Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính sách tỷ giá hối đoái của việt nam, thực trạng và giải pháp...

Tài liệu Chính sách tỷ giá hối đoái của việt nam, thực trạng và giải pháp

.PDF
31
4471
116

Mô tả:

Đề án môn học Đề tài: Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam, thực trạng và giải pháp. Sinh viên thực hiện : Mã Sinh viên : Lớp : Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Hoàng Dương CQ500478 Kinh tế quốc tế K50 A Th.S Nguyễn Xuân Hưng Lời mở đầu: Với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, các mối quan hệ kinh tế trên mọi lĩnh vực của một nước ngày cang được mở rộng ra các nước, do đó vấn đề thanh toán, định giá, so sánh phân tích đánh giá về mặt giá trị và hiệu quả trở nên phức tạp hơn nhiều. Đơn vị thanh toán không chỉ là tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng các loại ngoại tệ khác nhau liên quan đến trao đổi tiền của nước khác. Tiền của mỗi nước được quy định theo pháp luật của nước đó và đặc điểm riêng của nó, vì vậy phát sinh nhu cầu tất yếu là phải so sánh giá trị, sức mua của đồng tiền trong nước với ngoại tệ và giữa các ngoại tệ với nhau. Hoạt động chuyển đổi đồng tiền này sang đồng tiền khác đã làm nảy sinh phạm trù tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế rất phức tạp và nhạy cảm. Kinh tế thị trường thường xuyên vận động thì tỷ giá hối đoái cũng như hiện tượng kinh tế của khác biến động là lẽ tất nhiên, là hợp với quy luật vận động của sự vật hiện tượng. Tuy nhiên những diễn biến có tính bất thường, khác lạ của hiện tượng kinh tế tất phải do những nguyên nhân hoặc do những trục trặc nào đó làm hiện tượng kinh tế đó diễn ra “chệch hướng” theo logic bình thường. Điều đó làm chúng ta phải thận trọng xem xét các nguyên nhân từ mọi phía, một cách toàn diện để có nhận thức, quan điểm đúng đắn, làm cơ sở tin cậy cho việc điều chỉnh các hoạt động thực tiễn … Nhận thức được tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái tỷ trong tổng thể chính sách tài chính – tiền tệ, trong suốt thời gian qua, NHNN Việt Nam đã cố gắng xây dụng và điều hành một chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết, cố gắng theo sát tình hình cung cầu trên thị trường, đồng thời vừa thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, để thực hiện một chính sách tỷ giá hối đoái ổn định, linh hoạt trong chiến lược tăng trưởng hướng ngoại của Việt Nam đồi hỏi phải có sự điều chỉnh hợp lý hơn nữa. Cuộc khung hoảng tài chính tiền tệ khu vực và hàng loạt các cuộc suy thoái khác đã cho thấy những nguy cơ tiềm tàng mà chúng ta phải đối phó; sự suy giảm sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giá trị thực của đồng Việt Nam v.v... Đề án này được xây dựng trên cơ sở phân tích mang tính hệ thống về tỷ giá hối đoái trên phương diện lý thuyết và thực tế ở Việt Nam, cách điều hành và xây dụng tỷ giá hối đoái ở Việt Nam như thế nào và ảnh hưởng của nó đến các vấn đề xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế,... Trên cơ sở đó, tôi xin đưa ra một vài nhận định, đánh giá về công tác điều hành tỷ giá thời gian qua và một số hướng giải quyết trong tương lai. Mục lục Chương I : Tổng quan về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái: 1. Tỷ giá hối đoái. 1.1. Khái niệm. 1.2. Các loại tỷ giá hối đoái trên thị trường. 1.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá. 2. Chính sách tỷ giá hối đoái và việc hoạch định chính sách tỷ giá hối đoái. 2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái. 2.2. Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái. 2.3. Các công cụ can thiệp. Chương II : Thực trạng điều hành tỷ giá hối đoái tại Việt Nam: 1. Tỷ giá hối đoái giai đoạn trước 1989. 2. Cải cách chế độ tỷ giá . 2.2.1. Giai đoạn 1989- 1993 2.2. Giai đoạn 1993- 1996. 2.3.Giai đoạn 1997 – nay. 3. Những thành công và tồn tại trong chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái. 3.1. Thành công. 3.2. Những tồn tại và nguyên nhân Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chinh sách tỷ giá hối đoái: 1.Mục tiêu và định hướng 2. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chinh sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong thời gian tới Chương I : Tổng quan về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái: 1. Tỷ giá hối đoái: 1.1. Khái niệm: Tỷ giá hối đoái là giá trị tiền tệ nước này biểu hiện bằng giá trị tiền tệ nước kia dùng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Ví dụ: 1 USD = 247.83 JPY. Tuy nhiên, không phải đồng tiền nào cũng được nhận để thanh toán bên ngoài quê hương của nó. Để chuyển đổi ra nội tệ của nước nào đó, nó phải được ngân hàng nước đó thu mua. Những đồng tiền có thể chuyển đổi thành nội tệ của một nước khác được gọi là ngoại tệ, nó được xem là phương tiện thanh toán và đầu tư quốc tế. Trên thế giới hiện nay có một số ngoại tệ mạnh được sử dụng rộng rãi phổ biến như: USD ( Mỹ ), JPY ( Nhật ), EUR … 1.2. Các loại tỷ giá hối đoái trên thị trường 1.2.1. Tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái song song: Tỷ giá hối đoái có thể được quy định bởi thị trường trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, và được gọi là tỷ giá thị trường. Tỷ giá hối đoái cũng có thể được quy định bởi các cơ quan hữu trách trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Ở nhiều nước, cả thị trường lẫn cơ quan hữu trách cùng tham gia quy định tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái khi đổi tại ngân hàng thương mại và quầy giao dịch ngoại hối phục vụ khách lẻ thường chênh lệch so với tỷ giá công bố có thể vì một trong hai lý do sau: (1) đã được tính gộp cả phí dịch vụ; (2) có 2 tỷ giá đồng thời, một tỷ giá hối đoái chính thức ( có thể là do cơ quan hữu trách quy định, hoặc do cả thị trường lẫn cơ quan hữu trách quy định ) và một tỷ giá không chính thức ( còn gọi là tỷ giá hối đoái song song hay tỷ giá chợ đen) do thị trường quyết định. Ở Việt Nam, ngay cả tỷ giá hối đoái chính thức cũng có vài loại: tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá tính thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá giao dịch ngân hàng thương mại và tỷ giá hạch toán. Tỷ giá mua vào và bán ra ngoại tệ niêm yết tại một số ngân hàng để phục vụ khách đổi tiền là tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại có tính thêm phí dịch vụ. Còn tỷ giá tại các của hàng kinh doanh vàng bạc ngoại tệ của tư nhân hay khi đổi tiền trong nhân dân chính là tỷ giá hối đoái song song. 1.2.2. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực tế: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá là tỷ giá không xét đến tương quan giá cả hay tương quan lạm phát giữa hai nước. Tỷ giá hối đoái thực tế là tỷ giá hối đoái có xét đến tương quan giá cả hay tương quan lạm phát giữa hai nước Quan hệ giữa hai loại tỷ giá này được thể hiện qua cách tính sau: Tỷ giá hối đoái thực tế = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Giá nội địa / Giá nước ngoài = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Tỷ lệ lạm phát trong nước / Tỷ lệ lạm phát nước ngoài. 1.2.3. Tỷ giá hối đoái song phương và tỷ giá hối đoái hiệu lực: Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền gọi là tỷ giá hối đoái song phương. Còn tỷ giá hối đoái hiệu lực tỷ lệ trao đổi giữa một đồng tiền X với nhiều đồng tiền khác cùng lúc (thông thường là đồng tiền của các bạn hàng thương mại lớn). Tỷ giá này được tính trên giá trị bình quân gia quyền của các tỷ giá song phương giữa đồng tiền X với từng đồng tiền kia. Tỷ giá hối đoái hiệu lực cũng có loại danh nghĩa và loại thực tế. 1.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái: Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Sự vận động của nó có tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới mục tiêu, chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia: Thứ nhất, nó là phương tiện để thực hiện trao đổi thương mại quốc tế. Một quốc giá muốn mua hàng hóa ở nước khác phải đổi đồng tiền nước mình ra tiền nước đó để thực hiện các giao dịch. Tỷ giá hối đoái sẽ quy định tỷ lệ quy đổi giữa hai loại đồng tiền đó. Thứ hai, nó tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu. Khi đồng tiền của một nước tăng giá (tăng trị giá so với các đồng tiền khác) thì hàng hóa của nước đó ở nước ngoài sẽ thành đắt hơn và hàng hóa nước ngoài tại nước đó trở thành rẻ hơn. Ngược lại, khi đồng tiền của một nước sụt giá, hàng hóa của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn trong khi hàng hóa nước ngoài tại nước đó trở thành đắt hơn (các yếu tố khác không đổi). Tỷ giá tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế, gây ra thâm hụt hoặc thặng dư cán cân. Thứ ba, tỷ giá là công cụ điều tiết vĩ mô. Tác động vào tỷ giá sẽ làm ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu từ đó ảnh hưởng tới tổng cầu, sản phẩm quốc dân, thất nghiệp … Việc điều hành tỷ giá không tốt có thể dẫn tới lạm phát, khủng hoảng. Tỷ giá còn góp phần vào việc cải thiện cung cầu về ngoại tệ, giải quyết vấn để nợ nước ngoài, … 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá: * Các nhân tố dài hạn: - Mức giá cả tương đối: về lâu dài sự tăng lên mức giá của một nước (tương đối so với mức giá nước khác) làm cho đồng tiền nước đó giảm giá và một sự giảm giá xuống của mức giá tương đối làm cho đồng tiền nước đó tăng giá. - Thuế và cô-ta: Đây là hàng rào đối với hàng nhập khẩu và bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước, việc này làm tăng cầu hàng nội và dẫn đến việc tăng giá của đồng nội tệ. Thuế quan và cô-ta lâu dài làm cho đồng tiền của một nước tăng giá. Tuy vậy một quốc gia thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng” thì vấn để tỷ giá đối với họ không có nhiều ý nghĩa cho lắm. - Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại: Một sự ưa thích hàng ngoại làm tăng cầu về ngoại tệ khiến cho cung ngoại tệ tăng dịch chuyển và giá đồng nội tệ giảm xuống. Về lâu dài cầu về hàng xuất khẩu của một nước làm cho đồng tiền của nước đó tăng giá trong khi cầu về hàng nhập tăng lên làm đồng tiền nước đó giảm giá. - Năng suất lao động: Năng suất lao động cao làm giá hàng hóa của một nước rẻ tương đối so với các nước khác. Cầu hàng xuất khẩu của nước đó cao lên kéo theo sự tăng giá của đồng tiền nước đó. Về lâu dài, do năng suất lao động của một nước cao tương đối so với các nước khác, nên đồng tiền của nước đó tăng giá. - Yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến giá: Phần lớn các nước đang phát triển phải đối mặt với tình trạng “đôla hóa” trong nền kinh tế. Đó là sự mất niềm tin vào đồng bản tệ, người dân và các tổ chức kinh tế găm giữ đô la và chỉ tín nhiệm dòng tiền này trong thanh toán trao đổi. Do vậy cầu USD rất lớn và giá các đồng bản tệ xuống thấp. - Tỷ lệ lạm phát: Nếu tỷ lệ lạm phát nước A cao hơn tỷ lệ lạm phát nước B, nước A cần nhiều tiền hơn để đổi lấy một lượng tiền nhất định của nước B, giá đồng tiền nước A vì vậy giảm xuống. - Cán cân thương mại: Nó liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Xuất khẩu nhiều tỷ giá tăng. * Các nhân tố ngắn hạn: - Lãi suất: lãi suất là một biến số kinh tế tổng hợp tác động đến nhiều chỉ tiêu khác nhau trong đó tỷ giá và lãi suất có mối liên hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Trong một nước nếu lãi suất nội tệ tăng trong khi lãi suất thế giới ổn định sẽ làm cho các nguồn vốn quốc tế đổ vào nhiều vì mức lãi suất quá hấp dẫn. Do vậy cầu tiền nước này tăng lên và tỷ giá tăng theo. - Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Bội thu cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá giảm và bội chi cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá tăng. 2. Chính sách tỷ giá hối đoái và việc hoạch định chính sách tỷ giá hối đoái. 2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối có vai trò quan trọng với sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế. Do vậy, chính sách tỷ giá hối đoái của bất kì quốc gia nào cũng đều được coi như một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia. Duy trì, giữ vững sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô là yêu cầu cấp thiết để tăng trưởng kinh tế, là mục tiêu hàng đầu và tập trung của các chính sách kinh tế của chính phủ, trong đó có chính sách tỷ giá. Một quốc gia tùy theo điều kiện hoàn cảnh và thời điểm sẽ xác định cho mình một chính sách tỷ giá thích hợp. Trên thế giới hiện nay các nước theo đuổi các cách điều hành tỷ giá khác nhau song rút lại đều đi theo các xu hướng hoặc là chế độ tỷ giá cố định hoặc là chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn hoặc thả nổi có kiểm soát. Hệ thống tỷ giá thả nổi hoàn toàn: Do cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định tỷ giá, không có sự can thiệp của chính phủ. Hệ thống tỷ giá cố định: đó là tỷ giá do ngân hàng trung ương ấn định ở một mức nào đấy. Tỷ giá cố định có thể cao hơn hoặc thấp hơn tỷ giá cân bằng trên thị trường ngoại hối. Để giữ được tỷ giá ở mức cố định ngân hàng trung ương phải mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Và như vậy, cung tiền tuột khỏi sự kiểm soát của ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương chỉ có thế đạt được một trong hai mục tiêu: hoặc giữ cho tỷ giá cố định hoặc là kiểm soát được mức cung tiền chứ không thể đồng thời thực hiện được cả hai mục tiêu đó. Hệ thống tỷ giá thả nổi có kiểm soát: Nằm giữa hai thái cực trên. Quan điểm của các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại coi trọng cả vai trò kinh tế của chính phủ và quy luật “bàn tay vô hình”. Tỷ giá được hình thành trên cơ sở thị trường theo quy luật cung cầu, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ chỉ tác động lên tỷ giá bằng các công cụ mang tính thị trường tác động lên thị trường ngoại hối. 2.2. Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái: Nhưng vấn đề đặt ra là phải xác định chế độ tỷ giá hối đoái nào: cố định, thả nổi hay thả nổi có kiểm soát. Một cuộc tranh luận về những chế độ tỷ giá hối đoái đã nổ ra. Thế giới đã chuyển từ chế độ tỷ giá hối đoái cố định, được thực hiện từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến đầu năm 1973, sang chế độ tỷ giá thả nổi, linh hoạt thay đổi hàng ngày. Nhưng vào cuối những năm 80 chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn bộc lộ tác động tiêu cực đến các nền kinh tế và người ta bắt đầu nghĩ đến một chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết, nhằm hạn chế những tác động của chế độ tỷ giá linh hoạt. Hiện nay các chính phủ đều muốn can thiệp để hạn chế những biến động mạnh mẽ lên xuống của tỷ giá, một mặt là cần thiết để cân bằng cung cầu trong thời gian ngắn, nhưng mặt khác lại gây ra những biến động không mong muốn cho giá cả và đầu ra ở trong nước. 2.3. Các công cụ can thiệp: Phương án can thiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song nó phụ thuộc phần lớn vào chế độ tỷ giá hiện hành. Mỗi chế độ ngoại hối đều có phương án điều chính can thiệp thích hợp. Trên thực tế, đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp lãi suất chiết khấu, các nghiệp vụ thị trường hối đoái, quỹ bình ổn hối đoái, giảm giá hoặc tăng giá đồng nội tệ … Phương pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chính tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức “báo động” cần phải can thiệp thì NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ bớt đi, làm cho tỷ giá không có cơ hội tăng nữa. Tuy nhiên, chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động một cách qua lại gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp. Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá là không giống nhau, do đó những biến động của lãi suất không nhất thiết kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có thể thu hút được vốn ngắn hạn từ nước ngoài, nhưng nếu tình hình kinh tế - chính trị xã hội không ổn định thì khó có thể thực hiện được vì vấn đề an toàn vốn phải đặt lên trên hết. Khủng hoảng 1971- 1973 ở Mỹ là một ví dụ: mặc dù lãi suất trên thị trường New York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp ba thị trường Frankfurk nhưng vốn ngắn hạn không được chuyển vào Mỹ mà lại được đưa đến Tây Đức và Nhật Bản. Các nghiệp vụ thị trường hối đoái: Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp rất quan trọng của nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Một sự can thiệp hữu hiệu trong đó đồng tiền trong nước được bán để mua tài sản nước ngoài đưa đến: (1) thu đem dự trữ quốc tế; (2) một sự tăng trong cung tiền tệ; (3) một sự sụt giá của đồng nội tệ. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước được mua bằng cách bán tài sản nước ngoài đưa đến: (1) Dự trữ quốc tế giảm; (2) Cung tiền tệ giảm; (3) Đồng tiền trong nước tăng giá. Tùy điều kiện mỗi quốc gia mà việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi, quy mô tác động. Với những nước có nền kinh tế phát triển cao, các nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên quy mô rộng lớn, đôi khi mở ra trên phạm vi cả một khu vực, thậm chí toàn cầu. Việc lựa chọn các thời điểm cần mua, cần bán ngoại tệ trên thị trường với tỉ giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh là những hoạt động có ý nghĩa quyết định. Nếu chủ quan, thiếu cân nhắc đầy đủ kỹ càng việc lựa chọn này thì hậu quả khó mà lường hết được. Điều chỉnh tỷ giá theo phương pháp này, chính phủ thường gặp phải phản ứng trái ngược nhau của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư trong xã hội bắt nguồn từ lợi ích kinh tế. Những mâu thuẫn này thường xảy ra giữa nhũng nhà xuất khẩu và nhập khẩu, giữa những người đang nắm giữ trong tay số lượng lớn ngoại tệ và những người trong túi chỉ có nội tệ. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một điều kiện không thể thiếu là Chính phủ phải có một lượng dự trữ ngoại tể đủ sức để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định, thậm chí hay xảy ra các biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một trong các công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thường là: - Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia ( như Anh, Hà Lan …) - Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái ( như Pháp, Mỹ, Thụy Sĩ, …)’ Hạn chế của công cụ này là nó chỉ tác động lớn khi khủng hoảng ngoại tệ ít nghiêm trọng. Hơn nữa, việc tạo lập được quỹ bình ổn hối đoái đòi hòi các quốc gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế. Phá giá đồng tiền: Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc giảm thấp sức mua của đồng tiền so với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá sẽ ảnh hưởng trược tiếp đến sự tăng hoặc giảm của tỷ giá hối đoái. Đây là điểm giống nhau giữa phá giá đồng tiền và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, nhưng giữa chúng cũng có sự khác nhau. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái là việc làm thường xuyên liên tục của Nhà nước nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế đẩy lùi lạm phát. Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo nguyên tắc duy trì biên độ dao động cho phép tăng hoặc giảm một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá hối đoái được sử dụng làm chuẩn. Khác hẳn với phá giá đồng tiền, một biện pháp mạnh, cực đoan, chỉ áp dụng trong những trường hợp hết sức cần thiết. Phá giá không phải là giải pháp đúng cho mọi trường hợp. Nó phải được sử dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thích hợp. Nếu không hiệu ứng tiêu cực của hành động phá giá sẽ đẩy tình hình vào thế khủng hoảng trầm trọng hơn. Bên cạnh giảm giá sức mua đồng nội tệ là việc nâng giá sức mua đồng nội tệ. Nó thường được áp dụng trong các trường hợp: - Giá hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu được xác định thấp so với giá trên thị trường quốc tế. - Hạn chế xuất khẩu do sức ép của các nước bạn hàng nhằm tạo thế cân bằng trong thương mại quốc tế. - Tăng khả năng nhập khẩu, kiềm chế lạm phat. - Ngăn ngừa các loại ngoại tệ đang bị mất giá tràn vào nước mình. Sự can thiệp điều hành tỷ giá trong lịch sử không phải luôn giống nhau. Thực tế mỗi công cụ can thiệp điều chỉnh tỷ giá lại được vận dụng một cách linh hoạt tương ứng với mỗi điều kiện, chế độ tỷ giá cụ thể. Chương II: Thực trạng điều hành tỷ giá hối đoái tại Việt Nam 1.Tỷ giá hối đoái giai đoạn trước 1989: Trong quan hệ với các nước thuộc khối XHCN trước đây, tỷ giá của Việt Nam được tính theo đồng Rúp clearing ( sau này đổi là rúp chuyển khoản- transferable ruble) đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước thuộc khối XHCN tự quy định với nhau để làm sao cho tài khoản các bên, sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã quy định trong hiệp định kí kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số dư. Từ ngày 25/11/1955, tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam và Nhân dân tệ của Trung Quốc là: 1NDT = 1,470 VND, 1 Rúp (Liên Xô) = 0,5 NDT, tỷ giá chéo là 735 VND = 1 Rúp. Sau đổi tiền (1959) tỷ giá VND với Rúp và NDT thay đổi. Đến năm 1977 các nước XHCN thỏa thuận thanh toàn với nhau bằng Rúp chuyển nhượng (RCN). Mỗi RCN có hàm lượng vàng là 0.98712 gam. Bên cạnh tỷ giá trên, Nhà nước còn dùng tỷ giá thanh toán nội bộ để thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị thu chi ngoại tệ với Ngân hàng ngoại thương, tính thu chi ngân sách nhà nước khi nhận viện trợ bằng đồng Rúp và cấp phát cho các tổ chức kinh tế để thanh toán với các đơn vị ngoại thương. Tỷ giá kết toán nội bộ được điều chỉnh như sau: Năm 1958 : 1 Rúp = 5,64 VND Năm 1986 : 1 Rúp = 18 VND Năm 1987 : 1 Rúp = 150 VND Năm 1988 : 1 Rúp = 700 VND Đến tháng 3/1989 hủy bỏ chế độ kết toán nội bộ. Đặc trung trong chế độ tỷ giá của Việt Nam thời kì này là cố định, đã bộc lộ nhiều mặt bất hợp lý, nó không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá hối đoái trong việc cân bằng cán cân thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta và là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong một thời gian dài. 2.Cải cách chế độ tỷ giá: Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có những chủ trương và giải pháp mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá từng bước xóa bỏ cơ chế độc quyền ngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất khẩu, nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, cùng với việc mở rộng ngoại thương chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản, chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới, bản thân cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái đã được nhanh chóng thay đổi phù hợp với bối cảnh thực tế. Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan bao cấp, xa rời thị trường, tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh theo các quan hệ và điều kiện của các quy luật kinh tế thị trường. Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của nhà nước đã phát huy được vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận động theo quy luật cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt và có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà nước có sự khác nhau theo từng năm, ta có thể chia làm 3 giai đoạn: 2.1. Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989- 1993: Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt Nam qua các năm 1989-1993 Nă m 198 9 199 0 199 1 199 2 199 3 Tỷ giá USD/VND Giá chính thức của nhà nước Giá thị trường tự do Tăng giảm % Lạm phát 4.200 4.570 +8.80 +34.070 6.650 7.550 +13.50 +67.50 12.720 12.550 -0.02 +68.00 10.720 10.500 -0.02 +17.50 10.835 10.736 -0.01 +5.20 Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá USD/VND có biến động lên xuống qua các năm. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã: - Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá - Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn sốc USD làm mất ổn định nền kinh tế - Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt kết quả như mông muốn - Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Tình trạng leo thang của giá đồng đô la đã kích thích tâm lý dự trữ đô la. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Giai đoạn này, ngân hàng đã không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái VND/USD. Nội dung chính của những thay đổi về chính sách và cơ chế nêu trên là: - Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo các tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế, mở cửa trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ với nhau theo giá thỏa thuận. - Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức. Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như vậy cộng thêm sự can thiệp điều tiết của ngân hàng nhà nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã giải tỏa được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được xu hướng tăng giá quá mức của đô la Mỹ trên thị trường. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt đầu giảm. 2.2.Giai đoạn cố định tỷ giá 1993- 1996: Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt Nam qua các năm 1993- 1996 Năm 1993 1994 1995 Tỷ giá USD/VND 10.835,00 11.050,00 11.040,00 So sánh % năm trước (%) 100 +1.98 0 Tốc độ lạm phát (%) 5.2 14.7 12.7 1996 11.060,00 +0.18 4.5 ( số liệu lấy từ tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng 12/1995 và từ số 1/1996 đến tháng 12/1996 và từ tháng 1/1997 đến tháng 12/1997 ) Do tỷ giá chính thức của nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian này không chênh lệch nhiều, nên lấy tỷ giá chính thức của nhà nước làm cơ sở, qua bảng 2 ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào các cụm nhân tố đối ngoại. Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài ( 1993- 1996) đã không khuyến khích được xuất khẩu làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng số liệu dưới đây: Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu của Việt Nam qua các năm 1993- 1996 ( đơn vị tính: triệu USD ) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu ròng 1993 2.985 3.924 -939 1994 4.054 5.825 -1.771 1995 5.448,9 8.155,4 -2.796,5 1996 7.225 11.143 -3.888 (số liệu lấy từ nguồn thời báo kinh tế Sài Gòn qua các năm 1996-19971998) Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn đến tình trạng hoặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân kinh tế. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc thiết bị công nghệ ngày càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia. 2.3.Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của nhà nước từ 1997 cho đến nay: Trước tình hình thâm hụt cán cân thương mại, từ năm 1997 nhà nước đã có những chỉ đạo: - Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở LC thanh toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở LC At Sight là chủ yếu, hạn chế mở LC trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dài hạn ngày càng được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua mức kí quỹ bắt buộc. - Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường Nhìn chung giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế 6 tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường nhiều lúc bị ngưng trệ. Doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so với 6 tháng đầu năm 1997, doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997, nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ đã phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn VND do lãi suất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân bằng đối với cung cầu VND trên thị trường. Nhà nước ta đã mở rộng liên độ giao dịch của các Ngân hàng thương mại từ 1% đến 5% rồi đến 10%. Những giải pháp này cũng đã kịp thời góp phần làm giam sức ép đối với tỷ giá hối đoái của VND. Chính sách tỷ giá đã được nhà nước điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều kiện cho giá trị VND phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ, góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu. Đầu năm 1998, tình hình tỷ giá hối đoái trong nước càng ngày càng trở nên phức tạp, giá USD mỗi ngày một tăng, thậm chí có ngày thay đổi giá vài lần điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Nhiều doanh nghiệp cố gắng giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm chênh lệch. Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua thiết bị hoặc L/C đến hạn thanh toán nhưng lại không dám vay vì sợ tỷ giá ngoại tệ tăng đột biến sẽ không trả nợ được. Đồng ngoại tệ đóng băng. Ngân hàng không mua không bán và cho vay bằng ngoại tệ được. Trước tình hình đó Chính phủ đã có một quyết định đúng nhằm kiểm soát ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam bằng việc ban hành quyết định 37/1998/ QD- TTg (ngày 14/2/1998) “về một số biện pháp quản lý ngoại tệ”. Đây là một bước thành công lớn của nhà nước ta trong vấn đề kiểm soát và quản lý ngoại tệ, nhanh chóng làm giảm cơn sốt tỷ giá ngoại tệ, làm giá USD ở thị trường tự do giảm xuống mức thấp. Tình hình tỷ giá Việt Nam những năm gần đây: Khác với giai đoạn trước, từ năm 2007 đến nay, biểu đồ tỷ giá VND/USD chuyển biến liên tục và đầy kịch tính. Từ cuối năm 2006, lần đầu tiên trong điều hành tỷ giá, các NHTM niêm yết tỷ giá VND/USD ở mức thấp nhất (giá sàn). Nguyên nhân của hiện tượng này là nguồn cung USD tăng vọt chủ yếu từ nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Tỷ giá giảm làm gia tăng nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu, cán cân thương mại bị thâm hụt. Để cải thiện cán cân thương mại, NHNN buộc phải điều chỉnh tỷ giá. Về lý thuyết, NHNN có thể (1) can thiệp thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoặc (2) điều chỉnh tỷ giá do NHNN công bố hằng ngày. Thực tế, những ngày đầu năm 2007, NHNN đã tăng cường mua vào USD để gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên mặt trái của việc làm này là chỉ số lạm phát có dấu hiệu gia tăng do cung tiền tăng lớn. Lúc này, NHNN buộc phải sử dụng chính sách can thiệp trung hòa thông qua nghiệp vụ thị trưởng mở (OMO), nhưng do cầu vốn trên thị trường trong giai đoạn này quá lớn, đấu thầu trái phiếu với mức lãi suất 7%/ năm không thành công như mong đợi. Điều này có nghĩa, NHNN không thể chủ động trong thu hồi tiền từ lưu thông. Nguy cơ lạm phát từ cung tiền tăng cao. Chính vì vậy, cuối tháng 3/2007, NHNN đã chủ động nâng tỷ giá giao dịch bằng cách gia tăng tỷ giá công bố. Đến cuối tháng 4/2007, trước nhu cầu chuyển lợi nhuận về nước của các công ty đầu tư nước ngoài đã làm cầu USD tăng vọt, tỷ giá VND/USD lại chạm trần. Những tháng cuối năm, tỷ giá làm giảm mạnh mà nguyên nhân của nó cũng chính là từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường bất động sản của Việt Nam. Đối phó với áp lực giảm giá USD, NHNN đã nới rộng biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.5% lên +/- 0.75%. Tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng năm 2007 cả năm chỉ tăng 0.08%. Sang đầu năm 2008, biến động tỷ giá lại tương tự như những tháng đầu năm 2007. NHNN đã 3 lần điều chỉnh biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.75% lên +/- 1%,+/-2% rồi +/-3%. Tuy nhiên tỷ giá vẫn luôn bị cứng nhắc. Quý 1 năm 2008, trước tình hình VND tăng giá so với USD, NHNN đã phải điều chỉnh giảm tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá vào cuối tháng 3/2008 là 15.960 VND/USD so với mức 16091 VND/USD vào cùng kỳ tháng 1/2008, đồng thời nâng biên độ giao dịch lên mức ±1%. Lúc này, hấu hết NHTM phải mua bán tại mức giá sàn, thậm chí tỷ giá tại thị trường tự do thấp hơn giá giao dịch tại thị trường chính thức. Tỷ giá giảm một lần nữa tác động xấu đến cán cân thương mại. Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008 - Nguồn: BIDV Sang quý 2 năm 2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng lên 16541 VND/USD vào cuối tháng 6/2008, tỷ giá giao dịch tại các NHTM lại đụng trần, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới mức 19,400 VND/USD (giữa tháng 6/2008), khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen lên tới trên 2000 đồng. Những biến động bất lợi từ các yếu tố nội sinh lẫn ngoại sinh đã làm tỷ lệ lạm phát 6 tháng đầu năm 2008 tăng vượt trội, chỉ số CPI có thời điểm trên 20%. Để kiềm chế lạm phát, NHNN buộc phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền trong lưu thông như: phát hành 20.300 tỷ VND trái phiếu bắt buộc, giảm cho vay kinh doanh chứng khoán, kiểm soát cho vay đầu tư bất động sản, điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 14%/ năm xuống còn 7.5%/ năm và buộc các NHTM không được kinh doanh quá 150% lãi suất cơ bản. So với năm 2007, VND bị mất giá 1,68% Diễn biến tỷ giá VNĐ/USD năm 2008-2009 Năm 2009, thị trường ngoại tệ diễn biến hết sức căng thẳng. Nguyên nhân của hiện tượng này trước hết là dòng vốn nước ngoài như FDI, FII, ODA, kiều hối đều giảm do nền kinh tế toàn cầu suy giảm vì cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Một nguyên nhân góp phần đáng kể căng thẳng USD trong giai đoạn này là tác động tiêu cực của gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ. Với chính sách này, lãi suất vay VND giảm một cách tương đối so với vay USD. Các doanh nghiệp nhập khẩu thay vì vay USD đã tăng cường vay VND sau đó mua USD thanh toán hàng nhập khẩu. Điều này làm tăng cầu vốn bằng VND và làm khan hiếm USD trong nền kinh tế. Trong khi đó, nguồn cung USD từ các doanh nghiệp xuất khẩu lại hạn chế. Do kỳ vọng USD tăng giá nên các nhà xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản. Cung USD giảm, cầu USD tạo áp lực tăng tỷ giá. Trước tình thế này, NHNN quyết định nâng biên độ giao dịch lên mức±5% (24/3/2009) và sau đó giảm xuống ± 3% (26/11/2009). Tỷ giá mua bán niêm yết tại các NHTM luôn trong tình trạng bằng nhau và tăng kịch trần biên độ cho phép. Tỷ giá BQLNH trong suốt 9 tháng đầu năm 2009 được NHNN giữ gần như là cố định, tỷ giá BQLNH cuối tháng 9/2009 chỉ tăng 0.08% so với cuối tháng 1/2009. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường tự do liên tục tăng mạnh, ba tháng cuối năm 2009, hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do nóng nhất từ trước tới nay, thời điểm giữa tháng 11, tỷ giá được điều chỉnh hàng giờ. Khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen trong thời gian này lớn, trung bình khoảng 1,500 VND/USD. Diễn biến tỷ giá VNĐ/USD các tháng đầu năm 2010 Năm 2010, USD lại tiếp tục căng thẳng, giá mua bán USD tại các NHTM luôn chạm trần. Sau một thời gian dài không điều chỉnh tỷ giá BQLNH, ngày 11/2/2010, NHNN đã bất ngờ tăng giá USD 3%. Mặc dù tăng tỷ giá nhưng áp lực về cầu USD vẫn không giảm. Tình trạng găm giữ ngoại tệ vẫn không suy giảm. Nhiều NHTM không cân đối được nguồn ngoại tệ đã buộc phải thương lượng giá với bên cung rồi cộng thêm khoản phí vào giá bán USD cho người có nhu cầu mua ngoại tệ. Tỷ giá bị chèn ép. Ngày 17.8.2010, lần thứ hai trong năm, NHNN điều chỉnh USD tăng 2%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ18.544 đã tăng lên 18.932 VND/USD. Các NHTM được phép mua bán USD ở mức giá19500 VND/USD, tăng 400VND/USD so với ngày 17.8.10. Việc tỷ giá được điều chỉnh một cách bất ngờ và nhát ngừng đã thành viên thị trường thêm hoang mang, và không làm “giảm nhiệt” thị trường ngoại tệ. Cuối năm 2010, khi các thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô không khả quan như gia tăng tỷ lệ lạm phát, nợ nược ngoài, nợ công, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối quốc gia suy giảm, cũng như việc tăng giá vàng trên thị trường Thế giới đã tạo áp lực lên tỷ giá. Hiện tượng các doanh nghiệp tự thỏa thuận giá mua bán ngoại tệ vượt mức trần cho phép đã trở thành phổ biến. Tỷ giá thị trường tự do có thời điểm đạt trên 21.500 VND/USD, lệch 2.000 VND/USD so với tỷ giá chính thức. Nhìn chung, từ 2007 đến 2010, thị trường ngoại tệ diễn biến phức tạp, nên mặc dù NHNN đã có những can thiệp mạnh vào tỷ giá, biên độ tỷ giá, lãi suất cũng như nguồn cung ngoại tệ nhưng chỉ có thể kiềm chế phần nào sức nóng của thị trường, vấn đề căng thẳng cung cầu trên thị trường ngoại tệ vẫn thực sự chưa được giải quyết. Các biện pháp sử dụng để điều hành chính sách tỷ giá vẫn chủ yếu là các biện pháp hành chính, sự can thiệp trực tiếp vào cung ngoại tệ của NHNN còn nhiều hạn chế. Các công cụ được sử dụng đồng loạt và có hỗ trợ cho nhau để tác động lên thị trường nhưng mang tính bị động. NHNN đã chậm trễ trong việc điều chỉnh tỷ giá cho phù hợp với tình hình thực tế mà luôn có khuynh hướng cố định, giữ mức tỷ giá bằng việc chỉ thực hiện những điều chỉnh rất nhỏ. NHNN chỉ điều chỉnh mạnh vào những lúc thị trường thật sự nóng. Việc điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn này dường như là sự chạy theo diễn biến của thị trường chứ không phải hướng thị trường theo chính sách. 3. Những thành công và tồn tại trong chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái: 3.1. Thành công Cơ chế điều hành tỷ giá trên quy định tỷ giá chính thức tạo điều kiện cho Ngân hàng trung ương dễ dàng kiểm soát, điều tiết được thị trường hối đoái. Trước hết là thị trường ngoại tệ trên Ngân hàng. Biên độ giao động quanh tỷ giá chính thức là một công cụ hữu hiệu trong suốt giai đoạn vừa qua, góp phần không nhỏ để đạt mục tiêu ổn định và tăng trưởng cho nền kinh tế. Thông qua tỷ giá của các Ngân hàng thương mại trong biên độ quy định, ngân hàng nhà nước có thể dễ dàng nắm bắt được diễn biến cung cầu ngoại tệ thực tế của nền kinh tế, nhận biết được xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái để có kế hoạch điều chỉnh kịp thời. Quy định chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán cho các ngân hàng thương mại, ở một mức độ nào đó, hạn chế khả năng đầu cơ tỷ giá của các Ngân hàng tránh trường hợp tỷ giá mua và tỷ giá bán quá chênh lệch. Cơ chế tỷ giá thống nhất đã tạo ra một môi trường pháp lý vững chắc cho các hoạt động kinh tế - thương mại trong tổng hóa các mối quan hệ của nền kinh tế. Đồng thời tỷ giá chính thức tạo ra được một cơ sở pháp lý, mang tính chủ quyền cho đồng tiền Việt nam trong các quan hệ đối ngoại. 3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan