TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
----------***----------
NGUYỄN THỊ THUÝ HÀ
ÁM ẢNH VỀ NỖI CÔ ĐƠN TRONG
TIỂU THUYẾT MỘT MÌNH MỘT NGỰA
CỦA MA VĂN KHÁNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH
HÀ NỘI - 2010
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo,
TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh - người đã luôn quan tâm, động viên và tận tình
hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khoá luận này.
Tôi chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Ngữ văn, đặc biệt
là các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khoá luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2010
Tác giả khoá luận
Nguyễn Thị Thuý Hà
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô
giáo – TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Tôi xin cam đoan:
Đây là kết quả nghiên cứu tìm tòi của riêng tôi.
Đề tài không trùng với kết quả của bất cứ tác giả nào khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2010
Tác giả khoá luận
Nguyễn Thị Thuý Hà
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong đời sống của người Việt Nam, văn học có một vài trò rất
quan trọng. Dĩ nhiên ở đâu văn chương sinh ra cũng là để cho con người và
không dân tộc nào lại tồn tại mà không cần đến văn chương. Nhưng hình như
ở Việt Nam ý nghĩa của văn chương có cái gì hơi đặc biệt. Triều đình chọn
người hiền tài làm quan không phải qua các cuộc thi võ mà qua các cuộc thi
văn. Tài năng văn chương được đồng nhất với kinh bang tế thế, người bình
dân rất yêu chuộng văn thơ, không chỉ văn thơ dân gian mà cả những tác
phẩm của văn chương bác học. Văn chương đối với người Việt Nam ít mang
tính chất là một phương tiện, một hoạt động mưu cầu cái đẹp thuần tuý hình
thức. Sự quan tâm đến cái đẹp hình thức ít khi nào chiếm ưu thế trong tư
tưởng thẩm mĩ của người Việt Nam. Văn chương đối với người Việt Nam là
một hình thức sản phẩm, một cách ứng xử với thế giới và với cuộc đời. Tiểu
thuyết là một trong những bộ phận hợp thành văn học Việt Nam, nó có khả
năng bao quát một mảng hiện thực rộng lớn tạo nên một bức tranh toàn cảnh
của một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử. Nó có sức công phá những nguồn
mạch biện chứng của tâm hồn, soi sáng được cái thiện và cái ác, cao cả và
thấp hèn [12,20]. Rất nhiều nhà văn đến với tiểu thuyết để trải lòng mình, để
phản ánh mọi hiện thực khách quan, để được kể lại những gì mình nhìn thấy
xung quanh và để thể hiện tấm lòng của mình.Ở mỗi tác phẩm văn học chứa
đựng biết bao điều, đó có thể là niềm vui, nỗi buồn, sự chia sẻ hay là nỗi cô
đơn. Nỗi cô đơn ám ảnh trong nhiều tác phẩm, nó vây quanh nhân vật, nó bao
trùm lên toàn bộ tác phẩm là không gian, thời gian, là ngôn ngữ, giọng điệu.
Đó là những tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh); Thời xa vắng
(Lê Lựu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Một mình một ngựa (Ma Văn
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Kháng)… Chủ đề cô đơn luôn thường trực trong mỗi tác phẩm đương đại hiện
nay mà tiêu biểu là nhà văn lão thành Ma Văn Kháng.
1.2. “Sống đã rồi mới viết. Viết là hệ quả tất yếu của sự trải nghiệm”.
Đó là phương châm sống của Ma Văn Kháng. Tiếp tục mạch đề tài Tây Bắc,
mới đây Ma Văn Kháng đã cho ra mắt bạn đọc tiểu thuyết Một mình một
ngựa. Bên cạnh những vấn đề tâm huyết được đặt ra như phẩm chất con
người cách mạng, bản lĩnh và ý chí con người trước những thử thách hiểm
nghèo, vấn đề tổ chức và quản lý trong thực tiễn vùng cao cũng được xới lên
một cách quyết liệt và thấu hiểu. Đặc biệt, tác phẩm như một cuốn tự truyện
của ông và trong đó ám ảnh nỗi cô đơn như chính ông đã từng chứng kiến và
nếm trải về nó. Đó là nỗi cô đơn trong con người cách mạng oai hùng hiên
ngang của một người ở đỉnh cao của sự nghiệp vẫn luôn mang trong mình
mặc cảm cô đơn. Cô đơn trong cuộc sống, trong bảo vệ chân lý, trong quan hệ
gia đình… Đó vừa là sự oai vũ, vừa là thân phận của tất cả các cá thể có ý
thức về giá trị của mình.
1.3. Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Ám ảnh về nỗi cô
đơn trong tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Kết quả nghiên
cứu giúp người viết có cái nhìn toàn diện hơn về tiểu thuyết mang khuynh
hướng tự truyện, về chủ đề cô đơn trong văn học đương đại. Qua đó, tìm hiểu
tư tưởng cũng như thành công nghệ thuật của tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học là tấm gương phản ánh đời sống, qua văn học ta nhận ra các
mảng hiện thực, có cả ánh sáng xen bóng tối, lòng vị tha, sự ích kỷ, niềm vui
và nỗi buồn. Nhà văn Thạch Lam đã từng viết: “Đối với tôi, văn chương
không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên. Trái lại,
văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc
thêm trong sạch và phong phú hơn”. Và nhà văn Ma Văn Kháng đã đem đến
văn chương sự hiểu biết, trải nghiệm về cuộc sống của mình: “Thật tình tôi đã
định không viết tiểu thuyết. Nhưng trong những ngày nghỉ ngơi, ngẫm lại đời
mình, tôi bỗng nhận ra còn một đoạn đời có chút ít ý nghĩa của mình bị chính
mình lãng quên. Ấy là mấy năm trời tôi sang làm thư ký cho bí thư tỉnh uỷ. Ở
đó tôi được sống và công tác với hai lớp người: người cán bộ lãnh đạo trong
ban Thường vụ tỉnh uỷ và các cán bộ trợ lý giúp việc. Và thế là tôi quyết định
phải kể nốt những chuyện mình đã biết ở đoạn đời này” (Ma Văn Kháng –
Một mình một ngựa. Trả lời phỏng vấn của phóng viên, đăng trên trang Web:
Vietinfo, 04/2009). Điều đó khiến tiểu thuyết Một mình một ngựa đã được Ma
Văn Kháng cho ra mắt trước công chúng. Tác phẩm được trao giải nhất của
Hội nhà văn Việt Nam năm 2009. Những trang văn thấm đẫm cảnh sắc núi
rừng Tây Bắc, những rung động của tình yêu, tình bạn, tình đồng bào làm cho
tác phẩm trở nên dễ đọc và dễ chia sẻ. Tác phẩm không phải là sự đột phá,
cũng không mới mẻ so với chính nhà văn Ma Văn Kháng. Nhưng điều được
ghi nhận ở đây là sự vững vàng về tay nghề tiểu thuyết, cả trong kỹ thuật và
nghệ thuật, và những vấn đề được đặt ra một cách thẳng thắn, không né tránh.
Tác phẩm thể hiện sức bền của cây bút Ma Văn Kháng. Một mình một ngựa là
tiểu thuyết mới được xuất bản nên có rất ít bài nghiên cứu phê bình về nó.
Bài viết Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
(Tạp chí Khoa học trường ĐHSP Hà Nội 2 số 7/2009) cho rằng: Một mình
một ngựa mang tính tự truyện rõ nét, trong nội dung văn bản, kỹ thuật kể
chuyện để thấy sự thâm nhập của thể loại tự truyện trong tác phẩm. Ma Văn
Kháng đã kể lại những kỷ niệm với vùng đất Lào Cai và những con người nơi
đây từ năm 1955 với vai trò là một giáo viên, đến năm 1965 làm thư ký cho bí
thư tỉnh uỷ Trường Minh. Điều đó làm cho người đọc dễ liên tưởng tác giả
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
với nhân vật Toàn trong tiểu thuyết. “Đi từ các cá thể đến tính phổ quát, với ý
thức tạo thế giới hình ảnh, Ma Văn Kháng đã đem lại cho câu chuyện kể về
đời mình những màu sắc của tiểu thuyết trong sự kết hợp hài hoà với tự
truyện” và ông đã góp thêm một tiếng nói trong dòng văn học hướng nội hôm
nay.
Ngoài ra, còn một số bài phê bình, giới thiệu về tiểu thuyết Một mình
một ngựa của Hội nhà văn, những bài giới thiệu tác phẩm mới đăng trên các
trang Web điện tử...
Nhìn chung, đây là một tiểu thuyết còn “mới tinh”, “vừa chào đời” (vừa
được Hội nhà văn trao giải nhất về văn xuôi - 9/2009), nêu hầu như chưa có
bài nghiên cứu về nó. Rải rác trên báo, nó chỉ được giới phê bình giới thiệu ở
mục sách mới mà thôi.
3. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hoá cảm thức cô đơn trong tiểu thuyết Một mình một ngựa
của Ma Văn Kháng. Qua đó, thấy được xu hướng tự truyện “hướng nội” trong
tiểu thuyết đương đại - thời đại cái tôi cá nhân được phát huy tận độ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xuất phát từ việc nắm vững những kiến thức về tiểu thuyết văn học
nói chung và chủ đề cô đơn trong tiểu thuyết nói riêng, khoá luận có nhiệm vụ
chỉ ra cảm thức cô đơn trong tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn
Kháng.
- Khoá luận đi sâu phát hiện những sáng tạo độc đáo của nhà văn và
hiệu quả nghệ thuật của những sáng tạo đó trong khi thể hiện nội dung tác
phẩm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác phẩm Một mình một ngựa của
Ma Văn Kháng.
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
- Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu một số bình diện cơ bản nhằm làm sáng tỏ
những nét đặc sắc nghệ thuật của tiểu thuyết Một mình một ngựa. Cụ thể là
“Ám ảnh về nỗi cô đơn trong tiểu thuyết Một mình một ngựa”, được thể hiện
qua nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu của tác phẩm.
6. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận tập trung sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học
7. Đóng góp của khoỏ luận
Khoá luận là công trình khoa học đầu tiên tìm hiểu một cách hệ thống
về nỗi cô đơn trong tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, qua
hai phương diện chính: nhân vật và ngôn ngữ, giọng điệu. Thông qua tiểu
thuyết này, người viết thấy được những cách tân trong tiểu thuyết đương đại
Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là tài liệu hữu ích đối với việc học tập và
giảng dạy môn Ngữ văn sau này.
8. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
khoá luận được chia thành ba chương:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Một mình một ngựa - chân dung con người kiêu hùng và đầy
mặc cảm cô đơn
Chương 3: Cảm thức cô đơn chi phối các phương thức nghệ thuật trong
tiểu thuyết Một mình một ngựa.
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
CHƯƠNG 1
GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Cảm thức cô đơn trong văn học Việt Nam đương đại
Như một dòng sông không thể cắt lìa với nguồn mạch, văn học đương
đại Việt Nam tiếp tục những giá trị nhân văn, nhân đạo truyền thống mà nó
từng theo đuổi, nhưng cũng có những biến đổi và phát triển. Đổi mới văn học,
trong nhiều thành công của nó, có một thành công quan trọng cần ghi nhận:
những giá trị nhân văn - nhân đạo cơ bản mà văn học quá khứ, đặc biệt là văn
học trước Cách mạng đã xây dựng được không còn bị cắt lìa với những gì của
hôm nay và đang hồi sinh trong văn học đương đại. Nhu cầu “đào bới” tìm
hiểu và tiếp nhận một cách khao khát những giá trị văn chương trước 1945
minh chứng rõ điều này. Đồng thời, sự mở rộng giao lưu và tiếp nhận với một
thái độ cởi mở, không định kiến với những giá trị văn chương nhân loại cũng
tạo nên những thúc đẩy mới cho văn chương nước nhà. Nhà văn Nguyên
Ngọc đã nhận xét: “Người ta chờ nhà văn qua những vận động xã hội phức
tạp đó, đưa đến cho người ta những tổng kết nhân văn sâu sắc và lâu dài”
[8,12 ]. Sự xuất hiện cảm hứng sự thật là một tất yếu mà văn học phải vượt
qua để tìm đến những chiều sâu mới. Chính trong việc phơi bày hiện thực và
tiếp theo đó là sự phân tích và suy ngẫm về hiện thực mà văn chương ngày
càng thấy lồ lộ chân dung con người: số phận của nó trong lịch sử, trách
nhiệm và sự vật lộn của mỗi người trong sự tồn tại của chính nó trước những
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
thử thách của một đời sống đầy biến động. Cảm hứng mới về con người từng
bước rõ nét dần trong văn học, thay thế cho cảm hứng về sự phơi bày hiện
thực. Hiện thực là cái nền cho diễn biến những cuộc đời, những số phận,
những trạng thái tinh thần. Cũng chính là những thao tác tư duy nghệ thuật
mới này mà văn học đạt được giá trị kép: một mặt thông qua việc đi sâu vào
cuộc đời và thân phận mỗi cá thể mà làm rõ chân dung của lịch sử, soi chiếu
trở lại nhưng vấn đề của lịch sử đồng thời đem lại những thăm dò mới, mở ra
những nhận thức mới về con người. Theo đó, cảm thức cô đơn đang chiếm
dần trong văn học đương đại.
Cô đơn là một trạng thái tinh thần tiêu cực của con người. Nó xuất hiện
và biểu lộ khi con người không tìm thấy sự đồng cảm, chia sẻ từ phía đồng
loại, không tìm thấy tiếng nói chung trong cộng đồng, khi con người cảm thấy
lạc thời và lạc loài.
Cô đơn không phải chủ đề xa lạ trong văn học. Nhiều tác phẩm đã trở
thành kiệt tác văn chương thế giới nhờ khai thác chủ đề này. Ngay bản thân
công việc lao động sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn cũng là một hành
trình đầy đơn độc để kiếm tìm những chân lý đời sống và giải mã những bí ẩn
trong nội tâm sâu thẳm của con người. Bởi “những nghệ sỹ trác tuyệt là
những con người cô đơn khủng khiếp”. Cảm nhận sâu sắc điều đó, G.macket tác giả của cuốn tiểu thuyết được giải Nobel văn chương Trăm năm cô đơn
từng tuyên bố “Cuốn sách mà ông dành cả đời người để sáng tạo là cuốn
sách viết về cái cô đơn”. Sorenkienkegaard - Triết gia của chủ nghĩa hiện sinh
sống ở thế kỷ XIX cũng cho rằng: “Mỗi con người là một hiện sinh độc đáo
[…] mỗi con người là một vũ trụ đóng kín không ai hiểu nổi và cũng không
thể tự thông báo cái nội tâm phức tạp của mình cho bất cứ một ai”. Như thế
có nghĩa theo Kierkegaard, cô đơn là bản chất của con người, là trạng thái tồn
tại tất yếu của một hữu thể con người.
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, con người chủ yếu là
con người xã hội, thuộc về cộng đồng, tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa
tồn tại trong những hành động, việc làm vì tập thể, vì cộng đồng. Đó là những
con người được xã hội nâng đỡ, ủng hộ, không bao giờ cảm thấy cô đơn trên
hành trình đến với lý tưởng và thực thi nghĩa vụ. Cái tôi cá nhân hoà tan vào
cái ta cộng đồng, hành trình đi từ cái tôi cá nhân đến cái ta chung rộng lớn là
cuộc hành trình đi “từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui” (Chế Lan
Viên). Trong hoàn cảnh bất thường của lịch sử, con người cá nhân không có
điều kiện để nhìn ngắm, quan sát tâm hồn mình, do đó trong tâm lý con người
dường như không xuất hiện trạng thái cô đơn. Con người chỉ thực sự cảm
thấy cô đơn thấm thía khi bị tách ra khỏi cộng đồng, khỏi tập thể, khỏi sự
nghiệp đấu tranh chung.
Trong văn học sau 1975, cô đơn trở thành “điểm xoáy” thu hút sự chú ý
của các cây bút văn xuôi Việt Nam đương đại. Có thể kể đến Tướng về hưu,
Thương nhớ đồng quê, Chút thoáng Xuân Hương, Trương Chi… của Nguyễn
Huy Thiệp, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh;
Thời xa vắng của Lê Lựu; Người sót lại của rừng cười của Võ Thị Hảo…; và
gần đây nhất là tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Các tác
phẩm đều thể hiện cô đơn như một trạng thái tâm lý thường trực của con
người, ngay cả khi sống giữa đồng loại con người vẫn cảm thấy cô đơn. Xã
hội như một “sa mạc” đầy người, đông đúc mà vẫn hoang vắng trống trải, rời
rạc không liên kết. Nỗi cô đơn không chỉ ở một con người mà nó là cả một thế
hệ cán bộ cách mạng khi đương đầu với khó khăn, với cuộc kháng chiến và
nó len lỏi ở mọi khía cạnh cuộc sống. Đó là khi bảo vệ chân lý, trong xây
dựng cuộc sống mới, trong cuộc sống hiện tại và trong cả quan hệ gia đình...
Các nhà văn đi sâu vào khía cạnh tâm hồn con người với cuộc đời thực của họ
hơn là những hư cấu lãng mạn, những ảo vọng của một thời oanh liệt. Nỗi cô
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
đơn ám ảnh trong nhiều tác phẩm văn học nhưng trong tiểu thuyết Một mình
một ngựa của Ma Văn Kháng, nỗi cô đơn càng được bộc lộ một cách sâu sắc,
từ chân dung con người đến thiên nhiên cảnh vật, tất cả đều mang một nỗi cô
đơn. Chủ đề cô đơn là điểm giao ứng trong cách cảm nhận về con người của
các nhà văn đương đại. Thể hiện con người cô đơn chính là một biểu hiện của
chủ nghĩa nhân đạo trong văn học, giúp con người hiểu về bản thân mình và
đồng loại của mình một cách sâu sắc hơn, thấu triệt hơn.
Văn học Việt Nam đương đại đang hoà nhập và hội nhập cùng ý thức
nhà văn toàn cầu trên nhiều chủ đề chung và chính trên những vấn đề này, nó
đóng góp màu sắc riêng qua những kinh nghiệm lịch sử - văn hoá của chính
mình. Việc khám phá con người cá nhân và những quan hệ nhiều chiều đi đối
với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc trong văn học đương đại cùng
những sáng tạo mới mẻ về hình thức là hướng đi tích cực - dù chưa phải đã có
nhiều thành tựu của nền văn học Việt Nam, trước hết là vì mình, của mình
nhưng cũng là sự đóng góp, hoà đồng vào những giá trị nhân văn của nhân
loại.
1.2. Về tác giả Ma Văn Kháng
1.2.1. Tiểu sử
Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, người Kinh, sinh ngày
01/12/1936. Quê gốc ở phường Kim Liên - quận Đống Đa - Hà Nội, nay là
quận Ba Đình - Hà Nội. Ông là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, Hội viên
Hội nhà văn Việt Nam (từ năm 1974).
Từ tuổi thiếu niên Ma Văn Kháng đã tham gia quân đội và được đi học
ở khu học xá Trung Quốc. Năm 1960, vào học tại trường ĐHSP Hà Nội, tốt
nghiệp, ông xung phong lên dạy học ở Lào Cai, từng là hiệu trưởng trường
trung học. Về sau được tỉnh uỷ điều về làm thư ký cho đồng chí Bí thư tỉnh uỷ
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Trường Minh, rồi làm phóng viên, phó tổng biên tập báo của Đảng bộ Tỉnh.
Bí danh Ma Văn Kháng được dùng làm bút danh để nói lên sự gắn bó sâu sắc
và tình yêu của tác giả đối với miền đất mà ông từng hoạt động hơn 20 năm,
nơi quê hương thứ hai của mình. Sau khi đất nước thống nhất, từ năm 1976
đến nay ông về công tác tại Hà Nội, từng làm Tổng biên tập, Phó Giám đốc
Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3/1995 là Uỷ viên ban chấp hành, uỷ viên
Đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam khoá V, Tổng biên tập Tạp chí Văn học
nước ngoài.
Đinh Trọng Đoàn khi mới ngoài hai mươi tuổi với lý tưởng của thời đại
giục giã, cộng với lòng say mê văn học đã hăm hở đi vào vùng đất hoàn toàn
mới lạ - Tỉnh Lào Cai. Phải có ý chí mạnh mẽ, con người mới tự nguyện rời
khỏi tổ ấm quen thuộc, có ánh đèn điện, có nước máy để đến sinh sống ở nơi
heo hút, hoang vắng. Ông cùng với nhóm bạn đầy nhiệt huyết đã dâng hiến
tuổi thanh xuân của mình hoà vào với lứa thanh niên vùng cao Lào Cai làm
bất cứ việc gì. Đó là một Pave Coocxaghin đích thực. Tất cả những việc làm ở
mảnh đất hoang vu ấy đã để lại trong ông bao kỉ niệm về quãng đời tuổi trẻ
của mình, đó cũng là kinh nghiệm để ông cho ra đời bao tác phẩm hay và độc
đáo. Ông đã quan sát cuộc sống rất kỹ, từ dưới lên, từ trên xuống, từ ngoài
vào, từ trong ra. Công việc không mệt mỏi. Đi không mệt mỏi. Sau mỗi
chuyến đi đầu óc ông lại chi chút chắt lọc từng mẩu nhỏ của cuộc đời. Ông
sống chan hoà với học sinh, bà con dân bản để tái hiện những thời điểm lịch
sử chao chát búa rìu, dựng những nhân vật độc đáo, giàu cá tính.
Cuộc đời Ma Văn Kháng gắn liền với bà con dân bản, với miền đất Lào
Cai. Ông từng giữ nhiều chức vụ, cống hiến toàn bộ sức lực của mình cho sự
nghiệp chung của đất nước, không từ chối bất cứ việc gì. Có thể nói, nhà văn
Ma Văn Kháng đã gồng mình toàn thân vắt trong cái gian khó ra những dòng
văn cho những trang tiểu thuyết của ông.
1.2.2. Sự nghiệp văn học
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Sáng tác của Ma Văn Kháng tập trung vào hai đề tài chính là cuộc sống
của đồng bào miền núi cao phía Bắc Tổ quốc và đời sống thành thị đầy phức
tạp trong cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước sau chiến thắng năm
1975. Các tác phẩm chính của ông bao gồm:
Đồng bạc trắng hoa xoè (Tiểu thuyết - 1979)
Vùng biên ải (Tiểu thuyết - 1983)
Trăng non (Tiểu thuyết - 1984)
Mưa mùa hạ (Tiểu thuyết - 1982)
Mùa lá rụng trong vườn (Tiểu thuyết - 1985)
Võ sĩ lên đài (Tiểu thuyết - 1986)
Côi cút giữa cảnh đời (Tiểu thuyết - 1989)
Chó Bi - đời lưu lạc (Tiểu thuyết - 1992)
Ngày đẹp trời (Truyện ngắn - 1986)
Đám cưới không có giấy giá thú (Tiểu thuyết-1989)
Trái chín mùa thu (Truyện ngắn - 1988)
Heo may gió lộng (Truyện ngắn - 1992)
Trăng soi sân nhỏ (Truyện ngắn - 1994)
Ngoại thành (Truyện ngắn - 1996)
Truyện ngắn Ma Văn Kháng, Tuyển tập 1996
Một chiều gió lộng (Tiểu thuyết - 1998)
Ngược dòng nước lũ (Tiểu thuyết - 1999)
Một mình một ngựa (Tiểu thuyết - 2009)
Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (Hồi ký - 2009)
Ông được trao nhiều giải thưởng, trong đó có giải thưởng của Hội nhà
văn Việt Nam (1985); Giải thưởng văn học Đông Nam á - Asean (1998);
Tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội nhà văn Việt Nam (1995); Giải
thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (2001). Năm 2009, Ma Văn Kháng
cho xuất bản tiểu thuyết Một mình một ngựa và được Hội nhà văn Việt Nam
trao giải nhất.
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Ma Văn Kháng - nhà văn lão làng của làng văn học Việt Nam, đã cống
hiến cho nền văn học một khối lượng tác phẩm khá lớn, góp phần quan trọng
vào dòng chảy văn chương của nước nhà cả về nội dung và nghệ thuật, làm
cho văn học trở nên phong phú và đa dạng hơn cả hôm qua và hôm nay, quá
khứ và hiện tại.
1.3. Vị trí tiểu thuyết Một mình một ngựa trong đời sống văn học đương
đại Việt Nam
Nhà văn Ma Văn Kháng từng làm thầy giáo nhiều năm ở Lào Cai, sau
lại có thời gian ngắn ông được điều sang làm thư ký cho Bí thư tỉnh uỷ Lào
Cai. Hai chi tiết thuộc về tiểu sử tác giả này đã được ông gắn vào tiểu sử nhân
vật Toàn, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết Một mình một ngựa của ông.
Nó là ánh hào quang của quá khứ và hiện tại. Quá khứ ấy là những năm tháng
kháng chiến chống Mỹ, thu hẹp lại trong không gian của một tỉnh miền núi
phía Bắc. Hẹp nữa, nó là văn phòng tỉnh uỷ với ông bí thư, các ông thường
vụ, các ông trợ lý của thường vụ, rồi nhân viên văn phòng… Không nhiều
nhưng cũng đủ để thấy được sự đa dạng và tính phức tạp của một tiểu xã hội.
Tất cả hiện lên qua cái nhìn khám phá của Toàn - một thầy giáo dạy văn được
điều về văn phòng làm thư ký cho bí thư tỉnh uỷ Quyết Định. Hình như ở đây
ai nấy đề bị đặt nhầm chỗ. Họ phải làm những công việc không phù hợp khả
năng của mình. Họ phải sắm những vai không vừa với phẩm chất vốn có. Ví
như năm ông trong ban thường vụ tỉnh uỷ. Những con người giữ cương vị ấy
không phải bằng tài năng mà nhờ những ngoắt ngoéo ngẫu nhiên của phong
trào. Hàng loạt chuyện bi hài, dở khóc, dở cười đã xảy ra từ những con người
bị đặt nhầm chỗ này. Đó là những chuyện mà nếu không phải là người trong
cuộc, tác giả sẽ không biết và không thể kể lại một cách hoạt kê, lý thú đến
thế. Bị đặt nhầm chỗ còn là những người mà Toàn yêu mến thật lòng: Ông trợ
lý Đồng - một hảo hán và nhất là ông Bí thư tỉnh uỷ Quyết Định. “Một mình
một ngựa xông lên” là câu để nói về một hành động anh hùng của ông Quyết
Định. Hai mươi tuổi ông thay mặt Tổng bộ Việt Minh, “một mình một ngựa”
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
từ Yên Bái vượt sông Chảy vào hang ổ của các thổ ty, chúa đất vùng núi
Hoàng Liên thuyết phục họ theo cách mạng. Ông Quyết Định có quá khứ đủ
sức thuyết phục quần chúng, ông có nhiệt tình cách mạng, có tinh thần cống
hiến bất tư lợi nhưng như thế chưa đủ đối với một người phải chịu trách
nhiệm về cuộc sống của toàn bộ người dân một tỉnh. Đằng sau việc nhắc lại
nhiều lần cụm từ “một mình một ngựa” chừng như là một tiếng thở dài nuối
tiếc và bất lực của quá khứ chiến đấu trước hiện tại sản xuất. Một mình một
ngựa có cái nét ngậm ngùi rất khó lẫn. Cái ngậm ngùi của người đã kinh qua
sóng gió cuộc đời, cái ngậm ngùi của người biết quá rõ sự bất toàn của quá
khứ và cũng là người hiểu thấu rằng đó chính là một phần không thể tách rời
ký ức của mình. Một mình một ngựa - ánh hào quang của quá khứ hắt trên con
đường hiện tại. Tác phẩm “không phải là sự đột phá, cũng không mới mẻ so
với chính nhà văn Ma Văn Kháng nhưng điều được ghi nhận ở đây là sự vững
vàng về tay nghề tiểu thuyết cả trong kỹ thuật và nghệ thuật, và những vấn đề
được đặt ra một cách thẳng thắn, không né tránh” (Hội nhà văn Hà Nội).
Cùng với chất tự truyện, tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn
Kháng đã bộc lộ được cái tôi, ý thức nhận thức lại thực tại của dòng văn học
tự vấn và góp thêm một tiếng nói cho dòng văn học đương đại nước nhà.
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
Trêng §HSP Hµ Néi 2
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
CHƯƠNG 2
MỘT MÌNH MỘT NGỰA CHÂN DUNG CON NGƯỜI KIÊU HÙNG
VÀ ĐẦY MẶC CẢM CÔ ĐƠN
2.1. Chủ đề “một mình một ngựa”
Tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng viết về lớp cán bộ
lãnh đạo nơi miền núi phía Bắc. “Đây là đoạn đời mà bây giờ tôi mới viết ra
để mọi người có thể hình dung đầy đủ về bản thân tôi”. Nhà văn Ma Văn
Kháng đã tự thú nhận điều này, đó là quãng đời mà ông ở Lào Cai làm thầy
giáo rồi làm thư ký cho bí thư tỉnh uỷ Trường Minh. “Một mình một ngựa”
mà đồng bào miền núi gọi “khắc điêu khuý tu ma xổng khẩn” được đưa ra làm
tên của tiểu thuyết này đã bao quát được toàn bộ nội dung của tác phẩm. Ở đó
là sự oai hùng, hiên ngang của người chiến sỹ cách mạng, nhưng trong chính
bản thân nó cũng mang một sự cô đơn, cái cô đơn ấy hiện diện trong mọi
phương diện: khi đương đầu với khó khăn trong công việc, khi bảo vệ công
lý, khi xây dựng cuộc sống mới và... cô đơn trong quan hệ gia đình; cô đơn
trong cuộc sống hiện tại và quá khứ. Tất cả điều đó gom nhặt vào cụm từ
“một mình một ngựa”.
Một mình một ngựa là cuốn tiểu thuyết thứ 13 của Ma Văn Kháng. Nó
có cấu trúc chặt chẽ, các tuyến nhân vật và các chi tiết được đan cài vào nhau
một cách tài tình xuyên suốt. Tác phẩm đã tái hiện cái đẹp và hạn chế của một
thời đã đi vào quá vãng. Truyện được kể lại qua con mắt của thầy giáo Toàn như là hiện thân của nhà giáo Đinh Trọng Đoàn, khi đang làm giáo viên cấp
ba được điều sang làm thư ký cho bí thư tỉnh uỷ. Qua nhãn quan ấy tất cả
những con người, những tính cách, những số phận, những công việc ở cơ
quan lãnh đạo cao nhất trong một tỉnh miền núi lần lượt được hiện ra. Đứng
đầu là ông bí thư tỉnh uỷ Quyết Định - một con người kiêu hùng nhưng đầy
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
mặc cảm cô đơn. Những con người đó đều chất phác, trung thành, nhiệt tình
cách mạng, yêu quý đồng bào, sẵn sàng hi sinh trước gian khó… Đây là
những hình ảnh đẹp đẽ của một thời đã qua, cho dù họ có mang trong mình
những hạn chế, nhược điểm và cả mặc cảm cô đơn trước cuộc sống. Sở dĩ có
được sự chân thực, sinh động này là vì tác giả đã dùng chính những quan sát,
trải nghiệm của mình trong thời gian làm cho bí thư tỉnh uỷ Lào Cai, với
những chuyện mắt thấy tai nghe để đưa vào tác phẩm thông qua nhân vật
Toàn. Trong khi làm việc, Toàn đã đem hết hiểu biết và năng lực của mình để
thực hiện nhiệm vụ và để có thể đưa ra nhiều đề xuất, ý tưởng mới. Nhân vật
Toàn vừa thể hiện cái nhìn cảm thông thương mến với mọi người, đồng thời
cũng cảm thấy mình khó có thể hoà hợp được với cuộc sống nơi đây. Trong
anh tình yêu nghề giáo và những kỷ niệm xưa còn quá sâu đậm khiến anh
luôn day dứt và không yên lòng. Ở đó, anh được sống giữa cộng đồng mà
không thể hoà hợp, không khỏi thấy lòng trống vắng, cô đơn. Nỗi cô đơn
trong ông Quyết Định, trong thầy giáo Toàn và có thể là ở những con người
xung quanh họ… Tất cả được nhấn vào trong hai chữ “một mình”. Chủ đề
“một mình một ngựa” ấy đã gieo vào trong tác phẩm sự đơn côi của cả một
lớp người, dù họ có một quá khứ oai hùng, hiên ngang đến thế nào thì họ
cũng có lúc cô đơn và cô đơn ngay cả trong lúc kiêu hùng đó. Đó còn là sự cô
đơn khi không thể hoà nhập với những người xung quanh, với cuộc sống mới,
con người mới khiến họ luôn day dứt và cảm giác cô đơn luôn thường trực.
Ma Văn Kháng đã phác thảo thành công chân dung của cuộc sống cũng như
thiên nhiên hùng vĩ nơi vùng núi cao của Tổ quốc. Một mình một ngựa gợi ra
nhiều tầng ý nghĩa, đằng sau hình tượng vừa kiêu hùng lại vừa cô liêu ấy
dường như tác phẩm là tự thuật, là do chính ông hiện thân lại một quãng đời
mà trong sự nghiệp sáng tác ông còn bỏ sót.
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Bao quát toàn bộ tác phẩm là sự cô đơn, là hình ảnh con người chỉ “một
mình một ngựa xông lên” kiêu hãnh hùng dũng nhưng đơn lẻ, chỉ một mình
chiến đấu: “Cô đơn lắm! Cô đơn với tất cả các đồng chí cấp uỷ xung quanh
mình” [3, 341], và cùng với nỗi cô đơn ấy là một sự thật đau lòng, khi phát
hiện ra mình cô đơn, không thể hoà hợp. Chủ đề cô đơn dường như muôn
thuở. Nó hiện diện ở nhiều tác phẩm. Với Ma Văn Kháng, ám ảnh cô đơn chi
phối toàn bộ tác phẩm, là cảm hứng kiêu hùng của con người trước cuộc đời
đầy gian truân, đầy khuyết tật nhưng dạt dào sức sống mãnh liệt. Từ đó, tác
phẩm nối liền hiện tại với quá khứ giúp người đọc hiểu thêm về con người
trong quá khứ một thời oanh liệt đã xa.
2.2. Kiểu nhân vật tự ý thức về giá trị cá nhân
2.2.1. Nhân vật Quyết Định - hình ảnh một thế hệ cán bộ cách mạng
vừa hiên ngang, oai hùng, vừa cô đơn
Cô đơn khi đường đầu với khó khăn của cách mạng
Sáng tác của Ma Văn Kháng thường có hình hài, diện mạo rất riêng. Vì
ngay từ những sáng tác đầu tay người cầm bút đã đến với người đọc trong tư
cách là nhà văn có ý thức về chỗ đứng trong vương quốc văn chương nghệ
thuật. Các nhà nghiên cứu thường nhận xét rằng: cho đến nay, tiểu thuyết và
truyện ngắn Ma Văn Kháng vẫn tập trung vào hai đề tài chính là cuộc sống
đồng bào miền núi cao phía Bắc Tổ quốc và đời sống thành thị đầy phức tạp
trong cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước sau năm 1975. Đọc Ma Văn
Kháng, ta thấy xuyên suốt những trang văn một triết luận đời sống hết sức
nhất quán. Triết luận ấy là tình người và sự hồn nhiên làm mẫu số chung để
nhà văn trò chuyện về con người và cuộc đời. Các nhà văn thường miêu tả
ngoại hình để nói chuyện tính cách. Nhà văn Ma Văn Kháng thường miêu tả
tướng hình để thể hiện tính người, tình người. Bởi vì cái tính thường lộ ra ở
NguyÔn ThÞ Thuý Hµ
K32C – Ng÷ v¨n
- Xem thêm -