Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng chính trị của arixtôt trong tác phẩm chính trị luận...

Tài liệu Tư tưởng chính trị của arixtôt trong tác phẩm chính trị luận

.PDF
97
29
128

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN ANH TÙNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ARIXTỐT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN” LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Đà Nẵng – Năm 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN ANH TÙNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ARIXTỐT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN” Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60.22.80 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG Đà Nẵng – Năm 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Anh Tùng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 3 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................... 3 5. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 3 6. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................... 3 CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN” CỦA ARIXTÔT ....................................................... 6 1.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO SỰ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA Arixtôt...................................... 6 1.1.1. Những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội........................ 6 1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng chính trị của Arixtôt ....... 8 1.2. TIỂU SỬ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTÔT .................................................................................... 12 1.2.1. Cuộc đời Arixtôt ........................................................................... 12 1.2.2. Sự nghiệp của Arixtôt ................................................................... 16 1.2.3. Về kết cấu của tác phẩm “Chính trị luận” .................................... 19 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ARIXTÔT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN”....... 22 2.1. QUAN NIỆM CỦA ARIXTÔT VỀ NGUỒN GỐC, MỤC ĐÍCH, HÌNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC .............................................................................. 22 2.1.1. Quan điểm Arixtôt về nguồn gốc, mục đích của nhà nước .......... 22 2.1.2. Quan điểm Arixtôt về các hình thức nhà nước trong lịch sử........ 25 2.1.3. Quan điểm của Arixtôt về con người và các quan hệ chính trị của con người......................................................................................................... 31 2.1.4. Quan điểm Arixtôt về xung đột chính trị trong các nhà nước ...... 35 2.2. QUAN NIỆM CỦA ARIXTÔT VỀ NHÀ NƯỚC TỐT NHẤT. ............ 40 2.2.1. Quan điểm Arixtôt về hạnh phúc với tính cách là mục đích cao nhất của một nhà nước tốt nhất ....................................................................... 40 2.2.2. Quan điểm Arixtôt mô hình nhà nước tốt nhất ............................. 44 2.2.3. Quan điểm Arixtôt về vai trò và mối quan hệ giữa Hiến pháp và Pháp luật trong một nhà nước tốt nhất ............................................................ 46 2.2.4 Quan điểm Arixtôt về tầng lớp cai trị và sự phân chia quyền lực chính trị trong một nhà nước tốt nhất.............................................................. 50 2.2.5. Quan điểm của Arixtôt về giáo dục và dân số trong nhà nước tốt nhất .................................................................................................................. 56 CHƯƠNG 3: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ARIXTÔT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN”.. 68 3.1. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ARIXTÔT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN” ............................................................... 68 3.1.1. Những giá trị ................................................................................. 68 3.1.2. Sự vận dụng những giá trị trong tư tưởng chính trị Arixtôt qua các thời kỳ lịch sử.................................................................................................. 73 3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ARIXTÔT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN”. ............................................... 79 KẾT LUẬN .................................................................................................... 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 89 QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (Bản sao) 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Triết học Hy Lạp là một di sản quý giá không chỉ của dân tộc Hy Lạp, mà còn của cả nhân loại. Với tư cách một hệ thống hoàn chỉnh, triết học Hy Lạp cổ đại ra đời vào khoảng cuối thế kỷ VII – đầu thế kỷ VI trước Công nguyên và tồn tại đến thế kỷ II – III sau Công nguyên, trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Với nền văn minh rực rỡ của mình, Hy Lạp luôn thu hút sự quan tâm tìm hiểu của không ít người nghiên cứu và cho đến nay, những thành tựu của nền văn minh ấy vẫn luôn khiến người ta phải ngưỡng mộ, khâm phục. Mặc dù triết học Hy Lạp cổ đại là giai đoạn đầu tiên trong sự phát triển của lịch sử tư tưởng phương Tây, nhưng những tư tưởng triết học, những thành tựu mà nó đã đạt được thì không ai có thể phủ nhận. Không chỉ thế, những thành tựu của triết học Hy Lạp còn có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của hầu hết các trào lưu triết học phương Tây sau này. Arixtôt là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo nên ảnh hưởng hết sức lớn lao trong nền văn minh phương Tây. Cùng với Platon, Arixtôt được coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất. Arixtôt hiểu rõ toàn thể học thuật Hy Lạp của các thời đại trước, đã cứu xét, tóm tắt, nhận xét và làm phát triển kiến thức của nhân loại, gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ về sau. Là một nhà bác học, Arixtôt đã để lại cho hậu thế một kho tàng tư tưởng đồ sộ về nhiều phương diện như triết học, khoa học, toán học, thiên văn học và chính trị học. Chính trị luận là một trong những tác phẩm kinh điển của Arixtôt về triết lý và lý thuyết chính trị của Phương Tây và trên nền tảng những lý thuyết chính trị khác như của Cicero, St. Augustine, Aquinas (cổ, 2 trung đại), Hobbes, Locke, Rousseau (thời Cận đại và Khai sáng) – đã được xây dựng và phát triển. Quan niệm của chúng ta từ xưa đến nay vẫn thường hiểu chính trị theo nghĩa xấu đó là những mưu đồ nhằm tranh chấp quyền lực, bất chấp những chuẩn mực đạo đức nên thường giữ thái độ “kính nhi viễn chi” đối với chính trị, nhưng với câu nói bất hủ: “Con người là một sinh vật chính trị”, Arixtôt đã lý giải con người không thể tách rời khỏi đời sống chính trị của cộng đồng mà nó sinh sống. Chính trị, tự bản thân nó không xấu, chỉ có những mô hình và các chế độ chính trị do con người tạo ra mới có tốt, có xấu vì không nhận thức được rõ về bản chất của con người. Trong tác phẩm Chính trị luận, Arixtôt khái quát các hình thức thể chế chính trị đã tồn tại ở Hy Lạp, phê phán các lý thuyết về nhà nước, nhất là mô hình nhà nước lý tưởng của Platon – người thầy của ông, đồng thời đưa ra nhiều tư tưởng có giá trị về mô hình thể chế chính trị được ông cho là tốt nhất. Nhiều tư tưởng chính trị của Arixtôt vẫn còn nguyên giá trị và có thể được vận dụng một cách sáng tạo trong thời đại ngày nay. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Tư tưởng chính trị của Arixtôt trong tác phẩm Chính trị luận” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài có mục đích phân tích những nội dung cơ bản về tư tưởng chính trị trong tác phẩm Chính trị luận của Arixtôt, chỉ ra được những đóng góp cũng như những hạn chế của chúng. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích đã đề ra, đề tài phải thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng chính trị của Arixtôt. 3 - Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị trong tác phẩm “Chính trị luận” của Arixtôt. - Chỉ ra được những đóng góp cũng như những hạn chế của những nội dung đó. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những tư tưởng chính trị trong tác phẩm “Chính trị luận” của Arixtôt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng triết học của Arixtôt bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn: siêu hình học, vật lý học, lôgic học, chính trị học, đạo đức học… trong nhiều tác phẩm. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những tư tưởng chính trị của ông trong tác phẩm “Chính trị luận”. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, trừu tượng và cụ thể, lịch sử và lôgíc, đối chiếu, so sánh, v.v.. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 6 tiết. Chương 1. Hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm “chính trị luận” của Arixtôt Chương 2. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị Arixtôt trong tác phẩm “Chính trị luận” Chương 3. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng chính trị Arixtôt trong tác phẩm “Chính trị luận” 6. Tổng quan tình hình nghiên cứu Triết học Arixtôt nói chung và tư tưởng chính trị của ông nói riêng đã 4 được nghiên cứu, diễn giải ngay từ thời cổ đại cho đến tận ngày nay ở nhiều nước khác nhau. Những đề tài liên quan đến vấn đề này luôn được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Thứ nhất: Các công trình dịch và giới thiệu về tác phẩm Chính trị luận của Arixtôt: Tác phẩm “Chính trị luận” đã được nhiều học giả Anh, Mỹ dịch sang Anh ngữ với tiêu đề “Politics”, tiêu biểu như các bản dịch của Benjamin Jovett, Peter Simpson, Ernest Barker, W.E.Bolland và H. Rackam. Ở Việt Nam, Arixtôt là một trong số những nhà triết học Hy Lạp cổ đại được quan tâm hơn cả. Tác phẩm “Chính trị luận” được dịch giả Nông Duy Trường dịch sang tiếng Việt vào Mùa Xuân năm 2008, sau đó hoàn thành vào cuối năm 2011 và xuất bản vào quý I, năm 2013. - Thư hai, Các công trình chuyên khảo về triết học Arixtôt gồm có các sách và bài báo: + Ở phương Tây có nhiều sách nghiên cứu về Arixtôt như: The Public and the Private in Aristotle's Political Philosophy của Judith wanson, Ithaca: Cornell University Press, 1992; Introduction to The Politics, by Aristotle của Carnes Lord, Chicago University Press1984. Tuy nhiên các sách này chưa được dịch ra tiếng Việt. + Tư tưởng chính trị và tác phẩm “Chính trị luận” của Arixtôt được nghiên cứu và giới thiệu nhiều trên nhiều từ điển triết học và bách khoa thư ở phương Tây, như Bách khoa mở Wikipedia, Bách khoa triết học trên Internet, Bách khoa triết học Stanford, Bách khoa Britannica, v.v.. Trong các công trình này, tư tưởng chính trị và tác phẩm của Arixtôt được giới thiệu nhưng chỉ ở mức độ khái quát. Ở Việt Nam đã xuất bản một số tác phẩm và bài báo nghiên cứu chuyên khảo về Arixtôt như: 5 + Sách: “Triết học Arixtôt” của Đặng Phùng Quân (Sài Gòn, 1972); + Sách: “Triết học Arixtôt” của Vũ Văn Viên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998). + Một số bài báo: bài: Arixtôt – con người - sự nghiệp (1996) của Nguyễn Văn Dũng, Tạp chí Triết học, số 1; bài: Về tư tưởng giáo dục Arixtôt (2003) của Nguyễn Bá Thái, Tạp chí Triết học, số 3. Trong các sách và bài báo này, các tác giả dành một phần để đề cập tư tưởng chính trị của Arixtôt, nhưng chưa đi sâu nghiên cứu một tác phẩm nào. - Thứ ba, Các công trình nghiên cứu lịch sử triết học phương Tây, trong đó có triết học Arixtôt và tư tưởng chính trị của ông như: Triết học Hy Lạp cổ đại (1987) của Thái Ninh (Nxb Sách Giáo khoa Mác-Lênin); Triết học Hy Lạp La Mã cổ đại (1998) của Hà Thúc Minh; Lịch sử triết học cổ đại Hy Lạp (1991) của Nguyễn Quang Thông, Tống Văn Chung; Lịch sử triết học phương Tây, Từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức của Nguyễn Tấn Hùng (Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2012). Tuy nhiên, các công trình này chỉ đề cập đến triết học Arixtôt và tác phẩm Chính trị luận của ông một cách khái quát, chưa đi sâu vào nội dung chi tiết của nó. Tóm lại, ở nước ta cho đến nay, chưa có một công trình nào đi sâu phân tích những tư tưởng chính trị trong tác phẩm “Chính trị luận” của Arixtôt. Do đó, trong luận văn của mình, tôi sẽ phân tích những nội dung và ý nghĩa của tác phẩm quan trọng này, đồng thời kế thừa những thành quả nghiên cứu đã được công bố của những tác giả khác nữa để thấy được những giá trị trong tư tưởng chính trị của Arixtôt. 6 CHƯƠNG 1 HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN” CỦA ARIXTÔT 1.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO SỰ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ARIXTÔT 1.1.1. Những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Lịch sử nhà nước có giai cấp ở Hy Lạp cổ đại bắt đầu từ thời đại Kritô Miken, xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ ba. Nền văn hóa Kritô - Miken do các bộ lạc Akhây tạo ra, là nền văn hóa thuộc kỷ nguyên bạc. Vào cuối thiên niên kỷ thứ hai, nhiều bộ lạc ở Bắc Hy Lạp đã di chuyển xuống phía Nam và tạo ra cuộc chinh phạt của người Đôriên. Nó đã tiêu diệt các nhà nước Kritô - Akhây và mở ra một thời đại mới là thời đại Hôme. Tính phát triển không đồng đều của lịch sử đã tăng lên ở thời đại này. Nó được thiết định bởi việc xã hội chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại bắt đầu sản xuất và sử dụng các công cụ bằng sắt. Đây là thứ công cụ có hiệu quả hơn nhiều so với thứ công cụ bằng bạc và đã mở ra các khả năng to lớn để phát triển nông nghiệp. Quá trình tan rã của chế độ bộ lạc nguyên thủy và hình thành xã hội có giai cấp và nhà nước ở Hy Lạp cổ đại kéo dài vài thế kỷ (khoảng các thế kỷ XI - VIII TrCN). Hậu quả là sở hữu tư nhân tăng lên rõ rệt dẫn tới sự tan rã của công xã nông thôn. Gắn với quá trình tan rã của lối sinh hoạt công xã là quá trình hình thành vô số nhà nước thành thị ở Hy Lạp cổ đại. Các thành phố Hy Lạp cổ đại đã đi đến chỗ đối lập với nông thôn một cách gay gắt hơn nhiều so với các thành phố phương Đông cổ đại. Nhiều thành phố ở Hy Lạp cổ đại trở thành các trung tâm buôn bán lớn. 7 Mức độ buôn bán và sản xuất hàng hóa sôi động là một bằng chứng có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đối với sự xuất hiện của đồng tiền vào thế kỷ VII TrCN. Đây là một bước tiến bộ lớn trong quá trình phát triển của xã hội Hy Lạp cổ đại. Lịch sử tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại gắn bó hữu cơ với quá trình tiến hóa xã hội và nhà nước Hy Lạp chiếm hữu nô lệ. Sự ra đời, củng cố và hưng thịnh, cuối cùng là suy tàn của nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp. Chính trị đã xuất hiện với tư cách là một trong những lĩnh vực kiến thức nhằm định hướng cho việc điều hành những công việc phức tạp của quốc gia. Lãnh thổ của Hy Lạp được mở rộng thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế văn hóa với các dân tộc khác. Sự phát triển của sản xuất đã dẫn đến việc các quan hệ và tổ chức xã hội bị đảo lộn. Nếu trước đây là hình thức tổ chức xã hội cũ như bộ tộc, bộ lạc thì giờ đây tư tưởng tư hữu và sau đó là chế độ tư hữu về của cải xuất hiện. Phân công lao động phát triển, xã hội xuất hiện tầng lớp chuyên sống bằng trí óc tạo điều kiện nảy sinh những tư tưởng chính trị. Mâu thuẫn giữa giới chủ nô dân chủ và giới chủ nô quí tộc xuất hiện trong nội bộ giai cấp chủ nô. Phái dân chủ cho rằng phải đập tan chế độ chuyên chế độc tài của tầng lớp quý tộc giải phóng khỏi sự nô dịch của giới quý tộc cũ. Giới quí tộc muốn duy trì trật tự cũ và bằng mọi cách bảo vệ đặc quyền của mình. Chế độ sở hữu cá nhân được thừa nhận và không thay đổi, chế độ nô lệ được coi là tự nhiên phải có. Mâu thuẫn giai cấp cơ bản của xã hội chiếm hữu nô lệ được hình thành là mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô. Trong quá trình đấu tranh đó nhiều quan niệm về sự bình đẳng, tự do đã nảy sinh. Lịch sử Hy Lạp cổ đại là một bộ phận không thể tách rời trong lịch sử các nước Cận Đông Địa Trung Hải không những về nguồn gốc mà cả sự phát triển của văn hóa vật chất và đặc biệt là văn hóa tinh thần. Do đó, nền văn hóa 8 ở đây chịu ảnh hưởng to lớn của các nền văn hóa Ai Cập, Babilon, Phini và các nền văn hóa Cận Đông khác. Phù hợp với cơ cấu xã hội của các nhà nước phương Đông cổ đại là đời sống tinh thần của họ, mà quan trọng nhất là các phương diện: thần thoại, khoa học và tiền triết học. Và chính vì vậy, văn hóa Hy Lạp cổ đại cũng chịu ảnh hưởng của những yếu tố này. Với những đặc trưng kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại đã ra đời và phát triển với một thành tựu rực rỡ. Trên nền tảng chung đó, triết học Arixtôt đã ra đời. Triết học của Arixtôt là sự kế thừa trên cơ sở sáng tạo những giá trị văn hóa của người Hy Lạp cổ đại nói chung. Ngoài ra, nó còn là sự tổng kết tư tưởng triết học của nhiều nhà triết học trước đó và khía cạnh này sẽ được trình bày trong phần dưới đây. 1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng chính trị của Arixtôt Thời cổ đại mà đặc trưng là các tư tưởng và học thuyết chính trị Hy Lạp - La Mã. Họ đề cập về những vấn đề như nguồn gốc, bản chất của nhà nước, các hình thức xã hội, thể chế nhà nước, thủ lĩnh chính trị… Trước nhất, bàn về thủ lĩnh chính trị, đã có rất nhiều quan điểm, ý kiến của các học giả về vấn đề này: - Xôcrat cho rằng: thủ lĩnh chính trị phải là người có đạo đức. Nhưng đạo đức phụ thuộc vào trí tuệ. Tuy nhiên, do xuất thân từ tầng lớp chủ nô quý tộc nên ông cho rằng chỉ có thiểu số tầng lớp quý tộc mới là người có trí tuệ, mới là những người sáng tạo đúng đắn. “Quý tộc” (tiếng Hy Lạp: ἄ ριστος – aristos, có nghĩa là những người ưu tú, tốt nhất, không phải là tầng lớp địa chủ như trong thời phong kiến). - Đêmôcrít thì yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải là người có tài năng, đạo đức. Xuất phát từ lập trường duy vật và dân chủ nên ông cho rằng tầng lớp bình dân cũng có tài năng, có thể làm được chính trị. 9 - Xênôphôn lại yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải có kỹ thuật giỏi, phải có sức thuyết phục cao, người thủ lĩnh phải biết vì lợi ích chung nghĩa là phải biết chăm sóc cho người bị trị, biết hợp lại và nhân sức mạnh của mọi người. Ông là người đầu tiên đặt ra yêu cầu về thủ lĩnh chính trị khá toàn diện như : phải có chuyên môn giỏi, có uy tín, vì dân… Ông cho rằng, việc làm chủ nghệ thuật chính trị là trình độ cao hơn mà con người có thể đạt tới. Theo ông, ai là người nhận thức được các vấn đề chính trị sẽ trở thành người trung thực, người tốt. Ai ngu dốt về điều đó sẽ trở thành hàng nô lệ. Người thủ lĩnh được chỉ định không phải để chăm lo cho cá nhân người đó mà để phục vụ những người mà anh ta chỉ huy, vì rằng những người này đã chọn anh ta, do những phẩm chất của anh ta, để bảo vệ cái lợi ích của họ. Đồng thời, người thủ lĩnh phải luôn rèn luyện, tu dưỡng bản thân. - Platon thì yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải thực sự có khoa học chính trị, có tính khí phù hợp với nhiệm vụ đảm đương. Ông xem tiêu chuẩn chính trị là tiêu chuẩn của mọi tiêu chuẩn. Ông quan niệm người lãnh đạo trong xã hội không được có quyền tư hữu (sở hữu về tài sản), bởi vì tư hữu sẽ làm mất công tâm. Lực lượng võ sĩ bảo vệ thì không được có gia đình riêng vì có gia đình riêng thì sẽ không thể chiến đấu dũng cảm được. Theo ông, thủ lĩnh chính trị phải biết hy sinh lợi ích cá nhân vì những giá trị chung. Ông chia xã hội thành ba hạng người khác nhau: Ở địa vị cao nhất là các nhà triết học, những người này có vai trò quan trọng trong việc cai trị đất nước, họ nắm quyền bính trong tay và đảm nhận vai trò lãnh đạo. Ở địa vị thấp hơn là những người lính làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh. Thấp nhất là những người thuộc tầng lớp nông dân, thợ thủ công. Họ có nhiệm vụ làm ra của cải vật chất, đảm bảo cuộc sống cho nhà nước. Theo Platon nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng hóa các nhu cầu con người và từ đó xuất hiện các dạng phân công lao động để thỏa mãn các nhu cầu ấy. Vì vậy, trong xã hội phải duy trì các hạng 10 người khác nhau. Do đó không thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa mọi người. Sở hữu tư nhân là nguồn gốc sinh ra điều ác, nó phá hoại chỉnh thể và thống nhất của nhà nước. Vì vậy nó phải được loại trừ ra khỏi xã hội. Theo ông cho dù nhà nước nào cũng tồn tại hai nhà nước thù định lẫn nhau: một là nhà nước của những người giàu có, còn nhà nước kia là của những người nghèo khó. Vì vậy, cần phải có sự thống nhất về sở hữu. Tuy có những quan điểm tiến bộ nhưng ông vẫn còn sai lầm khi cho rằng một thủ lĩnh chính trị như vậy chỉ có ở tầng lớp chủ nô quý tộc. Đây là lí do mà sau này Arixtôt – học trò của ông đã phê phán cái mô hình chính trị tư tưởng mà Platon đề ra trong tác phẩm Chính thể Cộng hòa. Thứ hai, bàn về nguồn gốc của quyền lực nhà nước, một số quan điểm nổi bật của các học giả như sau: - Hêraclít: là người thuộc tầng lớp chủ nô quý tộc, ông xem trạng thái tự nhiên của con người tự nó đã hoàn hảo, không có vấn đề công bằng hay không công bằng ở đó vì công bằng do con người tạo ra. Xã hội con người là một trạng thái tự nhiên, tự nó, không ai sinh ra, không ai sắp đặt nó, tự nhiên sinh ra có kẻ trí và người ngu cho nên kẻ trí thống trị người ngu là lẽ tự nhiên, kẻ trí là người quí tộc, nô lệ là người ngu. Ông cho rằng quyền lực là quy luật vĩnh viễn. Không bao giờ trong xã hội lại không có quyền lực. Pháp luật nhằm thực hiện tính tất yếu của quyền lực, xã hội phải phục tùng ý chí của một cá nhân là điều tất yếu cho sự thống nhất. Theo ông bất bình đẳng là tự nhiên, một quý tộc phải được trị giá bằng một nghìn dân thường. - Platon: xem quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là quyền lực thống trị của kẻ trí đối với người ngu. Đó là đặc tính của trí tuệ. Chỉ có người có trí tuệ mới có quyền lực. Trí tuệ chỉ có ở tầng lớp quý tộc (những người ưu tú nhất của xã hội). Thứ ba, bàn về thể chế nhà nước, các quan điểm lớn bao gồm: 11 - Herôdốt: là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã phân biệt và so sánh các thể chế của nhà nước khác nhau. Theo ông có 3 hình thức cơ bản: + Quân chủ trị: Quyền lực nằm trong tay một người và theo ông đây là một chính phủ không được tổ chức tốt vì nó không để cho người khác phản kháng, cãi lại cái mà người đó muốn. Nó làm bại hoại lương tri của những người ưu tú mà tôn sùng sự phỉnh nịnh, ghen ghét với những người cao quý. Do đó ông kịch liệt phê phán nền quân chủ. + Quý tộc trị: là thể chế được thiết lập khi tuyển chọn được một hội đồng có chủ quyền tối thượng để cầm quyền nhà nước, bao hàm những người ưu tú nhất của đất nước. Có sự bàn bạc, cọ sát của hội đồng các nhà thông thái, tinh hoa về trí tuệ và phẩm chất, vừa tránh được độc tài quân chủ vừa tránh được đám đông không hiểu biết tham gia nắm chính quyền. Nhưng cuối cùng lại có sự tranh giành, tàn sát lẫn nhau, mưu toán quyền lực và lợi ích cá nhân, chia bè phái và chế độ một ông vua lại tái phát. + Dân chủ trị: Thể chế được thiết lập do số đông nhân dân nắm quyền lực. Đó là con đường chống độc tài, qua bốc thăm để trao những chức vụ công cộng một cách đúng đắn và ngăn cản được sự lợi dụng quyền lực, quản lý xã hội trên nguyên tắc “tất cả đều bình đẳng trước pháp luật và tự do phát biểu đề xuất”. Nhưng dân chúng thường không hiểu biết nên dễ bầu ra những người thiếu hiểu biết nắm chính quyền, dễ lung lay kích động bởi các nhà cầm quyền, xã hội lại dễ rơi vào trạng thái bè phái vô chính phủ từ đó chế độ một vua lại tái phát. - Đêmôcrít: ông ủng hộ chế độ dân chủ cộng hoà chủ nô. - Xôcrat, Platon là những người ủng hộ chế độ chuyên chế quý tộc, cho rằng dân chủ là sai lầm; dân chủ là chính quyền của người ngu dốt và gọi đó là chính quyền “bình dân”. 12 Arixtôt đã tham khảo tất cả các lý luận về thể chế chính trị, cùng với việc khảo sát những hình thức, mô hình nhà nước đã tồn tại trên thực tế, từ đó đưa ra quan điểm riêng của mình. 1.2. TIỂU SỬ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTÔT 1.2.1. Cuộc đời Arixtôt Arixtôt chào đời tại Stagira thuộc miền Thrace năm 384 trước Tây Lịch. Stagira là một tỉnh nhỏ, là thuộc địa của Hy Lạp bên bờ phía bắc biển Aegean mà ngày nay có lẽ là Stavro. Cả hai cha và mẹ của Arixtôt đều gốc người Ionien. Cha Arixtôt, ông Nichomachus, là một thầy thuốc danh tiếng tại triều đình Vua Amyntas II, cha của Vua Philip của Macedonia. Mẹ của Arixtôt vốn người miền Chalcis. Có lẽ trong 17 năm đầu, Arixtôt đã sống với cha mẹ và được cha dạy cho về Y khoa. Năm 17 tuổi, Arixtôt tới thành Athens và theo hoc nghề thầy thuốc. Năm 367 trước CN, Arixtôt vào học ở Hàn lâm viện (tiếng Hy Lạp: Academos hay Academia) của Platon (tiếng Anh: Plato). Vào thời gian này, Platon 61 tuổi và đã liên quan tới nền chính trị của Syracuse. Vì vậy, Hàn Lâm Viện Academos đặc biệt chú trọng về luật pháp, chính trị, thêm vào là Toán học và Thiên văn học. Ngày nay, người ta chỉ hiểu biết rất mơ hồ về cuộc sống của Arixtôt trong 20 năm tại Hàn Lâm Viện. Arixtôt được coi là một trong số học viên chăm chỉ nhất và xuất sắc hơn các bạn về trí thông minh và lòng nhiệt thành. Người ta còn kể rằng Platon đã phải gọi Arixtôt là “Trí tuệ của nhà trường”. Theo như truyền thuyết, Arixtôt phụ trách giảng dạy môn Tu từ pháp. Ông cũng soạn ra vài tập “đối thoại” theo khuôn mẫu của Thầy Platon. Các tác phẩm này đều trở nên rất nổi danh vì lối hành văn trôi chảy và trong sáng. Có người cho rằng giữa Arixtôt và Platon có sự bất đồng ý kiến trầm trọng, nhưng không ai tìm ra được các dẫn 13 chứng đáng tin cậy. Có lẽ đối với Platon, Arixtôt đã bất đồng ý về nhiều giáo điều song ông lúc nào cũng kính trọng Thầy và gìn giữ lòng biết ơn. Khi Platon qua đời vào năm 347, Arixtôt viết một bài điếu văn trong đó ông đã ca tụng Thầy. Theo Diogene Laerce, Arixtôt mắc tật nói lắp (cà lăm). Ông có đôi mắt nhỏ, đôi chân gầy còm và rất ưa thích quần áo đẹp. Khả năng làm việc của Arixtôt rất lớn lao và người ta kết luận như vậy căn cứ vào số tác phẩm do ông đã viết ra. Muốn giảm bớt thời giờ ngủ và tăng thêm số giờ làm việc, Arixtôt đã nghĩ ra phương pháp sau: khi đọc sách hay lúc làm việc về khuya, ông cầm nơi tay trái một quả cầu bằng đồng ở phía trên một chiếc chậu. Nếu vì ngủ gật mà quả cầu rơi xuống thì tiếng động sẽ đánh thức ông dậy. Arixtôt bị đau dạ dầy và để làm giảm bớt nỗi đau đớn, ông thường đeo ở trước ngực một cái bị đựng dầu đun nóng. Vào năm 347 khi Platon qua đời, Speusippus trở thành người đứng đầu Hàn lâm viện (Academos). Arixtôt đã cùng với Xenocrates và một vài môn đệ của Platon, rời thành Athens tới Assos, sống với Hermias là một học trò cũ của Platon và cũng là bạo chúa của hai tỉnh Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á. Arixtôt có cảm tình rất nhiều với Hermias và đã kết hôn cùng Pithias, người con gái nuôi của bạo chúa. Hermias cũng cảm thấy sung sướng khi được Arixtôt sống ở gần mình. Thời bấy giờ, Hermias đang điều khiển một lực lượng giữa hai xứ hùng mạnh là Macedonia và Ba Tư. Luôn luôn bạo chúa thù nghịch với một trong hai phe kể trên, để rồi rơi vào cạm bẫy của Mentor, đại tướng người Hy Lạp đi theo Ba Tư. Hermias bị trao cho Artaxerxes và bị treo cổ. Cái chết thảm thương của Hermias đã ảnh hưởng rất lớn tới Arixtôt. Vì không cảm thấy an toàn tại Atarneus, Arixtôt đã theo lời khuyên của Theophrastus, một môn đệ, dọn tới Mitylene thuộc miền Lebos vào năm 344. 14 Chính tại nơi này, Arixtôt đã nghiên cứu trong hai năm môn Sinh học, đặc biệt là ngành Hải sinh học (marine biology). Năm 342, Arixtôt được mời tới Macedonia để dạy dỗ Thái tử Alexander khi đó mới 13 tuổi. Lời mời của Vua Philip II có thể là do lúc tuổi trẻ, Arixtôt đã từng sống tại triều đình này, có thể là do danh tiếng của ông nhờ các tập Đối Thoại, nhưng cũng chính vì Arixtôt đã từng liên lạc chặt chẽ với Hermias là người đã tỏ ra thiên về Macedonia và chống lại Ba Tư. Arixtôt đã ở lại Macedonia trong 7 năm. Theo như thông lệ, Arixtôt đã dạy cho Thái tử về Chính trị và Tu từ pháp, và Arixtôt cũng soạn một tác phẩm của Homer để giảng cho Alexander. Arixtôt đã cố gắng làm phát triển nơi Thái Tử các đức tính về điều độ và lý trí mà đối với ông, rất cần thiết cho một vương quốc. Có lẽ chính vào dịp này, Arixtôt đã soạn ra cuốn “Khảo sát về Vương quyền” để giáo huấn Thái tử nhưng tác phẩm này đã bị thất lạc hoàn toàn. Năm 340 khi vua Philip đi chinh chiến nơi xa, Thái tử Alexander nắm giữ quyền hành. Vào thời gian này, Arixtôt lập ra một ngôi trường và ông cũng giành thời giờ cho riêng mình để học hỏi thêm. Arixtôt cũng khuyên Alexander cho kiến thiết lại Stagira, nơi đã bị tàn phá vài năm trước và có lẽ cũng do ông, thành phố này có một hiến pháp. Alexander rất quyến luyến ông Thầy và khi đã thay cha lên ngôi vua, vẫn lưu giữ Arixtôt bên cạnh. Thái Tử luôn luôn tỏ lòng biết ơn đối với Thầy cũ bằng cách biệt đãi nhà đại hiền triết trong mọi công việc. Nhưng nếu Alexander rất mến yêu Thầy thì trái lại, ít khi nghe theo lời khuyên bảo của Thầy vì “một sự di truyền kỳ lạ hình như đã gieo vào tâm hồn Thái tử tính tự kiêu vô hạn, với một ý chí muốn ngồi ngang hàng cùng các thần linh”. Vào năm 335 TrsCN, khi Đại đế Alexander đi chinh phục châu Á thì Arixtôt tự thấy rằng nhiệm vụ của mình đã chấm dứt. Ông đề nghị để người cháu tên là Callisthenes thay mình làm cố vấn cho Đại đế. Alexander đã chấp 15 nhận lời đề nghị và còn dùng Callisthenes làm sử gia theo đoàn quân viễn chinh. Arixtôt là người hiểu rõ tính tình của nhà vua học trò cũ, ông đã từng nhắc nhở cháu ông phải thận trọng trong lời nói, nhưng Callisthenes đã không cản được tấm lòng bảo vệ đường lối chính trị thuần Hy Lạp trong khi Đại Đế Alexander lại tỏ ra nhượng bộ trước ảnh hưởng của châu Á. Chính vì sự bất cẩn này, Callisthenes đã bị kết án tử hình và theo lời Diogene Laerce, ông ta bị quăng cho thú dữ phân thây. Sau khi từ biệt Alexander, Arixtôt trở lại thành Athens. Tại nơi này, Xenocrates đang điều khiển Hàn lâm viện Academos. Arixtôt liền lập ra trường Lyceum (Học viện), gần đền Apollon Lycien, vì vậy ngày nay mới có danh từ “Lycée”. Trường Lyceum là nơi tôn thờ Thần Muse, vị nữ thần chủ về Văn chương, Nghệ thuật và Khoa học. Nhà trường có rất nhiều học cụ, kể cả bản đồ, lại có một thư viện rất đầy đủ. Tại ngôi trường này, Arixtôt trình bày các ý tưởng và giảng giải cho học viên trong các cuộc đi dạo ngoài vườn, vì vậy ngôi trường của Arixtôt còn được gọi là “Trường đi dạo” (Peripatos) Nền giáo dục do Arixtôt chủ trương gồm hai phần: phần truyền khẩu và phần công khai. Arixtôt đề cập tới các câu hỏi hoàn toàn lý thuyết cho các học viên mới vào buổi sáng còn buổi chiều, Arixtôt giảng dạy những học viên cũ về nhiều điều làm mở mang kiến thức trong đó môn Tu từ pháp chiếm phần lớn thời gian. Trong 12 năm liền, Arixtôt vừa thuyết giảng, vừa viết sách và phổ biến nhiều tác phẩm đề cập tới hầu hết kiến thức của thời đại. Trong các năm cuối cùng sống tại Lyceum, Arixtôt đã thiết lập bảng liệt kê các thế vận kỳ, cũng như lập ra bảng niên biểu kịch nghệ của thành Athens mà về sau, bảng này đã được dùng làm căn bản để ấn định ngày tháng của các vở kịch Hy Lạp. Arixtôt còn biên khảo về Hiến pháp tuy nhiên, ngày nay chỉ còn lại tác phẩm “Khảo sát về Hiến pháp của thành Athens”. Khi Alexander chinh phục
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan