Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Quan điểm triết học duy vật biện chứng về con người
và vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Phần mở đầu
Lịch sử của khoa học nói chung, của triết học nói riêng là lịch sử
nghiên cứu về con người.
Con người là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn loài Con
người là sản phẩm của quá trình hết sức lâu dài của tự nhiên, trong xã
hội thì con người là yếu tố chủ chốt, là nhân tố quan trọng không thể
thay thế trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại của, lịch sử của
loài người .
Chủ nghĩa Mác-Lenin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, là
là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh.
Con người là một thực thể “song phùng” tự nhiên và xã hội, là sự kết
hợp cái tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với
nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và
không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên.
Con người là sản phẩm tiến hóa, phát triển lâu dài của tự nhiên. Thế
giới tự nhiên luôn luôn vận động và phát triển, từ thấp đến cao, từ chưa
hoàn thiên đến hoàn thiện mà đỉnh cao là con người.
Con nguời là thực thể sống, có quá trình chao đổi chất với môi trường
xung quanh, có tâm sinh lý, có những nhu cầu vật chất nhất định. Trước
đây C.mác đã từng khẳng định, trước khi hoạt động chính trị, văn học,
nghệ thuật, con người phải ăn, ở, đi lại. Mỗi cơ thể con người đều tuân
theo quy luật của tự nhiên như: sinh ra, tồn tại, phát triển, trưởng thành,
già nua và chết đi. Tuy nhiên những nhu cầu sinh học của con người đã
mang tính xã hội, do vậy, C.Mác quan niệm con người là một thực thể
tự nhiên đặc biệt, một thực thể tự nhiên đã nhân loại hóa.
Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm
biến đổi tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất
người.
Con người không thể tồn tại được khi tách rời xã hội. Xã hội càng
phát triển, con nguời còn người càng hòa vào cộng đồng xã hội, mối
quan hệ giữa con người ngày càng bền chặt hơn, con người được mở
rộng mối quan hệ với xã hội. Một khi quan hệ con người được mở rộng
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
thì con người lại nhận thức về mình rõ hơn và sự hiểu biết tăng lên, vai
trò của con người trong xã hội càng tăng lên.
Như vậy con người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các tư tưởng
triết học, nó chiếm m ột phần không thể thiếu trong hệ thống triết học
duy vật biện chứng Mác-Lenin. Nghiên cứu về con người là một vấn đề
vô cùng quan trọng và bức thiết.
Nghiên cứu con người trong thời đại ngày nay có ý nghĩa hết sức to
lớn nhất là trong thời kỳ đổi mới cụ thể là sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá của thế giới nói chung và nước ta nói riêng.
Việt Nam là một nước đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nhiệm vụ
quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ này là phải xây dựng cơ sở
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành
công nhiệm vụ quan trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp
hóa, tức là chuyển nền kinh nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công
nghiệp.
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vĩ đại và
đã có rất nhiều nước đã trở thành những nước công nghiệp lớn, vì vậy
chúng ta cần tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì con người là nhân tố quyết định trong
mọi hoạt động của xã hội, là chủ thể của nền sản xuất, Nghiên cứu con
người đó là phương thức duy nhất để phát triển kinh tế.
Việt Nam là một trong số các quốc gia nghèo nhất trên thế giới, nền
kinh tế vẫn còn ở tình trạng lạc hậu, làm ăn tản mạn, tùy tiện của sản
xuất nhỏ, sản suất còn mang tính tự cung tự cấp, đời sông nhân dân
còn nhiều khó khăn. Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người
thuộc loại thấp nhất thế giới, tốc độ tăng bình quân chậm hơn nhiều
nước trong khu vực. Vì vậy muốn không bị tụt hậu xa hơn nữa, muốn
ổn định mọi mặt và phát triển thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tại hội nghị lần thứ VI ban chấp hành TW Đảng
Cộng Sản Việt Nam khóa VII đã xác định nước ta “…Chuyển dần sang
một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu
trong thời gian tới.” Chủ trương này có tiếp tục được hoàn thiện và có
bước phát triển mới ở các Đại hội VII, VIII,IX và trong nhiều nghị quyết
quan trọng của TW.
Theo Mác thì con người có vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất
và tổ chức xã hội, không có gì thay thế được con người trong tiến trình
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Bản thân sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang từng bước
thực hiện với những thành công bước đầu của nó cũng ngày càng đòi
hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức sâu sắc “Những giá trị lớn lao, và ý
nghĩa quyết định của nhân tố con người” phải thấy rõ vai trò của con
người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Chương l
CON NGƯỜI TRONG CÁC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
1.1. Bản chất con người nói chung
Con người không phải là một tồn tại trìu tuợng, ẩn náu ở đâu đó ngoài
thế giới. Con người sống trong một thời đại nhât định, một môi trường
xã hội nhất định. Có quan hệ xã hội phong phú, phức tạp với sự phát
triển của văn minh.
Bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu cá nhân
riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những mối quan hệ xã hội.
Tìm hiểu bản chất của con người thì phải tìm hiểu ở bên trong chứ
không phải tìm hiểu đời sống hiện thưc của con người.
Xét trên lĩnh vực sinh học thì ta chỉ hiểu được một phần của con
người. Những đặc tính như lao động, giao tiếp, thẩm mỹ … không phải
là đặc tính của cơ thể mà nó hình thành trong thực lịch sử xã hội, tiêu
biểu cho thực chất con người.
1.2. Quan điểm triết học duy vật biện chứng con người.
1.2.1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác.
1.2.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông.
Các trường phái triết học tôn giáo phuơng Đông như Phật giáo, Hồi
giáo nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm,
thần bí hoặc nhị nguyên luận. Trong triết học Phật giáo, con người là sự
kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần). Đời sống trên trần chỉ
là ảo giác hư vô. Vì vậy, cuộc đời con người khi còn sống chỉ là sống
gửi, là tạm bợ. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi Niết bàn, nơi
tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
Như vậy, dù bị chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc nhị nguyên,
suy đến cùng, con người trong quan niệm của các học thuyết tôn giáo
phương Đông đều phản ánh sai lầm về bản chất con người, hướng con
người đến thế giới thần linh. Trong triết học phương Đông, với sự chi
phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất phác,biểu hiện tư
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
tưởng Nho giáo, Lão giáo, quan niêm về bản chất con người cũng thể
hiện một cách phong phú. Khổng Tử cho bản chất con người do “thiên
mệnh” chi phối quyết định, đức “nhân” chính là giá trị cao nhất của con
người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh tử quy tính thiện của con người
vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán xấu mà
con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tu
dưỡng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình. Cũng như Không Tử,
Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt
con người hướng tới các giá trị đạo đức tốt đẹp.
Triết học Tuân Tử lại cho rằng, bản chất con người khi sinh ra là ác,
nhưng có thể cải bién được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới
tốt được.
Trong triết học phương Đông, còn có quan niệm duy tâm cho rằng trời
và con người có thể hòa hợp với nhau (thiên nhân hợp nhất). Đổng
Trọng Thư, một ngươi kế thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm
cực đoan quan niệm trời và con người có thể thông hiểu lẫn nhau(thiên
nhiên nhân cảm ứng). Nhìn chung, đây là quan điểm duy tâm, quy cuộc
đời con nguời vào vào vai trò quyết định của “thiên mệnh”.
Lão Tử người mở đầu cho phái Đạo gia, cho rằng con người sinh ra
từ “Đạo”. Do vậy, con người cần phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên,
thuần phác, không hành động một cách giả tạo gò ép, trái với tự nhiên.
Quan niệm này biểu hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo
gia.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học, triết học phương Đông
biểu hiện tính đa dạng và phong phú, thiên về vấn đề con người trong
mối quan hệ chính chị, đạo đức. Nhìn chung, con người trong triết học
phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật
chất phác ngây thơ trong mối quan hệ tự nhiên xã hội.
1.2.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác.
Triết học phương Tây trước Mác biểu hiện nhiều quan niệm khác nhau
về con người:
Các trường phái triết học phương tây đặc biệt là Kitô giáo, nhận thức
vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Trong Kitô
giáo, con người là kẻ có thể xác, Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn sẽ
tồn tại vĩnh cửu.Linh hồn là giá trị cao nhất của con người. Vì vậy, phải
thường xuyên chăm sóc phần linh hồn để hướng tới Thiên đường vĩnh
cửu.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu
của tư duy triết học. Con người và thế giới xung quanh la tấm gương
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
phản chiếu lẫn nhau. Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la .
Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu đã có sự phân biệt con
người với tự nhiên, nhưng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con
người.
Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của thượng đế
tạo ra. Mọi số phận, nièm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều
do Thượng đế sắp đặt. Trí tuệ của con người thấp hơn lý trí anh minh
sáng suốt của thượng đế. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống
nhưng đành bằng lòng với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc
vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
Triết học thời kỳ phục hưng – cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý
trí con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong
những yếu tố quan trọng nhằm giải thpát con người khỏi mọi gông cùm
chật hẹp mà chủ nghĩa thần học thời trung cổ đã áp đặt cho con người.
Tu nhiên, để nhận thức đầy đủ bản chất con người cả về mặt sinh học
và mặt xã hội thì chưa có trường phái triết học nào có được. Con người
chỉ mới được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantơ,
Hêghen đã phát triển quan niệm về con người theo khuynh hướng của
chủ nghĩa duy tâm. Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách
quan, thông qua sự vận động của “ý niệm tuyệt đối” đã cho rằng, con
người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Bước diễu hành của “ý niệm
tuyệt đối” thông qua quá trình tự ý thức của con người đã đưa con
người trở về với giá trị tinh thần, giá trị bản thể và cao nhất trong đời
sống con người. Hêghen cũng là người trình bày một cách có hệ thống
các quy luật của quá trình tư duy của con người, làm rõ cơ chế của đời
sóng tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người. Mặc dù, con
người được nhận thức từ góc độ duy tâm khách quan, nhưng Hêghen
là người khẳng định vai trò chủ thể của con người với lịch sử, đồng thời
là kết quả của sự phát triển lịch sử.
Tư tưởng triết học của Phoiơbắc đă vượt qua những hạn chế trong
triết học Hêghen để hi vọng tìm đến bản chất con người một cách đích
thực Phoiơbắc phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể
xác về bản chất con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định
con người do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên. Con người là
kết quả của sự phát triển của thế giới tự nhiê. Con người và tự nhiên là
thống nhất, không thể tách rời
*Có thể nói rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước
Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận
hoặc duy vật siêu hình, đều không phản ánh đúng bản chất con người.
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Nhìn chung, các quan niệm đều xem xét con người một cáhc trìu tượng,
tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự
nhiên - sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.
Tuy vậy, một số trường phái triết học vẫn đạt được một số thành tựu
trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá
trị về nhân bản học để hướng con người đến tự do. Đó là những tiền đề
có ý nghĩa trong việc hình thành tư tưởng con người của triết học
Macxít.
1.2.2. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người.
1.2.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt
xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm
của thế giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản
tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con ngườI là điều kiện đầu
tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể
vô cơ thể của con người”. Con người là bộ phận của giới tự nhiên. Con
người là tinh hoa của muôn loài, là sản phẩm của quá trình lâu dài của
thế giới tự nhiên. Con người phải tìm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn
tại trong đời sống tự nhiên như thức ăn, nước uống, hang động để ở.
Đó là quá trình con người đấu tranh với tự nhiên, thú dữ để sinh tồn.
Trải qua hàng chục vạn năm con người đã thay đổi từu vượn thành
người, điều đó đã được chứng minh trong các công trình nghiên cứu
của Đácuyn. Các gia đọan mang tính sinh học mà con người trải qua từ
sinh thành, phát triên đến mất đi quy định bản chất sinh học trong đời
sống con người. Như vậy con người trước hết là một tồn tại sinh vật,
biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của
con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính,
những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý các giai đoạn phát triển
giống nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người. Tuy nhiên,
mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con
người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài
vật là mặt xã hội. Trong kịch sử đã có hững quan niệm khác nhau phân
biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ
lao động, là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người là động vật
có tư duy …
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh
nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được
nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác đã nhận thức vấn
đề con người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính hiện thực
của nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người đã làm thay đổi, cải
biến tự nhiên: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người
thì tái sản xuất toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu
hiện trong sản xuất vật chất; hoạt động vật chất tự biểu hiện một cách
căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản
xuẩt, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời
sống của mình; hình thành phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan
hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã
hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng
đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật
khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên
như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự chao
đổi chất, về di chuền, biến dị tiến hóa …quy định phương diện sinh học
của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận
động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm,
khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan
hệ giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Mối quan hệ sinh học và xã hội trong đời sống con nggười như nhu cầu
ăn, mặc, ở ; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu
thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Như vậy với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy
rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh
học và nhu cầu xã hội trong mỗi con ngườI là thống nhất với nhau, hòa
quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên xã
hội.
1.2.2.2. Bản chất con người là sự tổng hòa những quan hệ xã hội.
C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng Luân cương về Phoiơbắc: “bản
chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu của cá nhân
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những mối quan hệ xã hội.”
Luận đề khẳng định rằng, không có con người trìu tượng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh kịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác
định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất
định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình,
con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát
triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã
hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh
tế ; quan hệ cá nhân, gia đình xã hội …) con người mới bộc lộ bản chất
của mình.
1.2.2.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại
con người. Bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa
lâu dài của thế giới hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con
người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
Con người có hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên,cải biến tự
nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con
người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong
phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lai một tự nhiên thứ hai theo mục đích
của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của tự nhiên, đồng thời là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoat động lao động sản
xuất vừa là vừa là điều kiện cho sự tồn tại con người, vừa là phương
thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy
luật của kịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh
thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu
và nhu cầu do con người dặt ra. Không có hoạt động của con người thì
cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của
toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
* Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ
đại đến hiện đại. Triết học Mác – Lênin đã giải quyết những nội dung
liên quan đến con người.Con người có vị trí và vai trò rất quan trọng đối
với thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một lực lượng
chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã hội chỉ
có con người – yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
hội mớI là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành
công hay thất bại. Nhưng con người cũng là mục tiêu, là cái đích của sự
phát triển, đổi mới này.
Với thực trạng nước ta hiện nay là nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu
thì biện pháp duy nhât để thoat khỏi tình trạng đó kà nhất thiết phải tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nó vì lợi ích của con
người và có thành công hay không là phụ thuộc vào con người.
Chương 2
CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Thế nào là công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1.1. Khái niệm công nhiệp hóa.
Khái niệm đơn giản: Là đưa tính công nghiệp cho một hoạt động,
trang bị cho (một vùng, một nước), các nhà máy, các loại công ngiệp …
Khái niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình hình
thành lịch sử công nghiệp hóa ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ.
Theo các nhà kinh tế Liên Xô thì công nghiệp hóa là phát triển đại
công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần thiết
cho việc cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên
tiến.
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc đã đưa
ra định nghĩa: Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong
quá trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân
được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều nghành ở trong nước
với kỹ thuật hiện đại.
2.1.2. Khái niệm công nghiệp hóa hiện, đại hóa
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
gắn liền với đổi mới công nghệ xây dựng cơ cấu vật chất - kỹ thuật, là
quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp sang
trình độ công nghệ cao hơn, nhờ đó mà tạo ra sự tăng trưởng bền vững
và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Khái niệm này rất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay. Nước ta là
một nước nông nghiệp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp.Nền
công nghiệp của nước ta còn yếu kém và lạc hậu, vì vậy thực hiện
công nghiệp hóa hiện đại hóa là một bước đi vô cùng đúng đắn.
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
2.2. Nhân tố con người là nhân tố quyết định trong công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2.1. Tầm quan trọng của con người.
Để thực hiện được công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần có môi
trường ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết như: nguồn lực con
người, vốn tài nguên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý …
Trong đó thì con người là nhân tố quyết định.
Các nước lạc hậu đi sau như (nước ta hiện nay) không thể phát triển
nhanh chóng nếu không tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
đại của các nước phát triển. Nhưng không phải chuyển giao công nghệ
bằng mọi cách mà không cần đến yếu tố con người. Công nghệ đó
được phát huy tác dụng, hay bị phá hoại điều đó phụ thuộc vào con
người. Con người là yếu tố chủ lực bởi vì:
Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chung chỉ phát huy tác dụng
khi có sự tác động của con người, con người là nguồn lực duy nhất có
trí tuệ, có ý trí, và biết gắn kết các nguồn lực khác lại với nhau, tạo
thành một sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, trong khi đó nguồn lực con
người là vô hạn. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học
mà con tự đổi mới không ngừng.
Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó
được vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.Thực tế đã
chứng minh trí tuệ con người chúng ta hiện nay đã đạt tới mức siêu
đẳng, đã xản xuất ra người máy “bắt trước” hay “phỏng theo’’ những
đặc tính trí tuệ của con người. Như vậy bằng những công nghệ kỹ thuật
hiện đại do chính bàn tay khối óc con người làm ra, mà ngày nay nhân
loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của
mình.
Thứ tư, sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc
chủ yếu vào hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực
hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người. Khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mặt chất
lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực rất quan trọng.
Tóm lại, nguồn nhân lực con người là nguồn lực có vai trò quyết định
sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy
muốn có công nghiệp hóa hiện đại hóa thành công thì phải đầu tư vào
con người, đây là nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn nhất trong
công cuộc đổi mới hiện nay, với nước ta thì đây là một nhiệm vụ nặng
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
nề và cấp bách trong công cuộc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
2.2.2. Con người Việt nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Chúng ta đã thấy rõ vai trò của con người rất quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Với Việt Nam thì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa có thành công hay không sẽ phụ thuộc
phần lớn vào yếu tố con người, nhưng người Việt Nam liệu có làm
được điều đó không? Ta cần nghiên cứu những thế mạnh và những
hạn chế của nhân tố con người từ đó xem những điểm nào cần phát
huy và những điểm nào cần khắc phục.
Trước hết con người Việt Nam có những thế mạnh:
Thứ nhất, theo thống kê năm 2001 cả nước ta có 39.489 nghìn người
từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm ổn định,khu vực thành thị có 9.182
nghìn người, khu vực nông thôn có 30.307 nghìn người. Như vậy tỷ lệ
có việc làm là 97,24%, tỷ lệ thất nghiệp là 2,76% .
Thứ hai, Việt Nam có tỷ trọng tương đối cao về lao động trẻ, phần lớn
có học vấn phổ thông kể cả ở nông thôn. Đây là yếu tố quan trọng trong
việc tiếp thu kỹ năng nghề nghiệp. So với các nước có thu nhập như
nước ta thì lực lượng lao động của nước ta có trình độ cao. Tính đến
năm 2001 lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật lên tới 22,2% có
khoảng gần một triệu người tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng và 120.000
người có bằng thạc sỹ và tiến sỹ .
Thứ ba, chúng ta có một lượng lớn Việt kiều làm ăn sinh sống ở nước
ngoài và phần lớn họ có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ cao.
Đây là nguồn lực quan trọng giúp phát triển đất nước, là cầu nối giữa
Việt Nam với nước ngoài về mặt chuyển giao tri thức, công nghệ và các
quan hệ quốc tế.
Thứ tư, đó là bản tính hiếu học, thông minh cần cù lao động của con
người Việt Nam. Truyền thông đó cần được duy trì để làm cơ sở cho
việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng, sáng tạo
những phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho sự
nghiệp phát triển của đất nước. Tính cộg đồng, ý thức trách nhiệm với
cộng đồng được phát huy mạnh mẽ sẽ hỗ trợ đắc lực không chỉ cho
việc chuyền bá tay nghề, kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể giúp
nhau về vốn, tạo dựng và phát triển cơ nghiệp, hỗ trợ nhau tìm kiếm
việc làm, góp phần làm giảm sức ép lao động hiện nay. Dân tộc Việt
Nam còn có truyền thống biết chịu đựng gian khổ để tiết kiệm, tích lũy
cho đầu tư mở rộng, tạo dựng cơ đồ cho mình và cho nền kinh tế nước
nhà nói chung.
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Bên cạnh những thế mạnh đó thi nguồn nhân lực Việt Nam còn có
những mặt yếu kém sau:
Thứ nhất, số người lao động được đào tạo quá ít chỉ chiếm 20% tổng
số lao động, 77,71% sản xuất nông nghiệp có nghĩa là tỷ lệ qua đào tạo
là rất hạn chế, hiện nay nước ta số lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ
lệ là 51,74% (có học vấn từ tiểu học trở xuống). Đây là trở ngại lớn nhất
trong công nghiệp hóa nông nghiệp trong kinh tế nông thôn nói riêng và
trong cả nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ còn quá ít. Điều tra ở 17 trường
đại học cho thấy số cán bộ giang dạy dưới 35 tuổi chỉ có 8%. Phần lớn
những tri thức có trình độ trên đại học đã ở độ tuổi từ 55 đến 60 tuổi. Có
hơn 60% phó tiến sĩ va tiến sĩ, hơn 70% giá sư và hơn 90% giáo sư đều
ở độ tuổi này, trong khi đó phần lớn các sinh viên giỏi ra trường không
muốn ở lại trường giảng dạy vì thế mà việc chuẩn bị cho đội ngũ trí thức
kế cận gặp rất nhiều khó khăn
Thứ ba, việc sử dụng cán bộ còn nhiều bất hợp lý giữa các vùng, các
nghành cụ thể là 80% cán bộ khoa học công nghệ làm việc tại Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh. Đa số các cán bộ này nghiên cứu trong các
viện, các trường học, còn tham ra vào các nghành sản xuất vật chất thì
ít ,ví dụ như trong nghành lâm ngư nghiệp chỉ có 8,1% cán bộ có trình
độ đại học còn sau đại học là 6,49% .Trong khi đó các nước trong khu
vực như Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản thì tỷ lệ đó chiếm tỷ lệ cao. Việc
phân bố lao động không hợp lý dẫn tới việc nơi thì có việc làm, nơi thì
lại thiếu. Qua điều tra thì tỷ lệ sinh viên có việc là 70% tức là còn 30%
không có việc, trong khi đó nhiều vùng, nhiều miền nhất là miền núi lại
không có cán bộ khoa học kỹ thuật. Vì thế việc sử dụng, phân bố nguời
lao động có vai trò rất quan trọng.
Thứ tư, Nguời lao động nước ta chưa có tác phong công nghiệp, quen
với sản xuất nhỏ, lao động còn đơn giản còn giữ phong tục nghề nghiệp
“cha truyền con nối”. Mặt khác thể chất và sức khỏe của người Việt
Nam còn nhiều hạn chế vì thế mà khi lao động còn gặp nhiều khó khăn.
Trên đây là những thế mạnh và yếu kém của nguồn lực Việt Nam. Với
nhưng thế mạnh thì tiếp tục phát huy còn những hạn chế thì cần có biện
pháp khắc phục. Phải có cuộc “cách mạng con người”, tức là cách
mạng về người lao động, phải phát huy tối đa yếu tố con người, chỉ có
như vậy thì Việt Nam mới vững bước trên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
2.3. Phát huy yếu tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Phát huy nguồn lực con người là quá trình đào tạo, bồi dưỡng làm
tằng nguồn lực con người về thể lực, trí lực, phẩm chẩt đạo đức, v.v…,
là quá trình khai thác có hiệu quả những yếu tố đó trong lao động, học
tập, chiến đấu nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo
vệ tổ quốc.
Xã hội loài người chỉ được phát triển khi phát triển tối đa từng cá nhân.
Vấn đề phát triển cá nhân không còn là vấn đề lý thuyết mà là nhu cầu
thiết yếu trong thực tiễn xã hội ta ngay từ hôm nay. Cụ thể để công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải tiến hành một cuộc “cách mạng con
người” nhằm tạo ra một số lượng lớn các nhà khoa học, đội ngũ đông
đảo các nhân viên kỹ thuật có trình độ tri thức tương đối cao và những
người lao động lành nghề. Điều đó đòi hỏi sự nghiệp giá dục bồi dưỡng
nhân tài phải phát triển tương ứng.
Phát triển nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện cách mạng khoc học
và công nghệ có những biến đổi nhanh chóng như ngày nay được coi là
những phương thức cơ bản, quan trọng nhất để cải biến một xã hội
nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp văn minh. Hai quá
trình nay không tách rời, biệt lập nhau, trái lại chúng có mối quan hệ
chặt chẽ, tác động biện chứng. Kết quả là sự cộng hưởng giữa chúng
tạo nên quá trình phát triển liên tục của xã hội.
Với nước ta vấn đề phát triển nguồn nhân lực đã được nhà nước
quan tâm và chú trọng. Nhà nước đã có những chính sách, biện pháp
kịp thời, khá hợp lý tuy không tránh khỏi những hạn chế do điều kiện
kinh tế hạn hẹp.
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được.
Trải qua mười lăm năm đổi mới, sự nghiệp giá dục - đào tạo nước ta
có bước phát triển về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo cơ sở vật
chất. Trình độ đân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên
đáng kể. Theo báo cáo phát triển con người năm 2004 do UNPD công
bố ngày 26/7/2004 tại Hà Nội, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt
Nam tiếp tục được cải thiện từ 0,686 năm 2003 lên 0,691 năm 2004.
Với chỉ số trên, Việt Nam duy trì vị trí xếp hạng về phát triển con người
ở mức trung bình là 112 trong tổng số 177 nước được xếp hạng. kể từ
năm 1985 đến nay, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng
lên đáng kể, từ 0,583 năm 1985 lên 0,691 trong thời gian gần đây, điều
đó phản ánh những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực phát triển
con người.
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Quy mô giáo dục - đào tạo được nâng tiếp tục mở rộng ở tất cả các
bậc học, nghành học, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân
dân. Hiện nay gần 94% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ, tất cả các
tỉnh, thành phố trong cả nước đều đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và
phổ cập tiểu học. Một số tỉnh thành phố dã và đang tiến tới đạt phổ cập
trung học. Năm học 2000 - 2001 cả nước có 17.866.673 học sinh phổ
thông, số sinh viên trên vạn dân đạt 118 người. Đã đào tạo được một
lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật khoảng 8 triệu người, chiếm
18,3% trong tổng số 43,8 triệu lao động cả nước.
Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh
viên ngày càng được nâng cao. Số học sinh đạt giải quốc gia và quốc tế
của một số môn học ngày càng tăng, khẳng định tiềm năng trí tuệ của
nước ta.
Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện. Số
trường lớp được xây mới ngày càng nhiều. Các trương phổ thông có
hầu hết ở các địa bàn dân cư tạo điều kiện thuận lợi cho người học.
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp từng
bước sắp xếp lại. Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề phát triển rộng
khắp. Giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số có những chyển biến tích
cực, đã có trên 1000 trường dân tộc nội trú.
Ngoài lĩnh vực giáo dục ra thì việc chăm sóc sức khỏe cho các tầng
lớp nhân dân cũng đã được quan tâm. Y tế phát triển, có nhiều cơ sở
khám chữa bệnh kể cả ở vùng sâu, vùng xa. Tuổi thọ trung bình của
người Việt Nam tăng lên so với trước đây.
Nhìn chung, trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã chăm lo
tới việc bồi dưỡng nguồn nhân lực của đất nước cả sức khỏe, tri thức,
năng lực, phẩm chất đạo đức; tạo điều kiện cho mỗi người phát huy
được khả năng của mình đóng góp co sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
2.3.2. Những mặt yếu kém trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người.
Chất lượng giáo dục đào tạo đại trà ở các cấp bậc học còn thấp. Đa
số học sinh, sinh viên quen với cách học thụ động thiếu năng lực tư duy
độc lập, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng vào sản xuất và đời
sống. Một số học sinh, sinh viên ít quan tâm đến việc rèn luyện phẩm
chất chính trị, đạo đức lối sống. Thể lực đa số học sinh, sinh viên còn
yếu. Các điều kiện cơ bản đẻ đảm bảo chất lượng còn bất cập như đội
ngũ giáo viên thiếu về số lượng, cơ cấu không đồng bộ và chất lượng
thập, phương pháp giáo dục lạc hậu, phương tiện giảng dạy còn thiếu
thốn.
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Hiệu quả hoạt động giáo dục thấp. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp
so với nhập học còn thấp, nhất là vùng núi vùng sâu vùng xa. Tỷ lệ lao
động qua đào tạo còn thấp làm cho khả năng tiếp thu kỹ thuật công
nghệ mới gặp nhiều khó khăn. Chưa có những giải pháp hữu hiệu trong
việc đào tạo nhân lực để tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để
phát triển nông thôn, phục vụ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao động.
Đào tạo đại học và giáo dục nghề nghiệp chưa phù hợp với nhu cầu về
lao động của xã hội, có nhiều người tốt nghiệp không làm đúng ngành
nghề, thiếu tự giác, trung thực trong lao động, thiếu trách nhiệm không
tôn trọng quy trình kỹ thuật tham ô lãng phí nguyên vật liệu…
Cơ cấu đào tạo nhân lực về trình độ, ngành nghề và vùng miền chưa
hợp lý. Phần lớn học sinh phổ thông chỉ chọn một con đường lên đại
học, việc học nghề ở các trình độ khác còn hạn chế. Việc quy mô tăng
đào tạo đại học chưa được định hướng vào nhu cầu xã hội. Phân bố
học sinh, sinh viên theo ngành nghề, theo vùng miền chưa phù hợp với
nhu cầu kinh tế xã hội của cả nước và của địa phương, gây nên tinh
trạng nơi thừa nơi thiếu. Khoảng cách về trình độ phát triển giáo dục
đào tạo giữa các vùng trong nước chưa được thu hẹp.
Như vậy có thể nói giáo dục và đào tạo ở Việt Nam đang đứng trước
những thách thức lớn lao, trước yêu cầu đổi mới kinh tế xã hội, trước
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước sức ép về nguy
cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực. Trong những năm tới, giáo
dục Việt Nam phải thực hiện dược các mục tiêu cơ bản là nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bbồi dưỡng nhân tài theo hương khắc phục
những hạn chế trong thời gian qua, trên cơ sở của bản thân và sự giúp
đỡ của các nước phát triển.Muốn vậy nhà nước ta phải có những chính
sách và biện pháp phù hợp.
2.3.3. Những chính sách và biện pháp của nhà nước ta.
Tăng ngân sách giáo dục vá đào tạo, sử dụng ngân sách đó một cách
có hệu quả. Đồng thời, nhà nước phải chăm lo đời sống của đội ngũ
giáo viên, cải thiện chế độ tiền lương, tăng phụ cấp cho giáo viên để
giáo viên có thể nâng cao vị trí xã hội của mình.
Chú ý đào tạo tập trung vào các nghành kỹ thuật, công nghệ nhiều
hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Nâng cao chất lượng các bậc tiểu học, làm tiền đề vững chắc cho
chất lượng của các cấp học tiếp theo.
Những yếu tố trên mới chỉ đề cập đến vấn đề phát triển giáo dục và
đào tạo, là yếu tố quan trọng để con người Việt Nam thực hiện vai trò
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
của mình. Nhưng song song với nó nhà nước còn phải thực hiện những
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, căn cứ vào yêu cầu phát triển cảu cá nghành và các vùng
lãnh thổ, cần tổ chức bố trí lại lực lượng lao động một cách hợp lý trên
phạm vi cả nước theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo ra những nghành kinh tế mũi nhọn.
Thứ hai, trả lương đúng cho người lao động, trong đó chú ý đến đội
ngũ cá bộ khoa học. Bản thân tiền lương không đơn giản là việc trả
công mà còn tái sản xuất ra sức lao động (nhiều hay ít), kích thích
những phẩm chất (tích cực hay tiêu cực) của người lao động.
Thứ ba, tiến hành bồi dưỡng đào tạo lại lực lượng lao động hiện có và
đào taọ lực lượng nới theo chuên nghành nhất định. Trong đó đảm bảo
sự cân đối và đồng bộ giữa lao động phổ thông, lao động kỹ thuật và lao
động khoa học.
Thứ tư, bồi dưỡng thường xuyên đối với người lao động về mặt chính
chị - tư tưởng, lợi ích, ý thức pháp luật, trách nhiệm công dân, truyền
thống. Trong thực tế hiện nay nếu chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất mà
không thực hiện công tác giáo dục thì sẽ dẫn đến sai lầm, là hư hỏng
con người, thậm chí cả một thế hệ người. C.Mác dã từng nói:''trong
phát triển kinh tế phải gắn sự nghiệp giải phóng con người với cuộc đấu
tranh chống lại biểu hiện thực tiễn cực đoan của sự tha hoá con người".
Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động tới từng cá nhân, từng
gia đình va mỗi tập thể chúng ta. Có những kẻ giàu có nưng vẫn tham
ô,buôn lậu ...Còn có những kẻ nghèo nhưng lại không chịu lao đọng
chân chính, và có những kẻ không chịu học hành, lao động chỉ lo ăn
chơi và từ đó trở thành tội phạm.
Thứ năm, phải nâng cao thể lực thanh niên,tức là phải nâng cao dần
mức sống của nhân dân về cả vật chất lẫn tinh thần. Trước mắt, cần tập
trung đầu tư nâng cao chất lượng của chương trình giáo dục thể chất và
y tế học đường, đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thể cho thanh niên
tạo thể lực vững vàng để học tập và lao động.
Thực hiện được những nhiệm vụ trên có nghĩa là nhà nước ta đã cơ
bản hoàn thành cuộc "cách mạng con người'', con ngươi Việt Nam sẽ
vững vàng trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
PHẦN KẾT THÚC
Con người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các tư tưởng triết học,
nó chiếm một phần không thể thiếu trong hệ thống triết học duy vật biện
chứng Mác-Lenin. Con người là sản phẩm của quá trình hết sức lâu dài
của tự nhiên, là yếu tố chủ chốt của xã hội, là nhân tố quan trọng không
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
thể thay thế trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của lịch sử
của loài người. Thế giới tự nhiên luôn luôn vận động và phát triển, từ
thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện mà đỉnh cao là con
người. Vì thế mà hầu hết các tư tưởng triết học đều tập trung nghiên
cứu về con người. Mỗi trường phái triết học đều đưa ra những quan
niệm khác nhau về con người, giúp ta hiểu rõ hơn về qua trình hình
thành và phát triển của con người.
Trong thời đại hiện nay chúng ta cần có một cách nhìn đúng đắn về
con người, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu thế phát triển chung của tất
cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đường tất yếu để nước ta
đi tới mục tiêu :''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", mà
chủ thể của quá trình này chính là con người, vì thế mà đòi hỏi có
nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác,
nguồn nhân lực phải trở thành động lực của sự phát triển.
Việt Nam có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đạt
tốc độ tăng trưởng cao khi có sự đầu tư và phát triển mạnh nguồn nhân
lực. Sự đầu tư ấy được hiểu cả ba mặt đó là: chăm sóc sức khoẻ, nâng
cao mức sống và phat triển giáo dục, trong đó phát triển giáo dục là có
hiệu quả nhất.
Tư tưởng C.Mác về sự phát triển vì con người, vì sự nghiệp giải phóng
của con người, giải phóng nhân loại, chúng ta có thể khẳng định rằng
sựnghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên thế giới nói chung và đặc
biệt là ở nước ta hiện nay chính là cuộc cánh mạng "để sản xuất ra
những con người toàn diện'' cần có một nền kinh tế phát triển, một nền
văn hoá mới, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền giáo dục tiên
tiến. Tạo ra những thành tựu kinh tế xã hội không chỉ là phương pháp
để tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp duy nhất để
tạo ra những con người toàn diện. Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại
hoá phải vì mục tiêu phát triển con người.
Tóm lại, để đất nước bước sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa chúng
ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển bền vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống
nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội.
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin
2.Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin
3.Giáo trình CNXHKH khoa học
4.Tạp chí cộng sản số 1(1/1994)
5.Tạp chí cộng sản số 1(3/1993)
6.Tạp chí cộng sản số 1(2/1996)
7.Tạp chí cộng sản số 5(10/1996)
8.Tạp chí cộng sản số 1(2/1997)
9. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước khu
vực(Phạm Khiêm Ích, Nguễn Đình Phan).
10. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam đầu năm 2000(Võ Đại
Lược)
11. Vấn đề con người, cá nhân, xã hội trong học thuyết của Mác(Trần
Hữu Tiến)
12. Chỉ số con người năm 2004 (Bộ kế hoạch và đầu tư)
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Môc lôc
Trang
PhÇn më ®Çu………………………………………………………………………….. 1
1. Ch¬ng1: Con ngêi trong c¸c t tëng triÕt häc……………………………….. 3
1.1. B¶n chÊt con ngêi nãi chung…………………………………………………... 3
1.2. Quan điểm triết học duy vật biện chứng con người…………………………... 3
1.2.1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác………………………… 3
1.2.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông………………….. 3
1.2.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác………. 4
1.2.2. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người…………….. 6
1.2.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
…………………………………………………………………………………………… 6
1.2.2.2. Bản chất con người là sự tổng hòa những mối quan hệ xã hội ………... 7
1.2.2.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử ……………………….. 8
2. Chương 2: Con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
…………………………………………………………………………………….. 9
2.1. Thế nào là công nghiệp hóa, hiện đại hóa ……………………………………. 9
2.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa …………….. …………………………………... 9
2.1.2. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa …………………………………... 9
2.2. Nhân tố con người là nhân tố quyết định trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước …………………………………………………………………………... 9
2.2.1. Tầm quan trọng của con người ………………………………………………. 9
2.2.2. Con người Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
…………………………………………………………………………………... 11
2.3. Phát huy yếu tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước ………………………………………………………………………………. 12
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được ……………………………………………… 13
2.3.2. Những mặt yếu kém trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người ……. .14
2.3.3. Những chính sách và biện pháp của nhà nước ta ……………………….. 15
Phần kết thúc ………………………………………………………………………… 16
Danh mục tài liệu tham khảo ………………………………………………………. 18
19