẩm ngày càng đòi hỏi phải có chất lượng,thương hiệu và uy tín với
thị trường.Kiểu làm ăn chộp giật,sản phẩm kém chất lượng sẽ không tồn tại
được.Về ý tưởng đầu tư cho một số kiểu dáng chung của các Doanh nghiệp
trong Hiệp hội xe đạp,xe máy Việt Nam, ông Tuấn cho biết, ý tưởng đã có
những thực hiện thì không dễ. Để tạo ra một kiểu dáng mới là liên quan đến vấn
đề kinh tế.Hiệp hôi đã suy nghĩ đến việc này và đang kêu gọi các Doanh nghiệp
nhưng các Doanh nghiệp chưa có chính kiến rõ ràng.Bởi lẽ,các Doanh nghiệp có
sản xuất ra thì cũng muốn giữ bí mật kinh doanh,vả lại,nếu phải bỏ ra hàng trăm
ngàn USD để có một kiểu dáng mới,chưa thấy lợi đâu mà đã phải chi tiền ra thì
Doanh nghiệp cũng không muốn.Vì vậy,Chính phủ cần phải có giai đoạn quá độ
và toạ điều kiện cho Doanh nghiệp đầu tư thiết kế kiểu dáng xe gắn máy của họ.
2.Hãng xe máy Yamaha.
2.1.Một số nét về Yamaha Việt Nam:
“Lý lịch trích chéo” của hãng :
Tên công ty
Công ty Yamaha Motor Việt Nam
Văn phòng chính và nhà
Xã Trung Giã, Huyện Sóc Sơn, Hà Nội
máy
Giấy phép đầu tư
Số 2029/GP
Thành lập
Ngày 01 tháng 04 năm 1999
Vốn pháp định
24.250.000 USD
Công ty Yamaha Motor (Nhật Bản) (46%)
Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam và nhà máy
cơ khí cờ đỏ (Việt Nam) (30%)
Công ty công nghiệp Hong Leong Industries
Berhad
(Malaysia) (24%)
Sản phẩm
Xe máy
Diện tích
100.000m2
Diện tích xây dựng
22.000 m2
Số nhân công
1057 nhân công
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Logo của hãng :
Phương châm của Yamaha:
“ Chúng tôi – Yamaha Motor Viet Nam (YMVN) sẽ bằng mọi nỗ lực để trở
thành một thành viên tích cực của cộng đồng Việt Nam nhanh chóng góp phần
vào sự nghiệp phát triển công nghiệp Việt nam trong lĩnh vực sản xuất xe gắn
máy.
Phương châm của chúng tôi dựa trên cơ sở “hướng vào thị trường và hướng vào
khách hàng”. Phương châm này bắt nguồn từ chính các ý kiến phản hồi của
khách hàng và sẽ chuyển tải tới các Đại lý và các bên có liên quan của Yamaha
Motor Việt Nam.
Với phương châm này, chúng tôi sẽ thỏa mãn bội phần sự mong đợi của khách
hàng về cả chất lượng và các dịch vụ hậu mãi. Nhờ đó, cuối cùng chúng tôi sẽ
tạo được “Kando” – nghĩa là chiếm lĩnh trái tim khách hàng, vốn nằm trong
phương châm toàn cầu của Tập đoàn Yamaha.”
2.2.Các sản phẩm của Yamaha.
Yamaha tuy mới chỉ xuất hiện trên thị trường Việt Nam được hơn 6 năm
nhưng có thể nói,hãng đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc đưa sản phẩm
của mình vào thị trường Việt Nam. Điều này thể hiện rất rõ khi ta đi ra ngoài
đường,rất nhiều những xe của Yamaha “chạy đi chạy lại” mà phổ biến là Nouvo
và JupiterV…
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Các sản phẩm của Yamaha đang có mặt trên thị trường:
Bảng giá các loại xe :
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Loại xe
Amore
Classico
JupiterV (vành đúc)
JupiterV đĩa 2003
JupiterV đùm 2003
JupiterV Limited Edition
JupiterV RC 2004
Nouvo Limited Edition
Maximo
Nouvo 2003-2004
Neo Nouvo
Neo Nouvo CW
Neo Nouvo RC
New Maximo
SiriusV đĩa 2003
SiriusV đùm 2003
Giá(VND)
16.000.000
17.000.000
26.200.000
25.200.000
24.000.000
26.700.000
26.200.000
22.000.000
18.000.000
21.000.000
24.000.000
25.000.000
25.200.000
19.000.000
21.500.000
20.500.000
2.2.1.Sirius
Đây là loại xe có mặt sớm nhất tại Việt Nam của Yamaha:
Dung tích xi lanh :101.8cc
Độ cao yên xe : 750mm
Dung tích bình xăng: 5 lit
Động cơ : 4 thì,1 xy lanh,SOHC,làm mát tự nhiên bằng không khí
Loại truyền động : Số không tròn,4 số
Màu sắc : Đỏ, Đỏ đô,Lục,Trắng,Xám,Xanh
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Từ khi xâm nhập thị trường Việt Nam cho đến nay thì Yamaha đã cho ra
đời tới 7 kiểu xe Sirius, đó là các loại : Sirius 1999,Sirius 2000,Sirius
2001,Sirius R 2001,Sirius R 2002,SiriusV đĩa 2003,SiriusV đùm 2003.Hiện nay
thì hãng chỉ còn sản xuất 2 đời mới nhất của xe này là SiriusV đĩa 2003 và
SiriusV đùm 2003.
Ưu điểm của xe là khá bắt mắt,màu xe là những màu nổi,giá cả phải
chăng..Nhưng loại xe này không được ưa chuộng lắm ở Hà Nội,SiriusV được
bán nhiều ở các tỉnh khác,những nơi có mức sống thấp hơn.
2.2.2.Jupiter
Đây là loại xe ra đời sau Sirius tuy nhiên lại có những bước đột phá hơn
hẳn Sirius :
Xe Jupiter
Dung tích xilanh : 101.8 cc
Độ cao yên xe : 770mm
Dung tích bình xăng : 4.5 lit
Động cơ : 4 thì,1 xy lanh,SOHC,làm mát tự nhiên bằng không khí
Loại truyền động : Số không tròn,4 số
Màu sắc : Đỏ, Đỏ đô,Lục,Xám,Xanh.
Về cơ bản,khi mới ra thì nó không khác lắm so với xe Sirius,nhưng có một
nét mới: càng xe đã được cải tiến,trong rất có “phong cách”,vì thế nên được
nhiều người ưa chuộng,nhất là giới trẻ.Có lẽ đã nắm được điều này nên hãng đã
quyết định “đột phá” bằng cách cho sản xuất ra một seri xe Jupiter : Jupiter đĩa
2001,Jupiter đĩa 2002,Jupiter đùm 2002,JupiterR,và đặt biệt là loạt xe JupiterV:
JupiterV(vành đúc),JupiterV đĩa 2003,JupiterV đùm 2003,JupiterV Limited
Edition,JupiterV RC 2004 .Có thể nói,với việc cho ra đời loạt xe JupiterV,hãng
đã có bước tiến lớn trong việc chiếm long tin của khách hàng.Loạt xe JupiterV
ra đời với nhiều tính năng khá vượt trội :
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Dung tích xilanh : 110.3cc (phân khối cao hơn Jupiter)
Độ cao yên xe : 760mm
Dung tích bình xăng : 4.5lit
Động cơ : 4 thì,1 xy lanh,SOHC,làm mát tự nhiên bằng không khí
Loại truyền động : Số tròn,4 số
Màu sắc : Vàng,Xám, Đỏ,Lục,Xanh,Trắng,Xanh ương,Bạc ánh kim.
Xe JupiterV với kiểu dáng thể thao,trang nhã ,mẫu mà phong phú, đa
dạng,nhiều màu sắc,chạy rất “êm”.Loạt xe này đang được giớ trẻ rất ưa chuộng
bởi vì nó thể hiện cá tính,phong cách trẻ trung,rất phù hợp với họ.Vì thế mà cả 5
kiểu xe của seri xe JupiterV vẫn đang được sản xuất và bán “ầm ầm” trên thị
trường.
2.2.3.Nouvo
Dung tích xilanh : 113.7cc
Độ cao yên xe : 755mm
Dung tích bình xăng : 4.7lit
Động cơ : 4 thì,1 xy lanh,SOHC,làm mát cưỡng bức bằng quạt gió
Loại truyền động : Dây đai V.tự động vô cấp
Màu sắc : Đỏ, Đen,Trắng,Xanh cyber,Xám bạc,Vàng,Lục,
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Vào khoảng đầu thế kỉ 21,nhận thấy thị trường xe ga đang “bùng nổ”,hãng
đã cho ra đời ngay loại xe ga Nouvo 2002,và sau đó cũng là một seri xe Nouvo :
Nouvo 2002,Nouvo 2003-2004,Nouvo Nouvo RC-CW,Limited Edition,Neo
Nouvo Rc,Neo Nouvo CW,Neo Nouvo.Có thể nói,loại xe này khi ra đời cũng
sánh ngang về tầm ảnh hưởng với JupiterV.Khi thị trường xe ga bùng nổ,có rất
nhiều loại xe ga của các hãng khác ra đời, đặc biệt là của hãng Honda :
@,Dylan,SH…Nhưng hầu hết các xe ga khi đó đều rất đắt tiền,và không phải ai
cũng có thể mua được, đặc biệt là giới trẻ.Và một lần nữa,Yamaha lại chiếm
trọn lòng tin của giới trẻ khi cho ra đời xe Nouvo,phong cách rất trẻ trung,sành
điệu,và đặc biệt là giá cả rất hợp lý : từ 21.000.0000 đến 26.000.000 -mức giá
phù hợp cho giới trẻ hiện nay.
2.2.4.Mio
Dung tích xilanh : 113.7cc
Độ cao yên xe : 745mm
Dung tích bình xăng : 3.7 lit
Động cơ : 4 thì,1 xy lanh,SOHC,làm mát cưỡng bức bằng quạt gió
Loại truyền động : Dây đai V.tự động vô cấp.
Màu sắc : Đỏ,Trắng,Xanh nhạt,Bạc,Vàng,Xanh lá
Tiếp theo Nouvo đó là Mio với các loại xe : Maximo,Amore,Classico,New
Maxicmo với lời quảng cáo “ Phong cách của tôi”. Đây cũng là loạt xe ga như
Nouvo nhưng giá cả thì lại rẻ hơn Nouvo khá nhiều,từ 16.000.00020.000.000 .Nhìn bề ngoài thì nhỏ hơn Nouvo nhưng “bốc” không kém gì
Nouvo(Dung tích xilanh bằng nhau) .Loại xe này nói chung là phù hợp với phái
nữ,vì nó trong khá là “nữ tính”,không “mạnh mẽ” như là Nouvo.
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
2.3.Nhận xét chung
Khi nhìn vào các loại xe của Yamaha thì ta có thể thấy chúng trông rất
“lướt”,rất trẻ trung,thể hiện cá tính và phong cách sành điệu,có thể ngay từ
đầu,hãng đã “xác định” rằng khách hàng chính sẽ là giới trẻ,vì thế mà các sản
phẩm xe máy đều sản xuất ra để phục vụ thị hiếu của giới trẻ.
Về mặt chất lượng của xe máy Yamaha thì có thể nói là “ không có gì để
phàn nàn”,các loại xe của Yamaha có thời hạn bảo hành khá lâu và có chế độ
bảo dưỡng rất ưu đãi với khách hàng,vì thế nên thị trường của hãng không còn
bó hẹp ở trong Hà Nội hay các thành phố lớn nữa.
Ngoài ra thì hãng cũng khá là chú trọng tới vấn đề tiếp thị,quảng bá sản
phẩm của mình,trên các phương tiện thông tin đại chúng,hình ảnh của hãng luôn
đi kèm với các ban thanh niên khoẻ mạnh,trẻ trung,tràn đầy sức sống.Bên cạnh
đó,hãng cũng tổ chức ra nhiều buổi giao lưu hay biểu diễn để khuếch trương
thương hiệu của mình. Điển hình là chương trình “Âm vang sông Hồng” hay
một số chương trình trên vô tuyến, đó là những chương trình biểu diễn xe moto:
nhảy cao 10 mét, chạy trên một loạt chướng ngại vật dài 38 mét và cao 2, 5 mét,
phóng bay xa, chạy trên các thùng phuy, đứng trên 1 bánh sau, đứng trên 1 bánh
trước... Những cuộc biểu diễn ngoạn mục, lạ mắt và nhiều phen đứng tim,
nghẹt thở đã nhận được sự tán thưởng của mọi người tham dự.Các xe moto
trong chương trình đó đương nhiên là của hãng Yamaha sản xuất.Nhờ đó mà uy
tín của hãng được nâng lên khá nhiều qua những chương trình như thể,cái tên
Yamaha giờ đã rất phổ biến trên thị trường Việt Nam,trở thành một “đại gia”
trong nền công nghiệp sản xuất xe máy ở Việt Nam hiện nay.
3.Một số hãng sản xuất xe máy khác
3.1.Honda
Trên thị trường xe máy Việt Nam hiện nay,cái tên Honda không thể không
được nhắc đến. Có thể nói đó là hãng sản xuất xe máy nước ngoài đầu tiên xâm
nhập vào thị trường Việt Nam.Ngay từ những năm đầu mở cửa,xe máy Honda
đã xuất hiện ở Việt Nam với những loại xe “vang bóng một thời” như “81”,
“82”.Loại xe đang được lưu hành nhiều nhất tại Việt Nam chính là Super
Dream,từ thành thị cho đến nông thôn,không chỗ nào là ta lại thấy vắng bóng
chiếc xem “Dim” cả. Đó là một thành công lớn của hãng Honda.
Tuy nhiên,so với hãng Yamaha thì Honda lại có hướng phát triển
khác.Hãng chú trọng nhiều và độ bền của xe và hãng cũng không chú trọng chủ
yếu vào giới trẻ mà phục vụ cho tất cả mọi người,tất cả mọi tầng lớp ở Việt
Nam.Nếu nhà ai khá giả thì có thể mua một chiếc Dylan hay thậm chí là SH để
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
“vi vu”,thấp hơn một chút là Future,Future II .Và “cuộc cách mạng về giá cả”
của Honda thể hiện rõ khi hãng cho ra đời xe Wave α . Đã có lúc hãng đã tự bỏ
“tiền túi” ra để bù vào thiệt hại khi “bán như cho” loại xe Wave α . Điều đó cho
thấy hãng khá là “tâm huyết” với người tiêu dùng, đặc biệt là những người có
mức sống thấp.
Xuất hiện sớm nhất Việt Nam,hãng Honda hiện nay vẫn là một thương
hiệu có uy tín,chiếm được tình cảm của người dân Việt Nam, đó là thành công
rất lớn của hãng.
3.2.SYM
Năm 1992,tập đoàn Chinfon đầu tư và thành lập nhà máy chế tạo xe gắn
máy đầu tiên tại Việt Nam với tên gọi VMEP.Năm 1996,công ty CN SanYang
Taiwan thuộc tập đoàn Chinfon đã quyết định đột phá bằng chiến dịch toàn cầu
với thương hiệu quốc tế SYM.Nhờ chất lượng và uy tín của mình cùng với sự
tìm tòi cải tiến không ngừng với những sản phẩm mới,mẫu mã đẹp,chất lượng
cao,VMEP Việt Nam đã và đang trở thành một trong những thương hiệu được
nhiều người tiêu dùng rất ưa chuộng và tin tưởng.Sau hơn 12 năm hoạt
động,VMEP Việt Nam đã đạt được mức tiêu thụ là 1 triệu xe máy-một con số
đáng nể. Đến nay,VMEP Việt Nam đã đạt tỉ lệ nội địa hoá trên 90% và đẩy
nhanh tiến độ xây dựng nhằm đưa Việt Nam trở thành một trung tâm nghiên
cứu,phát triển cung ứng xe máy SanYang lớn tại khu vực Đông Nam Á.Năm
2004,VMEP Việt Nam đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư trao tặng bằng khen về
những đóng góp trong việc phát triển ngành công nghiệp xe máy Việt Nam. Để
có được những thành quả này.theo Ban lãnh đạo công ti,không chỉ nhờ vào chất
lượng và mẫu mã vượt trội của từng dòng xe gắn máy mà còn nhờ vào chiến
dịch “Tiếp thị hình ảnh” thành công của công ti.Những sản phẩm của SYM luôn
luôn xuất hiện trong các hoạt động quảng cáo rầm rộ cùng với những tên tuổi và
người mẫu,diễn viên,ngôi sao nổi tiếng.Bên cạnh đó,những hoạt động quảng cáo
khuyến mãi của SYM là vô cùng hiệu quả do có nhiều ưu đãi với khách hàng.
Với những thành công trên,VMEP Việt Nam đang trở thành một thương
hiệu lớn tại Việt Nam.
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
4.Một số giải pháp phát triển xe máy ở Việt Nam.
-Coi trọng việc đầu tư cho chất lượng,kiểu dáng xe máy cùng với việc đưa
sản phẩm tới người tiêu dùng,không được tuyệt đối hoá phần nào cả.Bởi vì nội
dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.
-Cần phải năng động và sáng tạo, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường
vì cùng một nội dung trong tình hình khác nhau có thể có nhiều hình thức.
Cụ thể:
-Các hãng sản xuất xe máy cần phải nhanh nhạy,nắm bắt được thị hiếu của
người tiêu dùng mà cho ra những loại xe phù hợp.
-Ngày càng cải tiến và nâng cao chất lượng của xe máy.
-Nghiên cứu,phát triển mẫu mã,phong cách cho phù hợp với từng đối
tượng khách hàng
-Tăng cường quảng bá hình ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng,
đưa sản phẩm tới người tiêu dùng.
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
KẾT LUẬN
Nội dung và hình thức luôn luôn tồn tại,gắn bó với nhau trong cùng một
sản phẩm,góp phần tạo nên sự hấp dẫn của sản phẩm,người sản xuất muốn cho
sản phẩm của mình được bán chạy, được phổ biến trên thị trường thì phải chú
trọng phát triển cả về nội dung và hình thức của sản phẩm, đó là điều hết sức
quan trọng mà bất cứ nhà kinh doanh nào cũng phải để tâm.
Khi nghiên cứu phát triển thì phải nghiên cứu đồng thời cả hai mặt.Nếu chỉ
chú trọng nội dung mà coi nhẹ hình thức thì không thể chấp nhận được.Nếu hình
thức,mẫu mã của sản phẩm mà không đẹp,không bắt mắt thì dù cho chất lượngnội dung có tốt đến thế nào thì cũng không thể chiếm được cảm tình của người
tiêu dùng.Ngược lại,nếu chỉ coi trọng hình thức mà quên đi nội dung thì cũng sẽ
không thành công.Khi hình thức đã đẹp, đã bắt mắt,nhưng chất lượng lại
kém,không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì chỉ sau một lần tiếp cận,họ
sẽ “không thèm” quan tâm tới sản phẩm đó nữa.
Chính vì vậy,nhà sản xuất phải quan tâm,chú trọng phát triển cả hai mặt
nội dung và hình thức của sản phẩm.
Với hãng Yamaha,mặc dù xâm nhập trị trường Việt Nam vào khá là muộn
nhưng,họ đã rất thành công trong việc đưa sản phẩm của mình tới người tiêu
dùng Việt Nam. Đó là nhờ họ đã chú trọng tới việc phát triển cả về nội dung lẫn
hình thức của xe máy.Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua các seri xe của hãng
này,loại xe ra đời sau bao giờ cũng đẹp hơn xe trước và chất lượng cũng không
hề giảm, đó là một thành công lớn của hãng.Ngoài ra thì hãng cũng thành công
trong việc quảng bá sản phẩm của mình,nhờ vậy,hãng đã có chỗ đứng trên thị
trường xe máy Việt Nam,một thị trường rất giàu tiềm năng.
20