Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành công ngh...

Tài liệu đánh giá các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp phần mềm việt nam

.PDF
104
3
62

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH *************** VŨ THỊ THU HƯƠNG ĐÁNH GIÁ CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHẦN MỀM VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh - Năm 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH *************** VŨ THỊ THU HƯƠNG ĐÁNH GIÁ CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHẦN MỀM VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 60.31.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS - TS. NGUYỄN TRỌNG HOÀI TP. Hồ Chí Minh - Năm 2011 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Các nguồn dữ liệu tham khảo được sử dụng trong luận văn đều có ghi trích dẫn cụ thể, xuất xứ rõ ràng và có thể dễ dàng tìm kiếm theo nguồn ghi trong tài liệu tham khảo. Kết quả nghiên cứu của luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh hay Sở Thông tin và Truyền thông TP. Hồ Chí Minh. Tác giả VŨ THỊ THU HƯƠNG ii LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thành ủy TP. Hồ Chí Minh cùng Ban lãnh đạo Sở Thông tin và Truyền thông TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện và cho tôi cơ hội được tham gia khóa đào tạo thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế phát triển tại trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS-TS. Nguyễn Trọng Hoài, người đã tận tình hướng dẫn và có những góp ý hết sức quý báu, mang giá trị khoa học cao trong suốt quá trình thực hiện luận văn để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn TS. Hoàng Lê Minh, Viện trưởng Viện Công nghiệp phần mềm và Nội dung số, Bộ Thông tin và Truyền thông đã hỗ trợ cung cấp những thông tin quan trọng và có những góp ý, đánh giá hết sức ý nghĩa cho luận văn này với vai trò là chuyên gia ngành Công nghiệp phần mềm. Tôi cũng xin được cảm ơn các Thầy, Cô trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian 2 năm học vừa qua. Lời cuối cùng tôi cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp tại Sở Thông tin và Truyền thông TP. Hồ Chí Minh đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể hoàn thành luận văn đúng kỳ hạn. TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng VŨ THỊ THU HƯƠNG năm iii MỤC LỤC STT Nội dung Trang Chương 1: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU 1.1 Vấn đề nghiên cứu và ý nghĩa của nghiên cứu 1 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2 1.3 Câu hỏi nghiên cứu 2 1.4 Phạm vi nghiên cứu 2 1.5 Phương pháp nghiên cứu 3 1.6 Cấu trúc luận văn 3 Chương 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 2.1 Đặc điểm, vai trò của ngành CNpPM trong nền kinh tế 5 2.2 Lý do để phát triển ngành CNpPM 8 2.3 Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 10 2.4 Các cấp độ về năng lực cạnh tranh 13 2.5 Tổng hợp một số mô hình và khung phân tích năng lực cạnh tranh 16 2.6 Mô hình phân tích hiện trạng năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam 24 2.7 Xác định nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh ngành CNpPM Việt Nam 27 Chương 3: PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CNpPM VIỆT NAM 3.1 Tổng quan ngành CNpPM Việt Nam 31 3.2 Phân tích hiện trạng ngành CNpPM Việt Nam theo mô hình lựa chọn 33 3.2.1 Nguồn nhân lực 33 3.2.2 Các điều kiện yếu tố 38 3.2.3 Các điều kiện cầu 41 iv 3.2.4 Chiến lược, quản lý và hoạt động của DN 43 3.2.5 Đặc điểm của ngành CNpPM Việt Nam 47 3.2.6 Vai trò Chính phủ 49 3.2.7 Yếu tố ngẫu nhiên 50 3.2.8 Bối cảnh quốc tế 51 3.3 Ma trận SWOT ngành CNpPM Việt Nam 52 3.4 Đánh giá các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam 53 3.4.1 Nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý 53 3.4.2 Công nghệ 58 3.4.3 Mối liên kết trong và ngoài nước 61 3.4.4 Cơ sở hạ tầng 62 3.4.5 Môi trường kinh doanh 65 3.4.6 Thể chế chính sách 67 Chương 4: KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGÀNH CNpPM VIỆT NAM 4.1 Kết luận 70 4.2 Quan điểm, mục tiêu và căn cứ đề xuất chính sách 70 4.3 Một số gợi ý chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh ngành CNpPM Việt Nam 71 4.4 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo 75 Tài liệu tham khảo 77 Phụ lục 82 v DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. 2. Bộ TT – TT: Bộ Thông tin và Truyền thông BPO- Business Process Outsourcing: Dịch vụ gia công qui trình tác nghiệp 3. BSA – Business Software Alliance: Liên minh phần mềm doanh nghiệp 4. CNH – HĐH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa 5. CNpPM: Công nghiệp phần mềm 6. CNST: Công nghiệp sáng tạo 7. CNTT – TT: Công nghệ thông tin và Truyền thông 8. CNTT: Công nghệ thông tin 9. DN: Doanh nghiệp 10. FDI – Foreign Direct Investment: Đầu tư trực tiếp nước ngoài 11. GSO: Tổng cục thống kê 12. HCA: Hội tin học TP. Hồ Chí Minh 13. IDG – International Data Group: Tập đoàn dữ liệu quốc tế 14. OECD - Organisation for Economic Co-operation and Development: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế 15. R&D: Hoạt động nghiên cứu và phát triển 16. TP. HCM: Thành phố Hồ Chí Minh 17. Vinasa: Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam 18. WEF - World Economic Forum: Diễn đàn Kinh tế thế giới 19. WTO - World Trade Organization: Tổ chức Thương mại thế giới DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Hệ số ICOR tham khảo của một số quốc gia và của ngành CNpPM 9 Bảng 2.2: Tóm lược các khung phân tích đánh giá năng lực cạnh tranh 27 Bảng 3.1: Thứ hạng Việt Nam trong bảng xếp hạng gia công phần mềm thế giới 40 Bảng 3.2: Tổng hợp đánh giá xếp hạng về giáo dục và nguồn nhân lực CNTT – TT Việt Nam (2009 – 2010) so với các nước trên thế giới 43 Bảng 3.3: Tỷ lệ trung bình người lao động sử dụng thành thạo các ngoại ngữ ở DN vừa và nhỏ 46 Bảng 3.4: thay đổi và mức lãi suất cơ bản áp dụng theo ban hành của ngân hàng nhà nước Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010 48 Bảng 3.5: Tỷ lệ các DN vừa và nhỏ có chứng chỉ chất lượng 68 Bảng 3.6: Biến động nguồn nhân lực theo các vị trí làm việc ở DN vừa và nhỏ năm 2010 69 vi Bảng 3.7: Biến động nguồn nhân lực theo các vị trí làm việc ở DN lớn năm 2010 69 Bảng 3.8: Đánh giá dịch vụ và sản phẩm của nhà cung cấp dịch vụ internet chủ yếu 76 Bảng 3.9: Đánh giá mức độ quan trọng và mức độ hài lòng với các yếu tố của môi trường kinh doanh 79 Bảng 3.10: Đánh giá mức độ quan trọng và mức độ hài lòng về người lao động 80 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1: Doanh thu và tăng trưởng của ngành CNpPM giai đoạn 2000 - 2009 40 Biểu đồ 3.2: Mức độ sẵn sàng của nguồn nhân lực CNpPM Việt Nam, năm 2010 42 Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ các DN lựa chọn phương thức trợ giúp tài chính 49 Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ DN cho rằng 2 vấn đề chính khiến DN không hài lòng về nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, internet tại Việt Nam 50 Biểu đồ 3.5: Tỉ lệ trung bình DN ứng dụng phần mềm phục vụ công tác quản lý điều hành trên cả nước (2008 – 2009) 53 Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ DN vừa và nhỏ chi cho hoạt động marketing trong tổng ngân sách 55 Biểu đồ 3.7: Tỷ lệ các DN sử dụng các ngôn ngữ lập trình phần mềm 56 Biểu đồ 3.8: Tỷ lệ DN sử dụng các nền tảng ngôn ngữ lập trình 57 Biểu đồ 3.9: Tỷ lệ DN phần mềm theo số nhân viên 58 Biểu đồ 3.10: Tỷ lệ DN phần mềm theo cơ cấu vốn đầu tư 59 Biểu đồ 3.11: Tỷ lệ trung bình nhân lực theo các vị trí trong một DN vừa và nhỏ 65 Biểu đồ 3.12: Tỷ lệ trung bình nhân lực theo các vị trí trong một DN lớn 66 Biểu đồ 3.13: Tỷ lệ DN triển khai các loại hình đào tạo 67 Biểu đồ 3.14: Tỷ lệ DN vừa và nhỏ đánh giá thách thức cho đầu tư cho R&D 71 Biểu đồ 3.15: Tỷ lệ DN đặt văn phòng ở các địa điểm khác nhau 78 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1: Mối quan hệ giữa các cấp độ cạnh tranh 18 Hình 2.2: Bậc cao nhất của khung phân tích TVC 20 Hình 2.3: Mô hình kim cương (hình thoi) hoàn chỉnh của Porter 21 Hình 2.4: Mô hình Kim cương đúp mở rộng 24 Hình 2.5: Các yếu tố chủ yếu của mô hình APP 26 Hình 2.6: Mô hình phân tích hiện trạng năng lực cạnh tranh ngành CNpPM Việt Nam 28 Hình 3.1: Khung phân tích năng lực cạnh tranh theo nghiên cứu của Stanley Nollen 32 1 Chương 1: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU 1.1. Vấn đề nghiên cứu và ý nghĩa của nghiên cứu Phát triển Công nghệ thông tin (CNTT) nhằm phục vụ cho phát triển đất nước đã được Chính phủ xác định ngay từ đầu những năm 1990 và được cụ thể hóa tại nghị quyết số 49/CP ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT ở Việt Nam. Với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế thế giới, song song đó là sự phát triển của khoa học công nghệ mà nổi bật là lĩnh vực CNTT, thế giới ngày nay đang chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức mà ở đó CNTT đóng vai trò trụ cột trong quá trình phát triển. Xác định được xu thế phát triển tất yếu này, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 58/CT-TW ngày 17/10/2000 về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH HĐH đất nước trong đó nêu rõ: “CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại”. Từ đây, phát triển CNTT và đặc biệt là Công nghiệp phần mềm (CNpPM) là chủ trương được Đảng và Nhà nước ta ưu tiên quan tâm, là một trong những cách đi tắt, đón đầu để thực hiện CNH – HĐH đất nước, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an ninh quốc gia. Quan điểm xuyên suốt quá trình chỉ đạo, điều hành nhằm phát triển ngành CNpPM của Chính phủ đó là: “CNpPM là ngành kinh tế tri thức, công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, tạo ra giá trị xuất khẩu cao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH – HĐH. Nhà nước đặc biệt khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư và phát triển ngành công nghiệp này trở thành một ngành kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế quốc dân” (Quyết định 51/2007/QĐ – TTg). Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển CNTT – TT Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 cũng đã nêu rõ quan điểm “CNTT – TT là công cụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, hình thành xã hội thông tin, rút ngắn quá trình CNH - HĐH đất nước. Ứng dụng rộng rãi CNTT – TT là yếu tố có ý nghĩa chiến lược, góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và tăng năng suất, hiệu suất lao động”. Quan điểm này một lần nữa được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khẳng định tại Diễn đàn CNTT thế giới (WITFOR 2009) diễn ra từ ngày 26-28/8/2009 tại Hà Nội. 2 Nhưng cũng cần phải nhìn nhận một thực tế rằng, sau mười năm phát triển từ khi chỉ thị số 58/CT-TW năm 2000 được ban hành, ngành CNpPM Việt Nam tuy đã có những bước phát triển rất đáng ghi nhận nhưng vẫn chỉ đạt trình độ thấp, không theo kịp sự phát triển của các quốc gia trong khu vực như Ấn Độ hay Trung Quốc như nhận xét của Ông Chu Tiến Dũng, Chủ tịch Hội tin học TP. HCM (HCA) được minh họa trong hộp 1 (xem phụ lục 1). Bên cạnh đó quy mô của ngành còn rất nhỏ bé, năng lực các DN còn yếu, song song đó là sự phát triển còn thiếu tính bền vững và không đồng đều, chưa biến được tiềm năng thành năng lực thực tế để có sự phát triển đột phá (Vụ CNTT, Bộ CNTT – TT, 2009). Vì vậy việc chọn đề tài nghiên cứu “Đánh giá các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của Ngành CNpPM Việt Nam” là cần thiết nhằm phân tích, đánh giá hiện trạng năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam đồng thời xác định rõ những nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM, từ đó đề xuất các giải pháp chính sách để nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành “kinh tế tri thức” này; đồng thời giúp tăng cường thu hút đầu tư và phát triển ngành CNpPM trở thành một ngành kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế quốc dân như quan điểm của Chính phủ đặt ra. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung Đánh giá các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh ngành CNpPM Việt Nam. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Phân tích hiện trạng ngành CNpPM Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh. - Đánh giá các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam. - Gợi ý chính sách để nâng cao khả năng cạnh tranh ngành CNpPM Việt Nam. 1.3. Câu hỏi nghiên cứu: Câu hỏi 1: Hiện trạng về lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam đã và đang diễn ra như thế nào? 3 Câu hỏi 2: Những nhân tố chủ yếu nào tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam và những vấn đề còn tồn tại của những nhân tố này là gì? 1.4. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về ngành kinh tế: + Nghiên cứu hiện trạng năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam. + Nghiên cứu các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh ngành CNpPM Việt Nam. - Phạm vi về thời gian: + Việc phân tích hiện trạng năng lực cạnh tranh ngành CNpPM Việt Nam sẽ được giới hạn trong giai đoạn 2000 - 2010. + Ngoài ra để thực hiện đánh giá các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam, đề tài sẽ dựa trên nguồn dữ liệu khảo sát DN CNTT phục vụ đánh giá năng lực của các đơn vị CNTT do HCA thực hiện vào tháng 6/2010 và nguồn dữ liệu khảo sát toàn cảnh ngành CNpPM năm 2009 – 2010 do Vinasa thực hiện. 1.5. Phương pháp nghiên cứu: 1.5.1 Nguồn dữ liệu: - Nguồn dữ liệu tham khảo từ các đơn vị có liên quan như: Hội tin học TP. HCM (HCA), Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (Vinasa), Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ TT – TT), Tổng cục Thống kê (GSO), báo cáo nghiên cứu của các công ty chuyên tư vấn, nghiên cứu về lĩnh vực phần mềm trên thế giới như Gartner, Tholons, AT Kearney… - Nguồn dữ liệu tham khảo trên báo chí, website, các bài phát biểu của lãnh đạo, chuyên gia tại các sự kiện có liên quan đến CNTT. - Nguồn dữ liệu khảo sát DN CNTT phục vụ đánh giá năng lực của các đơn vị CNTT do HCA thực hiện vào tháng 6/2010. - Nguồn dữ liệu khảo sát toàn cảnh ngành CNpPM Việt Nam năm 2009 và 2010 do Vinasa thực hiện. - Ý kiến đánh giá của các chuyên gia ngành CNTT nói chung và ngành CNpPM nói riêng thông qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp và trên các phương tiện truyền thông. 4 1.5.2 Phương pháp phân tích, xử lý thông tin: Thông tin thứ cấp và sơ cấp được phân loại, tổng hợp theo nội dung và phù hợp với các mục tiêu để làm tiền đề cho việc nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu các thông tin thứ cấp và sơ cấp, tác giả vận dụng phương pháp phân tích thống kê mô tả, so sánh, tổng hợp… để phân tích, đánh giá hiện trạng năng lực cạnh tranh và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam. 1.6. Cấu trúc luận văn: Luận văn gồm 4 chương: Chương 1: Giới thiệu về nghiên cứu bao gồm bối cảnh nghiên cứu và các vấn đề được đặt ra. Chương 2: Tổng quan lý thuyết về năng lực cạnh tranh từ đó lựa chọn khung phân tích đánh giá hiện trạng năng lực cạnh tranh và đánh giá các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam. Chương 3: Phân tích hiện trạng năng lực cạnh tranh và các nhân tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam trên cơ sở khung phân tích đã lựa chọn. Chương 4: Kết luận và một số gợi ý chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành CNpPM Việt Nam căn cứ kết quả phân tích tại chương 3. 5 Chương 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH Trong chương này đề tài sẽ tiến hành tổng hợp một cách tổng quát các lý thuyết về năng lực cạnh tranh để rút ra khung phân tích hiện trạng năng lực cạnh tranh cho ngành Công nghiệp phần mềm (CNpPM) Việt Nam, tuy nhiên điều cần thiết trước tiên là cần tìm hiểu về ngành CNpPM và lý do tại sao ngành CNpPM nên được phát triển. Như vậy chương này nội dung trình bày sẽ bao gồm 6 phần: Phần 1 trình bày về đặc điểm, vai trò của ngành CNpPM trong nền kinh tế; Phần 2 trình bày về lý do để phát triển ngành CNpPM; Phần 3 trình bày các khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh; Phần 4 trình bày các cấp độ của năng lực cạnh tranh; Phần 5 trình bày về các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh và Phần 6 là đúc kết khung phân tích năng lực cạnh tranh ngành CNpPM Việt Nam. 2.1 Đặc điểm, vai trò của ngành CNpPM trong nền kinh tế 2.1.1 Khái niệm về ngành Công nghiệp CNTT và ngành CNpPM - Công nghiệp CNTT: là ngành kinh tế - kỹ thuật công nghệ cao sản xuất và cung cấp sản phẩm CNTT, bao gồm sản phẩm phần cứng, phần mềm và nội dung thông tin số (Điều 4, Luật CNTT). - Công nghiệp phần mềm: CNpPM là ngành công nghiệp quan trọng của CNTT. CNpPM bao gồm các hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ phần mềm (Nghị quyết 07/2000/NQ-CP ngày 05/06/2000). - Phần mềm: là chương trình máy tính được mô tả bằng hệ thống ký hiệu, mã hoặc ngôn ngữ để điều khiển thiết bị số thực hiện chức năng nhất định (Điều 4, Luật CNTT) . 2.1.2 Đặc điểm của ngành CNpPM Là ngành kinh tế tri thức, công nghệ cao: CNpPM là ngành công nghiệp lớn của kinh tế tri thức, trong đó một phân ngành của CNpPM là ngành Công nghiệp sáng tạo (CNST) mà sản phẩm của nó là các phần mềm. Vì vậy sản phẩm ngành CNpPM chứa đựng hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng lao động cơ bắp và hàm lượng nguyên vật liệu thấp. Nói cách khác “nguyên liệu đầu vào” của ngành CNpPM chủ yếu là tri thức và trực tiếp từ bộ não con người tham gia trong quy trình sản xuất. Sản phẩm của ngành CNpPM luôn có sự cải tiến và đổi mới: Ngành CNpPM cho ra những sản phẩm của trí tuệ, có đặc tính cá thể đơn lẻ, đặc thù riêng nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Sản phẩm ra đời sau luôn luôn có sự cải tiến, đổi mới so với sản phẩm trước vì khi trí tuệ con người tham gia cao 6 độ và trực tiếp vào quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ thì luôn có những nét mới (các phiên bản của hệ điều hành Window của Microsoft là ví dụ điển hình). Chi phí cho R&D của ngành lớn với mức độ mạo hiểm cao: Do sản phẩm của ngành CNpPM có đặc tính cá thể đơn lẻ, đặc thù riêng và luôn có sự cải tiến, đổi mới vì vậy hoạt động R&D là một trong những đặc điểm quan trọng của ngành và mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên chi phí cho R&D của ngành là rất lớn nếu so với chi phí sản xuất phần mềm trong khi độ mạo hiểm lại rất cao do chưa chắc chắn về sự thành công. Vì vậy đầu tư cho R&D lĩnh vực CNpPM được xếp vào loại hình ”đầu tư mạo hiểm”. Chi phí R&D có thể chiếm đến 15%-20% doanh thu hàng năm của những DN lớn và khoảng trên 5% doanh thu của những doanh nghiệp trung bình (Trung tâm Nghiên cứu Thượng Hải, 2004:9). Là ngành công nghiệp có giá trị gia tăng lớn, tạo ra giá trị xuất khẩu cao: Do ngành CNpPM là bộ phận cấu thành của nền kinh tế tri thức và là ngành Công nghiệp sáng tạo (CNST) mà sản phẩm của ngành CNST thường có giá trị gia tăng rất cao. Vì vậy sản phẩm ngành CNpPM mang một hàm lượng giá trị gia tăng có thể trên 80% (GSO, ngày truy cập 30/12/2010). Do đó ngành CNpPM đã mang lại những giá trị kinh tế rõ ràng không thể phủ nhận, đóng góp cho sự phát triển kinh tế của quốc gia nói chung và của các tập đoàn, công ty nói riêng. Sự thành công của ngành CNpPM của Ấn độ, hay sự thành công của các tập đoàn nổi tiếng trên thế giới như Microsoft, Google, Facebook và rất nhiều công ty phần mềm khác trên toàn cầu là những ví dụ điển hình. Tuy nhiên cũng do là một ngành CNST và sản phẩm có khả năng sao chép, nhân bản, chuyển giao tới người sử dụng (qua mạng) cho nên sự phát triển của ngành CNpPM bị ảnh hưởng không nhỏ bởi nạn vi phạm bản quyền. Là ngành công nghiệp có tính tích hợp cao: Yếu tố then chốt để một quốc gia đạt được sự phát triển nhanh và bền vững đó chính là sự gia tăng nhanh tốc độ tăng năng suất lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) ở các ngành, các lĩnh vực như: sản xuất, y tế, giáo dục, tài chính, ngân hàng … thông qua đẩy mạnh ứng dụng CNTT – TT trong công tác quản lý và các quy trình sản xuất bên cạnh các yếu tố khác như về môi trường, con người và hệ thống đổi mới. Vì vậy sản phẩm của ngành CNpPM đã thâm nhập và tích hợp vào sâu trong các các ngành, các lĩnh vực và trở thành yếu tố then chốt cho sự phát triển nhanh chóng của các ngành, lĩnh vực này. Số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực là điều kiện then chốt cho sự thành công của ngành công nghiệp phần mềm: 7 Như đã đề cập, CNpPM là ngành công nghiệp mà “nguyên liệu đầu vào” chủ yếu là tri thức, do đó nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là nhân tố quyết định ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và là điều kiện tiên quyết để mang lại sự thành công cho ngành này. Vấn đề này cũng đã được đề cập đến trong nhiều cuộc hội nghị, hội thảo quốc gia về phát triển nguồn nhân lực cho ngành CNTT1 cũng như trong quan điểm chỉ đạo điều hành của Chính phủ về phát triển ngành CNpPM2. Chính phủ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển ngành CNpPM: Vai trò của Chính phủ có thể được xem như vai trò của “bà đỡ” đối với sự phát triển của bất kỳ một ngành công nghiệp nào. Vai trò này còn đặc biệt quan trọng đối với ngành CNpPM thông qua các chính sách hỗ trợ như: giảm các loại thuế, xây dựng các khu công viên phần mềm tập trung; thành lập các quỹ R&D và ươm tạo DN …; các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài; các chính sách phát triển ngành; chính sách phát triển nguồn nhân lực và trên hết là sự hoạt động hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước. Chính phủ đã được Stanley Nollen (2003- 2004) chứng minh có vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành CNpPM Ấn độ và Trung quốc3. 2.1.3 Vai trò của ngành CNpPM trong nền kinh tế: Từ những đặc điểm nêu trên, ngành CNpPM có những vai trò nổi bật như sau: Là ngành kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế quốc dân, góp phần vào tăng trưởng GDP và xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Là ngành công nghiệp góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác cùng phát triển. Trong bối cảnh chung toàn cầu của những chuyển dịch mang tính cơ cấu như cuộc cách mạng CNTT - TT, những tiến bộ nhanh chóng và vượt bậc của khoa học công nghệ, làn sóng toàn cầu hoá kinh tế đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức và cạnh tranh trên quy mô toàn cầu. Vì vậy với đặc điểm của ngành CNpPM là bộ phận cấu thành của nền kinh tế tri thức và sản phẩm của nó mang tính tích hợp cao, đã thâm nhập sâu vào trong các hoạt động quản lý nhà nước, trong tất cả các ngành công nghiệp, dịch vụ, các lĩnh vực và mọi mặt đời sống Ngày 10/1/2010, tại Đà Nẵng, dưới sự chủ trì của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Bộ Giáo dục - Đào tạo cùng Bộ TT-TT đã tổ chức hội thảo quốc gia "Đào tạo nguồn nhân lực CNTT - TT theo nhu cầu xã hội". Ngày 21/4/2010, tại Hà Nội, Bộ Giáo dục -Đào tạo phối hợp với Bộ TT – TT tổ chức Hội nghị quốc gia phát triển nguồn nhân lực CNTT. 2 Xem phụ lục 2 3 Xem chi tiết nghiên cứu của Staley Nollen về năng lực cạnh tranh của ngành CNPM Ấn độ và Trung quốc tại phụ lục 10 1 8 xã hội do đó nó là nền tảng và góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành, lĩnh vực cùng phát triển, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong điều kiện toàn cầu hóa cũng như trong việc đáp ứng các nhu cầu mang tính toàn cầu. Góp phần giải quyết công ăn việc làm và tạo thu nhập cao cho một số lượng lớn lao động trong cả nước. Hết năm 2009, ngành CNpPM Việt Nam có khoảng 64.000 lao động với mức thu nhập bình quân là 4250 USD/người, cao hơn mức bình quân đầu người của quốc gia1 (Bộ TT – TT, 2010:36). Với mức tăng trưởng trung bình khoảng 35%/năm như hiện nay, nhu cầu về nhân lực của ngành CNpPM chắc chắn sẽ tăng cao trong thời gian tới. Cụ thể tại Hội nghị quốc gia về CNTT sáng 21/04/2010 tại Hà Nội, ông Nguyễn Thanh Tuyên, Phó Vụ trưởng Vụ CNTT, Bộ TT-TT cho biết dự báo về sự phát triển của ngành công nghiệp CNTT vào năm 2020, trong đó doanh số của ngành CNpPM Việt Nam sẽ đạt 3,5 tỷ USD. Để đạt được con số doanh thu trên, nhu cầu nhân lực ngành phần mềm vào năm 2020 sẽ là 130.000 người, cao gấp hai lần so với số nhân lực hiện nay (ICTnews, ngày truy cập 29/12/2010). 2.2 Lý do để phát triển ngành CNpPM Thứ nhất: Xuất phát từ vai trò quan trọng của ngành CNpPM trong nền kinh tế Thứ hai: Ngành CNpPM là ngành có nhiều lợi thế so với các ngành kinh tế khác Nếu thực hiện một nghiên cứu định lượng cơ bản sẽ cho ta thấy rõ lợi thế của ngành CNpPM so với các ngành khác của nền kinh tế. Cụ thể đề tài sẽ đề cập đến hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio- Tỷ số vốn /sản lượng tăng thêm) là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn - yếu tố được coi là nhân tố quan trọng nhất ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hệ số ICOR là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư của một lĩnh vực hay của toàn bộ nền kinh tế đóng góp vào sự gia tăng của một đơn vị kết quả sản xuất. Trong một nền kinh tế ở trình độ phát triển còn thấp thì hệ số ICOR của một lĩnh vực hay của quốc gia càng cao nói lên hiệu quả đầu tư càng thấp, tuy nhiên khi nền kinh tế phát triển ở mức độ cao hơn thì hệ số ICOR thường cao hơn và luôn có xu hướng tăng lên vì khi nền kinh tế càng phát triển thì sẽ cần nhiều hơn nguồn lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói riêng để làm tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Theo số liệu thống kê của GSO, thu nhập bình quân/đầu người của Việt Nam năm 2008 đạt 1024 USD, năm 2009 khoảng 1.100 USD và 2010 là 1.200 USD. 1 9 Bảng 2.1: Hệ số ICOR tham khảo của một số quốc gia và của ngành CNpPM Quốc gia ICOR Trung Quốc 2,7 trong giai đoạn 1961- 1980 3,7 trong giai đoạn 1981 -1995 4,0 trong giai đoạn 2000 - 2008 Hàn Quốc 3,0 trong giai đoạn 1961 - 1980 Nhật Thái lan 3,2 trong giai đoạn 1961 - 1970 4,1 trong giai đoạn 1981 - 1995 Việt Nam 4,5 trong giai đoạn 2000 - 2008 Ngành CNpPM (Khu công viên phần mềm Quang Trung) 2 trong năm 2008 Đài Loan Nguồn: Nguyễn Thị Cành (2009), Nguyễn Trọng (2009) Bảng 2.1 cho thấy hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2008 là 4,5, cao hơn so với hệ số ICOR của các quốc gia Châu Á khác vào những thời kỳ mà nền kinh tế của những quốc gia này được xem là có sự phát triển ở mức độ tương tự Việt Nam hiện nay, điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư của Việt Nam nói chung thấp hơn các quốc gia này. Tuy nhiên nếu xét riêng cho ngành CNpPM (do hệ số ICOR của ngành CNpPM hiện chưa có các nghiên cứu vì vậy số liệu trong bảng là số liệu nghiên cứu của khu công viên phần mềm Quang Trung tại TP. HCM và được lấy làm số liệu đại diện ngành) thì hiệu quả vốn đầu tư của ngành CNpPM Việt Nam cao hơn hẳn so với hiệu quả vốn đầu tư của quốc gia . Thứ ba: Là ngành đã được Chính phủ xác định là ngành công nghiệp mũi nhọn và có đủ điều kiện để trở thành ngành công nghiệp chiến lược của đất nước Tại quyết định số 55/2007/QĐ-TTg ngày 23/4/2007 về Phê duyệt Danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn giai đoạn 2007-2010, tầm nhìn đến năm 2020 thì ngành CNpPM và nội dung số là một trong 3 ngành công nghiệp mũi nhọn của quốc gia cùng với ngành cơ khí chế tạo (ô tô, đóng tầu, thiết bị toàn bộ, máy nông nghiệp, cơ điện tử) và thiết bị điện tử, viễn thông và CNTT. Có thể vẫn chưa có đầy đủ cơ sở để xác định đây là những ngành “công nghiệp chiến lược” của nước ta tới năm 2020 do cho đến nay Chính phủ vẫn chưa có văn bản cụ thể xác định những ngành công nghiệp nào được xem là ngành công nghiệp quan trọng và là chiến lược của nước ta cho tới năm 2020 và xa hơn nữa. Tuy nhiên theo Nguyễn Trọng (2009) thì ngành công nghiệp chiến lược là ngành phải thể hiện rõ những đặc trưng sau: 1. Phát huy được những lợi thế tương đối của Việt Nam, đặc biệt là về nguồn nhân lực trình độ cao. 10 2. Có thể phấn đấu đạt khả năng cạnh tranh. 3. Có tiềm năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế. 4. Có tác động lớn thúc đẩy nhiều hoạt động xã hội, nhiều ngành kinh tế khác, tác động tốt đến môi trường, góp phần bảo vệ an toàn, an ninh cho đất nước. Như vậy ngành CNpPM hoàn toàn có thể đáp ứng được những điều kiện trên và có thể trở thành ngành công nghiệp chiến lược của đất nước ta tới năm 2020. Nhận định này cũng đã được khẳng định trong báo cáo của Nguyễn Trọng (2009) [tr.21], đó là “Không có ngành kinh tế nào ẩn chứa tiềm năng mang lại hiệu quả toàn diện và to lớn hơn trong khoảng 10 – 15 năm tới đây cho đất nước ta so với ngành CNpPM và dịch vụ CNTT và khả năng để Việt Nam có mặt trong các quốc gia hàng đầu về CNpPM và dịch vụ CNTT vào khoảng năm 2025 là hiện thực. Trong chiến lược chung phát triển đất nước, ngành CNpPM và dịch vụ CNTT cần được đặt ở vị trí một ngành công nghiệp chiến lược. Khó khăn lớn nhất phải vượt qua là từ nay tới đó, chúng ta cần đào tạo được khoảng 1 triệu kỹ sư phần mềm có trình độ quốc tế. Mục tiêu này không quá tầm tay của chúng ta, nhưng đòi hỏi quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước, sự đồng thuận và những nỗ lực cao độ của toàn xã hội”. 2.3 2.3.1 Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh Khái niệm về cạnh tranh: Hiện nay trong khoa học kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm của thuật ngữ “cạnh tranh”. Tuy nhiên các quan điểm này đều thừa nhận rằng cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế chỉ thực sự xuất hiện và tồn tại đúng nghĩa trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế ở các quốc gia. Vậy cạnh tranh là gì? Mác cho rằng “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất – kinh doanh với nhau nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ”. Ông cũng cho rằng trong chủ nghĩa tư bản, cạnh tranh trở thành sức ép mạnh mẽ từ bên ngoài đối với nhà tư bản hoạt động sản xuất, kinh doanh, thể hiện bản chất cá lớn nuốt cá bé, phản ánh mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa những người chiếm hữu tư bản. Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (1999) định nghĩa: “Cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình” [tr. 259]. Theo định nghĩa này, cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh giữa các đối thủ có cùng chung mục đích để chiếm được vị trí cao nhất. Từ điển kinh tế Kinh doanh của Nguyễn Đức Dỵ (2000) định nghĩa: “Cạnh tranh là sự đối địch giữa các hãng kinh doanh trên cùng một thị trường để giành lấy nhiều khách hàng, do đó nhiều lợi nhuận hơn cho bản thân, thường là bằng cách bán theo giá 11 cả thấp nhất hay cung cấp một chất lượng hàng hóa tốt nhất” [tr. 225]. Quan điểm này mới chỉ xem xét hoạt động cạnh tranh ở góc độ DN, theo đó mục đích của cạnh tranh là tối đa hóa lợi nhuận và phương thức cạnh tranh là hạ thấp giá bán hoặc nâng cao chất lượng hàng hóa. Theo Samuelson (2000) thì: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các DN với nhau để giành lấy khách hàng và thị trường” [tr. 687]. Theo quan điểm này, hiệu quả cạnh tranh chủ yếu dựa trên thực lực của DN, nói cách khác chính là dựa trên năng lực cạnh tranh của DN. Chủ thể cạnh tranh có thể dùng bất cứ phương thức nào miễn là giành thắng lợi chứ không chỉ dừng lại ở việc cạnh tranh về giá cả và chất lượng. Theo Nguyễn Thiềng Đức (2007) thì: “Cạnh tranh được xem là các quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, đối với sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi” [tr.11]. Ngoài những định nghĩa trên, các trường phái kinh tế học hiện đại cũng có nhiều định nghĩa khác về cạnh tranh, Nguyễn Thiềng Đức (2007) đã tổng hợp lại như sau: Thứ nhất: Khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua của các chủ thể cùng tham dự. Mức độ cạnh tranh có thể mở ra ở nhiều cấp độ khác nhau chứ không chỉ dừng lại ở cấp độ DN của một nền kinh tế. Nó bao gồm cấp độ quốc gia (cạnh tranh quốc gia), cấp độ DN (cạnh tranh DN ) và cấp độ sản phẩm (cạnh tranh sản phẩm), còn một cấp độ nữa là cạnh tranh của cấp độ ngành. Thứ hai: Mục tiêu của cạnh tranh là giành lấy phần lợi ích cho mình của chủ thể tham gia cạnh tranh. Mục đích cuối cùng là vươn lên giành lấy thị trường, khách hàng … nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ thể đó. Thứ ba: Cạnh tranh phải diễn ra trong một môi trường cụ thể với những điều kiện cụ thể, trong khoảng thời gian và không gian cố định.Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay cần hiểu phạm vi cạnh tranh ở mức độ rộng hơn. Nó không chỉ diễn ra ở một khu vực địa lý mà còn diễn ra ở những thị trường có liên quan hoặc phân đoạn thị trường đó. Do đó việc tìm kiếm và phát triển thị trường mới cũng là một phương thức cạnh tranh phổ biến hiện nay. Thứ tư: Các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để giành lấy thị trường từ việc định giá bán, chất lượng sản phẩm, khuyến mại, hậu mãi... 12 Như vậy, các định nghĩa về cạnh tranh được nêu ở trên hầu hết đều gắn với các khái niệm “tranh đua”, “đấu tranh”, “kình địch” hay “đối địch” để mô tả mâu thuẫn đối kháng về lợi ích giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay là toàn cầu hóa và hội nhập trên mọi lĩnh vực thì các loại rào chắn sẽ dần dần đều bị dỡ bỏ và cạnh tranh sẽ không hẳn còn là sự kình địch, nhưng cũng không hẳn là sự hòa bình và hợp tác toàn diện để chia sẻ mọi lợi ích vì thế giới hội nhập cũng chính là một thế giới cạnh tranh và những xung đột giữa các đối thủ cạnh tranh để giành lợi ích vẫn luôn luôn xảy ra. Vì vậy theo tác giả, trong một thế giới phẳng thì: Cạnh tranh là sự tranh đua của các chủ thể kinh tế (ở đây có thể là quốc gia, ngành, DN) có cùng chung mục đích trong việc sử dụng các nguồn lực của thế giới một cách tốt nhất tức là phải trả chi phí thấp hơn nhưng tạo ra được sản phẩm tốt hơn nhằm giành được vị thế thuận lợi nhất trong phân phối hay tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Đây chính là ý nghĩa tích cực của một môi trường cạnh tranh tự do trên một sân chơi ngang bằng, bình đẳng và lành mạnh, trong đó mọi chủ thể phải luôn luôn vượt lên chính mình để không bị tụt hậu so với đối thủ. 2.3.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh: Tương tự như khái niệm về cạnh tranh, hiện nay khoa học kinh tế cũng chưa có một khái niệm thống nhất nào về năng lực cạnh tranh. Theo định nghĩa trong Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (1999) thì: “Năng lực cạnh tranh là khả năng một DN giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh để tiêu thụ hàng hóa cùng loại trên cùng một thị trường” [tr. 1172]. Từ điển Thuật ngữ kinh tế học của Nguyễn Hữu Quỳnh (2001): “Năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn hơn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả giành lấy một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp”[tr.349]. WEF (1996), trích trong Roger Flanagan và các cộng sự (2003) cho rằng: “Năng lực cạnh tranh là khả năng một quốc gia đạt được mức tăng trưởng cao và bền vững trong thu nhập bình quân đầu người” [tr. 20]. Ủy ban Châu Âu – EC (1994), trích trong Roger Flanagan và các cộng sự (2003) lại cố gắng kết hợp năng lực cạnh tranh ở cấp độ DN, ngành, vùng, quốc gia hoặc các tổ chức đa quốc gia: “Năng lực cạnh tranh là khả năng của các DN, vùng, quốc gia hoặc các tổ chức đa quốc gia trong việc khẳng định và duy trì vị thế trong cạnh tranh quốc tế để đảm bảo đạt lợi nhuận của các ngành sản xuất cao và tạo được nhiều việc làm trên nền tảng bền vững” [tr. 20]. OECD (1997), trích trong Roger Flanagan và các cộng sự (2003) chọn định nghĩa về năng lực cạnh tranh như sau:“Năng lực cạnh tranh là mức độ mà tại đó, dưới các
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan