Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
A. MỞ BÀI
Tiếp nhận dòng chảy văn hoá truyền thống của dân tộc
và thời đại, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to
lớn của nhân dân. Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn luôn
tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết,
trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh chỉ có
một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ra được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Víi tÊm lßng yªu n-íc nång nµn, Hå Chñ TÞch ®· sím
®Õn víi chñ nghÜa M¸c- LªNin ¸nh s¸ng soi ®-êng cøu d©n,
cøu n-íc… Ng-êi lµ linh hån, lµ ngän cê chãi läi, l·nh ®¹o
toµn §¶ng, toµn d©n, toµn qu©n ta ®oµn kÕt mét lßng, chiÕn
®Êu anh dòng, viÕt nªn nh÷ng trang sö vÎ vang nhÊt cña tæ
quèc ta. D©n téc ta, nh©n d©n ta, non s«ng ®Êt n-íc ®· sinh
ra Hå Chñ TÞch, ng-êi anh hïng d©n téc vÜ ®¹i vµ chÝnh
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Ng-êi ®· lµm r¹ng rì d©n téc ta, nh©n d©n ta vµ non s«ng ®Êt
n-íc ta…
Sinh thời, Bác Hồ đã từng nói: “Chúng ta có trọng dân,
yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Tôn trọng và
tin tưởng nhân dân là tôn trọng và tin tưởng những người
làm ra lịch sử, những người sáng tạo ra của cải, vật chất,
những người được sánh với Trời, Đất "Trong bầu trời không
có gì quý bằng nhân dân". Tư tưởng yêu nước, thương dân,
trọng dân, suốt đời vì cách mạng, vì nhân dân mà hy sinh
phấn đấu, không ham danh lợi, với một lối sống chân thực,
giản dị, khiêm nhường của Bác Hồ là tấm gương đạo đức vô
cùng trong sáng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chúng ta
học tập và noi theo.
Qua đó ta có thể thấy được phần nào tư tưởng "thân
dân" của Người. Trong thời đại Hồ Chí Minh, những giá trị
văn hóa chính trị yêu nước, thương dân, lấy dân là gốc được
soi sáng và phát triển rực rỡ, trở thành chân lý khoa học, kim
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chỉ nam cho hành động. Thân dân, luôn coi dân là gốc là đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Để thấy rõ được tư tưởng "thân dân" thấm nhuần trong
quá trình lãnh đạo Đảng và nhà nước ta từ xưa tới nay, em
xin được trình bày khái quát tư tưởng ''thân dân'' của Hồ
Chí Minh và các bậc tiền bối trong lịch sử.
B. NỘI DUNG
Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh so với các vị tiền
bối.
1. Tư tưởng thân dân thời Lý - Trần:
Thông qua Lịch sử chúng ta thấy. Bất kỳ một Nhà
nước nào muốn phát triển thịnh vượng đều phải lấy dân làm
gốc. Vì vậy, trong quá trình phát triển của một quốc gia nỗi
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
khổ được nói tới là khổ của dân mà sự giàu có cũng là của
dân.
Trong thời kỳ phóng kiến độc lập của nước ta. Mặc dù
đến triều Lý, đạo Phật vẫn là quốc giáo, song với việc sử
dụng dày đặc khái niệm dân, hoặc trăm họ (bách tính) trong
văn bản, sự có mặt của Nho giáo trong tư duy nhà cầm
quyền ở Việt Nam lúc đó, là điều không còn bàn cãi.
Trong Chiếu dời đô, như chúng ta thấy, dân có bóng
dáng một thứ chủ thể quốc gia, với nghĩa nhà cầm quyền
nghĩ về dân như những đối tượng mà mình phải lo lắng, phải
chịu trách nhiệm; đời sống của dân cũng là thước đo để nhà
cầm quyền soi vào mà xem xét đánh giá mình.
Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước
thắng lợi đều là những cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy
được sức mạnh tinh thần và vật chất tiềm tàng của toàn dân.
Kháng chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên thời Lý Trần là những minh chứng hùng hồn.
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Từ những hoàn cảnh, đặc điểm và thực tế của lịch sử
dân tộc, một số nhân vật tiến bộ trong giai cấp phong kiến
như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... đã nhận thức khá
sâu sắc vai trò quyết định của nhân dân trong chiến tranh
chống ngoại xâm cũng như trong các biến cố lớn của lịch sử.
Trần Hưng Đạo cho rằng "vua tôi đồng lòng, anh em hòa
thuận, cả nước chung sức" là nguyên nhân thắng lợi của
kháng chiến thời Trần. Theo ông, "chúng chí thành thành",
chí dân là bức thành giữ nước. Chính vì nhận thức về vai trò
đoàn kết toàn dân là rất quan trọng, Trần Quốc Tuấn đã đề
ra "thượng sách giữ nước" là "khoan thư sức dân làm kế rễ
bén gốc". Đó là điều kiện tiên quyết để chiến thắng kẻ thù.
Ông đã thấy vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối
với vĩ nhân trong lịch sử. Trần Quốc Tuấn nói: "Chim hồng
học bay được cao là nhờ ở sáu cái lông cánh, nếu không có
sáu cái lông cánh ấy thì cũng như chim thường thôi". Như
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
vậy, anh hùng xuất chúng làm nên nghiệp lớn là nhờ sự ủng
hộ của quần chúng nhân dân tộc.
Thấy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
trong việc giữ nước, cho nên ngay từ thời Lý việc chăm lo
đời sống nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân
đã được khẳng định là điều quan trọng hàng đầu trong đạo
trị nước. Trong bài văn “Lộ bố” khi đánh Tống của Lý
Thường Kiệt có viết: "Trời sinh ra dân chúng; vua hiền tất
hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân". Và một khi việc
bồi dưỡng sức dân, chăm lo đời sống nhân dân có một tầm
quan trọng như vậy trong đạo trị nước, thì cũng dễ dàng trở
thành một tiêu chuẩn chính trị để nhà vua dựa vào đó mà tự
răn mình. Năm 1207, vua Lý Cao Tông đã hạ chiếu rằng:
"Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu
trường, không biết cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời
tiểu nhân là gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì trẫm
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
còn biết dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới"
(theo Đại Việt sử ký toàn thư).
Với tinh thần khoan dung nói trên, nhà Lý đặt chuông
lớn ở Long Trì để dân "ai có điều oan ức không bày tỏ
được" thì đến đánh chuông tâu vua. Nhà Lý còn dựng cung
Long Đức ở ngoài Hoàng thành, trong khu vực phố phường
cho Hoàng thái tử ở, để có điều kiện "gần dân và xem xét
việc dân" . Hay trước họa xâm lăng của đế chế Mông Nguyên, nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng để cùng các vị bô
lão - những người đại biểu đầu bạc có uy tín của dân - bàn
kế đánh giặc. Trong ngày hội non sông đó, các bô lão đã nói
lên tiếng nói của toàn dân "muôn người như một" là "quyết
đánh". Điều đó cho thấy, thời Lý - Trần, sự quan tâm
đến dân được đề ra như một vấn đề khẩn thiết của đạo trị
nước, nhưng vấn đề đó lại được coi là một yếu tố của khái
niệm đức trị. Bởi thời đó quan niệm rằng, vua mà có đức và
biết sửa đức thì "án trạch thấm thía đến quần chúng" làm
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
cho "dân sinh sống dễ dàng" và "muôn họ âu ca" trong cảnh
thái bình thịnh trị.
Sự kiện có ý nghĩa nhất mà sử sách thường nhắc đến là
hội nghị Diên Hồng năm 1284 cùng với tiếng hô đồng thanh
“quyết đánh” của đại biểu các bô lão từ các làng xã trong
toàn quốc, biểu hiện tinh thần dân chủ, sự quan tâm của triều
đình đối với nhân dân và vai trò quan trọng của nhân dân
các địa phương mà đại diện là những người cao tuổi trong sự
nghiệp đánh giặc giữ nước của dân tộc. Thời Trần, trong
nông thôn bên cạnh hệ thống chính quyền địa phương gồm
các đại tư xã, tiểu tư xã, nhà nước vẫn duy trì và tôn trọng hệ
thống già làng có uy tín trong nhân dân. . Trong hoàn cảnh
đó, sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta là sức
tổng hợp của đất nước và cơ sở chủ yếu là sức mạnh của
lòng
yêu
nước
và
khối
đoàn
kết
toàn
dân.
Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi
đều là những cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy được sức
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
mạnh tinh thần và vật chất tiềm tàng của toàn dân. Kháng
chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên là những minh
chứng hùng hồn. Trái lại, những cuộc kháng chiến không
phát huy được sức mạnh chiến đấu của toàn dân thì dù cho
quân đội đông, vũ khí tốt, thành lũy kiên cố vẫn thất bại.
Thất bại của nhà Hồ là một ví dụ đau xót về trường hợp này.
Như vậy, trên vũ đài chính trị và tư tưởng thời Lý Trần, nhân dân đã được nhìn nhận như một lực lượng xã hội
cần phải quan tâm đến khi tiến hành những cuộc chiến tranh
giữ nước và duy trì trật tự xã hội nhằm đem lại sự thịnh
vượng cho nước nhà. Nhân dân thời bấy giờ trước hết phải
được đề cập đến với tư cách là một hiện tượng cần thiết cho
những nhu cầu chính trị của chế độ phong kiến. Tư tưởng an
dân đã trở thành một đạo lý vào thời Lý – Trần góp phần
tích cực vào việc làm cho thời đại Lý – Trần hưng thịnh.
2. Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là
một trí thức lớn, một trong những lãnh tụ kiệt xuất của
phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Khi nhắc đến Ông, người ta
thường nói đến tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng đó được thể
hiện trên nhiều tác phẩm chủ yếu và tiêu biểu của ông, như:
Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập,
Quốc âm thi tập, Dư địa chí.
Theo đó, tư tưởng nhân nghĩa trong quan điểm của
Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân và
an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân nhân
nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần
vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”.
Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, là đánh
giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là mục
đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là phương
tiện của nhân nghĩa.
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết
biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu
cao, một hoài bão lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt
tới. Tư tưởng an dân, Nguyễn Trãi đưa ra một chân lý, đó là:
phải giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố kết
lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Ông chủ
trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được
nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến
lược bất khả biến, có tính trường tồn, một quy luật dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Và một khía cạnh
rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là
tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. “Dân chúng” vẫn luôn được
ông nhắc tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã
thành công, đất nước đã giành được độc lập và bước vào xây
dựng cuộc sống mới. Nguyễn Trãi nhận thức được rằng lực
lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân;
rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nước mắt của nhân dân mà có: “thường nghĩ quy mô lớn lao,
lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân”. Chính xuất phát
từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong triều đình,
được hưởng lộc của vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến
nhân dân, những người dãi nắng dầm mưa, những người lao
động cực nhọc. Ông viết: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Trong
suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống gần
gũi, gắn bó với nhân dân, hoà mình vào nhân dân. Do đó,
ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân
dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ
được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử.
Sau Nguyễn Trãi, vị vua Lê Thánh Tông cũng là một
mẫu mực trong việc trị quốc. Một vị vua nhân từ, gắn bó với
dân chúng. Ông giải quyết mối quan hệ giữa phép vua và lệ
làng (pháp luật và phong tục tập quán) một cách rất hợp lý,
ban bố luật Hồng Đức, xây dựng phát triển kinh tế - chính
trị, tư tưởng về “đạo người” trong xã hội…. Cùng với chính
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
sách cai trị đúng đắn, Xã hội Việt Nam dưới thời trị vì của
Ông là một xã hội phát triển cực kỳ hưng thịnh.
3. Tư tưởng thân dân của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc
và thời đại, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to
lớn của nhân dân. Người đã biết kế thừa tinh hoa của thế hệ
đi trước và cũng biết vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng “
thân dân” vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta. Từ những tư
tưởng thân dân Trong Nho giáo chính là tư tưởng "lấy dân
làm gốc"(dĩ dân vi bản) hay đến tư tưởng vì dân và an dân
của Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh đã không chỉ dừng lại ở tư
tưởng thương dân hay chỉ đơn thuần là làm dịu đi mâu thuẫn
giữa giai cấp thống trị và tầng lớp bị trị giống như trong Nho
giáo. Mà bên cạnh đó Người còn luôn luôn tôn trọng, tin
tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết.
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Chính vì vậy, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Về thực chất,
đây cũng chính là tư tưởng thân dân. Người cán bộ giữ được
cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là người có ý thức
phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc,
của Đảng lên trên hết, là thân dân.
Vậy thì vì sao ta phải “Thân dân”? Hồ Chí Minh giải
thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu
xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân
thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân
đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước.
Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú
nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là
do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là
người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước,
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu
như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương,
đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có
dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với
Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của
dân là gốc là phải tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào
dân; Phải có ý thức rõ “dân chúng rất khôn khéo, rất hăng
hái, rất anh hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn biến
đường lối chủ trương của Đảng thành phong trào quần
chúng, thành sức mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường
lối đúng đắn; cán bộ đảng viên “phải liên lạc mật thiết với
dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định
thất bại”. Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, “nếu
không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”, mà “muốn
hiểu biết, học hỏi dân thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết
tâm”.
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Cũng theo Người, phải thực hiện dân chủ với dân để
phát huy tinh thần làm chủ của dân là cốt lõi của vấn đề dân
là gốc. Người thường nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
là nhân dân làm chủ”. Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người
làm chủ phải thế nào? Câu trả lời của Người là: “Nếu Chính
phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là
chửi”. Và người yêu cầu: người làm chủ trước hết phải làm
tròn bổn phận công dân, tức là phải tuân theo pháp luật Nhà
nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung; nộp
thuế đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc.
“Phải chăm lo việc nước như việc nhà”, “phải biết tự mình
lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”; “làm chủ
sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao
nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm”.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, những giá trị văn hóa
chính trị yêu nước, thương dân, lấy dân là gốc được soi sáng
và phát triển rực rỡ, trở thành chân lý khoa học, kim chỉ nam
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
cho hành động. Thân dân, luôn coi dân là gốc là đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên
phải tự đặt mình vào địa vị của người dân mà mình đại diện
để hiểu, suy xét, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề
xuất , mong muốn của họ. Có lắng nghe, thấu hiểu nguyện
vọng chính đáng của dân thì đại biểu dân cử mới thực hiện
tốt việc “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì
hại đến cho dân ta phải hết sức tránh”. Bởi, ta có yêu dân,
kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.
Thân dân biểu hiện ở việc cán bộ, đảng viên thực hiện
nghĩa vụ và quyền lợi do pháp luật quy định. Tức là, phải
trung thành với mục tiêu lý tưởng, với chính sách, pháp luật
của Nhà nước, phải hướng đến một nền hành chính, một tổ
chức, một bộ máy phục vụ nhân dân; luôn gương mẫu hoàn
thành kế hoạch được giao và nếu có chức vụ phải biết sử
dụng quyền lực để giao việc, kiểm tra, theo dõi, đánh giá,
phê bình, khen thưởng một cách công minh chính trực; phải
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
lắng nghe và dựa vào quần chúng nơi cơ quan để xây dựng
quy chế làm việc, quy chế dân chủ cơ sở, quy chế chi tiêu tài
chính, các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
chống tham nhũng, làm cho cơ quan đoàn kết nhất trí; không
xu nịnh, không ưa nịnh, không chia bè chia cánh, cục bộ,
bản vị; phải luôn đề cao trách nhiệm vì dân để giải quyết
nhanh chóng, kịp thời những chế độ, chính sách liên quan
đến người dân; phải thận trọng trong việc xem xét, quyết
định các vấn đề hệ trọng có ảnh hưởng đến quyền bình đẳng,
quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Khi nhân dân có ý
kiến, khiếu nại, tố cáo, kể cả tố cáo cá nhân mình, thì phải
biết bình tĩnh lắng nghe, phân tích và có thái độ kiên quyết
sửa chữa khuyết điểm, nếu quyết định của mình chưa đúng.
Không né tránh, đùn đẩy, gây phiền hà và khó khăn, tốn
kém cho dân…
Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói
được cho dân nghe, làm được cho dân tin, là nhận biết được
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
những nhu cầu của họ, biết được họ đang suy nghĩ gì, trăn
trở cái gì? Họ mong muốn những gì? Và họ đang mong đợi
gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết
phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết
thực của dân; là nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra được
viễn cảnh (tương lai) đúng đắn cho dân phát triển; là biết
chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi
suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích
của dân, phản ánh đúng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
dân.
Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ,
tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì... Chúng ta phải hiểu rằng,
các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng,
đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho
dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính
ta”.
Người yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều
phải là đày tớ trung thành của nhân dân. Theo Người: “Dân
làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Ủy viên này
khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ
không phải là làm quan cách mạng”.
Từ thực tế, Bác đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ,
kể cả cán bộ cấp cao, khi xuống cấp dưới triển khai công
việc thì khệnh khạng như “ông quan” và nội dung truyền
đạt thì rất đại khái, hình thức, vì vậy mà quần chúng không
hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh quan liêu, xa rời quần
chúng, bệnh hình thức, không phải vì lợi ích của quần
chúng. Người viết: “Bệnh quan liêu mệnh lệnh từ đâu mà
ra? Nguyên nhân bệnh ấy là:
20