Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô việt nam – hiện trạng và ...

Tài liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô việt nam – hiện trạng và một số giải pháp

.DOC
44
131
123

Mô tả:

Ngành công nghiệp ô tô không chỉ giữ một vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển thông qua đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải, góp phần phát triển sản xuất và kinh doanh thương mại mà còn là một ngành kinh tế mạng lại lợi nhuận cao nhờ sản xuất ra những sản phẩm có giá trị vượt trội. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mở rộng hội nhập quốc tế. Quá trình này đòi hỏi và cho phép tất cả các ngành kinh tế nói chung và từng ngành nói riêng vừa có thể phát triển theo hướng sử dụng nhiều lao động, nhưng đồng thời chúng ta cũng có thể đi ngay vào một số ngành, một số lĩnh vực có công nghệ cao, hiện đại, trong đó có ngành công nghiệp ô tô . Sau nhiều năm tìm hướng đi, ngành công nghiệp ô tô của nước ta từng bước hình thành, không những cung cấp cho sản xuất và tiêu dùng trong nước một số lượng ô tô nhất định, giảm bớt phần nhập khẩu, mà còn đóng góp đáng kể vào thu ngân sách và tạo thêm việc làm mới. Sự phát triển của ngành có phần đóng góp không nhỏ của của các nhà đầu tư nước ngoài về vốn đầu tư, về công nghệ và cả kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, sau nhiều năm phát triển, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ thì mới có thể xây dựng được chiến lược tổng thể phát triển ngành công nghiệp này trong thời gian tới một cách khả thi, hiệu quả và bền vững. Chính vì thế, em đã lựa chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam – Hiện trạng và một số giải pháp ” với 3 phần chính: Chương I: Tổng quan về sự ra đời, phát triển của ngành công nghiệp ô tô và sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô. Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp Em xin chân thành cảm ơn GS Tiến Sĩ Đỗ Đức Bình đã tận tình chỉ đạo, hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài của mình. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ SỰ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ VIỆT NAM Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ THẾ GIỚI 1. Sự ra đời của ngành công nghiệp ô tô Để có được một ngành công nghiệp ô tô phát triển rực rỡ như ngày hôm nay, ngành công nghiệp này đã trải qua một thời gian dài mà những nền tảng đầu tiên chính là phát minh ra các loại động cơ. Năm 1887, nhà bác học người Đức Nicolai Oto chế tạo thành công động cơ 4 kỳ và lắp ráp thành công chiếc ô tô đầu tiên trên thế giới. Có thể nói ô tô ra đời là sự kết tinh tất yếu của một thời kỳ nở rộ những phát minh trong cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuât đầu tiên của nhân loại. Từ những chiếc xe thuở ban đầu thô sơ, cồng kềnh và xấu xí ngày càng trở nên nhỏ nhẹ và sang trọng hơn. Không lâu sau ô tô trở nên phổ biến, với những ưu điểm nổi trội về tốc độ di chuyển cao, cơ động, không tốn sức và vô số các tiện ích khác, ô tô đã trở thành phương tiện hữu ích và là một sản phẩm công nghiệp có ý nghĩa kinh tế quan trọng ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Theo lịch sử ngành công nghiệp ô tô thế giới, năm đầu tiên của thế kỷ 20 – năm 1901, trên toàn thế giới đã có 621 nhà máy sản xuất ô tô. Tuy nhiên mốc thời gian đánh dấu sự ra đời chính thức của ngành công nghiệp ô tô phải kể đến năm 1910 khi ông Henry Ford – người sáng lập ra tập đoàn Ford Motor nổi tiếng, bắt đầu tổ chức sản xuất ô tô hàng loạt trên quy mô lớn. Vào những năm 1930 của thế kỷ 20, trước chiến tranh thế giới thứ 2, ô tô đã có được những tính năng kỹ thuật cơ bản. Cùng với những thành tựu khoa học kỹ thuật thời đó, công nghiệp ô tô thế giới đã thực sự trở thành một ngành sản xuất đầy sức mạnh với 3 trung tâm sản xuất chính Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Hầu hết các hãng sản xuất đều có tên tuổi trên thế giới như Ford, General Motor, Toyota, Mercedes-Benz… đều ra đời trước hoặc trong thời kỳ này. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại bùng nổ, ô tô và công nghiệp ô tô có những bước tiến vượt bậc. Những thành tựu khoa học kỹ thuật được áp dụng như vật liệu mới, kỹ thuật điện tử,...đã làm thay đổi cơ bản bản thân ô tô và công nghiệp ô tô cả về mặt kỹ thuật, khoa học công nghệ cũng như về quy mô kinh tế xã hội. Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp Ngày nay, sản xuất ô tô đã trở thành một ngành công nghiệp chủ yếu của thế giới. Công nghiệp ô tô được đánh giá là bộ mặt cho nền công nghiệp mỗi quốc gia. Tổng số ô tô trên thế giới hiện nay khoảng 660 triệu xe. Số lượng này hầu như không tăng giảm trong nhiều năm gần đây và sản lượng ô tô thế giới gần như ổn định quanh con số khoảng 50 -52 triệu xe/năm, tập trung vào 3 trung tâm công nghiệp lớn là Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Đông Nam Á và Châu Á cũng đang nổi lên và có xu hướng là một trung tâm công nghiệp ô tô của thế giới trong tương lai (đáng kể là Hàn Quốc, Thái Lan và Trung Quốc). Các hãng sản xuất ô tô hàng đầu thế giới hiện nay là: TOYOTA, FORD, CHRYSLER, GM, VW, FIAT, NISSAN, MISUBISHI, PEUGEOT,… Ngày nay sản xuất ô tô đã mang tính quốc tế và toàn cầu, sự hợp tác và chuyên môn hoá sản xuất không có biên giới, khoảng cách địa lý và không gian hầu như không có ý nghĩa. Sự đầu tư của các nước đan xen nhau và hoà lẫn nhau. Điều đó giải thích một phần cho sự thâm nhập ồ ạt của các hãng sản xuất ô tô hàng đầu thế giới vào Việt Nam thời gian qua. 2. Đặc điểm của ngành sản xuất ô tô 2.1. Về vốn đầu tư So với vốn đầu tư vào đại bộ phận các ngành công nghiệp khác, vốn đầu tư vào sản xuất ô tô cao hơn rất nhiều, trung bình để sản xuất một xe ô tô cần khoảng 15.000-20.000 USD. Mỗi ô tô có đến 20.000 -30.000 chi tiết, bộ phận khác nhau. Các chi tiết, bộ phận lại được sản xuất với những công nghệ có đặc điểm khác biệt, do vậy vốn đầu tư cho việc sản xuất 20.000- 30.000 chi tiết thường rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm của ngành là không ngừng vận dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Vì thế, ngoài các khoản chi phí ban đầu bao gồm chi phí xây mới nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật, đào tạo công nhân lành nghề,…và các khoản chi thường xuyên như mua nguyên vật liệu, bảo dưỡng nhà xưởng, máy móc, bảo quản hàng hoá,…thì chi phí cho công tác nghiên cứu và triển khai (R&D) trong lĩnh vực ô tô cũng chiếm một Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 3 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp phần đáng kể trong tổng vốn đầu tư ban đầu và tăng thêm. 2.2. Về công nghệ kỹ thuật Đây là lĩnh vực đòi hỏi công nghệ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Một sản phẩm ô tô được tung ra trên thị trường là sự kết hợp của hàng nghìn, hàng vạn chi tiết các loại, không giống nhau. Mỗi chi tiết đều có những tiêu chuẩn kỹ thuật riêng và được chế tạo theo phương pháp riêng ở những điều kiện khác nhau nhưng vẫn đảm bảo tính đồng bộ của sản phẩm. Khi công nghiệp ô tô phát triển, xuất hiện nhiều chi tiết vượt quá khả năng thao tác của con người, yêu cầu phải có sự trợ giúp của máy móc kỹ thuật. Máy móc kỹ thuật càng hiện đại càng giảm bớt sự nặng nhọc và nguy hiểm; nhưng điều quan trọng hơn là dưới sự điều khiển của con người, những máy móc hiện đại có thể chế tạo và lắp ráp các chi tiết thành sản phẩm cuối cùng với xác suất sai sót không đáng kể. 2.3. Về sản phẩm Đặc điểm nổi bật của ngành là sản phẩm mang giá trị rất cao. Chiếc xe ô tô từ rất lâu đã không còn được coi chỉ là phương tiện đi lại đơn thuần mà các nhà chế tạo đã không ngừng trang bị cho nó vô số tiện ích khác, khiến cho ô tô giờ đây như một biểu tượng của sự giàu có, thịnh vượng. Một chiếc xe ô tô có giá trị từ chục nghìn đôla cho đến hàng trăm nghìn đô. 2.4. Về mạng lưới tiêu thụ Do đặc tính sản phẩm mang giá trị cao, cần thiết phải được hưởng các dịch vụ chăm sóc sau bán hàng khá thường xuyên như bảo dưỡng, sửa chữa… Chính vì thế từ khi ra đời ngành công nghiệp ô tô đã chọn cách tiêu thụ sản phẩm của mình thông qua các đại lý mà không bán hàng trực tiếp. 2.5. Về lao động Hiện nay, ngành sản xuất ô tô không còn sử dụng một số lượng lớn lao động như thời kỳ trước và như một số ngành sản xuất vật chất khác (lương thực, dệt may, khai khoáng,…) Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 4 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp do đã áp dụng nhiều tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Trong phần lớn các nhà máy lắp ráp ô tô trên thế giới, người ta ít thấy bóng dáng con người, công việc sản xuất đều do các rôbôt đảm nhận, con người chỉ điều khiển máy móc chính. Do vậy, số lượng lao động làm việc trong ngành không cao. Thêm vào đó, để có thể sử dụng thành thạo các máy móc hiện đại, những người công nhân phải có tay nghề cao, được đào tạo bài bản, đòi hỏi có chi phí lớn và thời gian dài cho đào tạo. Mặc dù ưu thế của các nước đang phát triển là có nguồn nhân công dồi dào với tiền công thấp nhưng hạn chế lớn trong ưu thế này lại là chất lượng nguồn lao động không cao. Vì vậy, có thể khẳng định ngành không tận dụng được nhiều lợi thế so sánh về nguồn lao động của các nước đang phát triển (dồi dào về số lượng, chi phí nhân công thấp). Thêm vào đó có thể thấy được đây là một khó khăn lớn cho các nước đang phát triển trong quá trình xây dựng và phát triển ngành công nghiệp ô tô bởi đây là một ngành khá mới mẻ, kiến thức nghề nghiệp và kinh nghiệm của người công nhân còn non. 3. Vai trò của ngành công nghiệp ô tô Bên cạnh vai trò cung cấp phương tiện đi lại tối ưu, từ việc gắn chặt với các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghiệp ô tô còn đóng vai trò thúc đẩy phát triển khoa học kỹ thuật của các quốc gia có ngành sản xuất ô tô, đặc biệt là khoa học điện tử, tự động hoá, công nghệ vật liệu mới. Đối với các nước có nền kinh tế ít phát triển thì việc xây dựng ngành công nghiệp ô tô từ sự trợ giúp của nước ngoài đã thúc đẩy tiến bộ trong kỹ thuật và công nghệ không chỉ cho riêng ngành công nghiệp ô tô mà còn tác động đến nhiều ngành liên quan khác như ngành hoá chất, điện tử,… Một vai trò không kém phần quan trọng của ngành công nghiệp ô tô thế giới là việc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa thông qua việc quốc tế hóa của các tập đoàn ô tô khổng lồ trên thế giới và xúc tiến quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước kém phát triển. Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 5 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp Như vậy, vai trò then chốt của ngành công nghiệp ô tô trong phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia là không thể phủ nhận. Công nghiệp ô tô không chỉ là một ngành sản xuất vật chất đơn thuần mà nó còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực có liên quan và là động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng các thành tựu khoa học - kỹ thuật ở các quốc gia có ngành công nghiệp này. II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KHU VỰC 1. Châu Âu và Mỹ Ngành công nghiệp ô tô của Mỹ và Châu Âu đã được hình thành từ rất sớm. Theo hiệp hội các nhà sản xuất ô tô quốc tế, cứ 3 xe sản xuất tại Mỹ thì có một xe mang nhãn hiệu nước ngoài, do các nhà sản xuất nước ngoài đầu tư tại Mỹ làm ra. Cứ 3 xe xuất khẩu tại Mỹ thì có 2 xe của các hãng nước ngoài va số xe nước ngoài xuất khẩu từ Mỹ bằng tổng số xe 2 hãng lớn của Mỹ là Ford Motor và Chrysler cộng lại. Đứng trước tình hình này, ngành công nghiệp ô tô của Mỹ đang có xu hướng quốc tế hoá. Để chống lại ảnh hưởng của các hãng nước ngoài, các nhà chiến lược công nghiệp ô tô Mỹ đã tiến hành một chiến lược vươn ra nước ngoài. Điển hình cho hướng đi này là sự hợp nhất giữa Chrysler và Daimler Benz của Đức để lập Daimler Chrysler AC. Ford Motor cũng tham gia đấu thầu mua Kia của Hàn Quốc và mua nhiều cổ phiếu của các nhà sản xuất ô tô khác. 2. Nhật Bản Ở Nhật Bản, trước chiến tranh thị trường ô tô còn nhỏ bé, nói tới ngành công nghiệp ô tô chỉ là nói tới những xe tải dùng cho quân sự. Sau chiến tranh, do chỉ có một số nhà máy chế tạo phụ tùng nên Nhật Bản không có điều kiện hình thành ngành công nghiệp ô tô sau chiến tranh, nhà nước cũng không chủ động tham gia vào ngành công nghiệp ô tô và cũng Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 6 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp không có chính sách phát triển ngành công nghiệp ô tô tư bản dân tộc. Việc cấm sản xuất ô tô thương phẩm được quân chiếm đóng bãi bỏ vào năm 1948, tiếp đó là việc bãi bỏ lệnh cấm sản xuất ô tô con vào năm 1950 đã tạo ra sự phục hồi cho ngành ô tô và nền kinh tế nói chung. Ít lâu sau đó, Nhật Bản đã có 11 hãng xe ô tô. Do sức ép của việc phải trả khoản tiền bồi thường chiến tranh nên Nhật Bản chủ trương hạn chế nhập khẩu ô tô. Được đảm bảo về thị trường nên các nhà sản xuất láp ráp ô tô với những kỹ thuật nhất định đã dần đưa kỹ thuật từ bên ngoài vào để tăng cường trình độ kỹ thuật cho mình. Trong khi đó các nhà sản xuất phụ tùng trong quá trình phát triển và chọn lọc đã dần tích tụ dưới hình thức hệ thống hoá hoặc tự chuyển sang sản xuất. Trong chiến tranh Triều Tiên năm 1952, Nhật Bản trở thành căn cứ sửa chữa xe cấp bách cho Liên hợp quốc nên năm 1956 luật biện pháp lâm thời để khôi phục ngành cơ khí đã được ban hành nhằm hiện đại hoá ngành sản xuất phụ tùng ô tô. Năm 1963 việc nhập khẩu ô tô được tự do hoá nhưng lúc này các hãng ô tô đã có được sức cạnh tranh quốc tế. Quá trình phát triển sau đó bị chi phối bởi chính sách công nghiệp ô tô của Mỹ-nơi vốn là thị trường xuất khẩu lớn nhất. Vì lo ngại sẽ để mất thị trường nếu không đối phó với luật làm cho sạch môi trường không khí được thực hiện ở Mỹ năm 1970 và kế hoạch thực nghiệm các loại xe an toàn do chính phủ Mỹ khởi xướng năm 1972, các hãng sản xuất lắp ráp ô tô đã đổ xô vào việc phát triển kỹ thuật độc lập với ý muốn của chính phủ. Năm 1973 khủng hoảng dầu lửa nổ ra, các xe tiêu thụ ít nhiên kiệu được hoan nghênh ở thị trường trong nước và kết quả là chiến lược đối phó này đã thành công trong việc mở rộng thị trường Mỹ. Như vậy thành công của ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản dựa vào chính sách bảo hộ dưới dạng các quy định cấm nhập khẩu xe ô tô được thực hiện đến năm 1963 và các quy chế về thuế quan. Trong bối cảnh cấm tư bản nước ngoài tham gia vào thị trường ô tô đến năm 1971, các hãng sản xuất vẫn đạt hai mục tiêu là thay thế nhập khẩu và thu ngoại tệ. Đồng thời thành công này còn nhờ vào ân huệ gián tiếp được hưởng bởi chính sách công nghiệp đối với các ngành khác trong nước; thêm vào đó là các hãng ô tô biết tranh thủ tốt những thay đổi về điều kiện quốc tế. Số liệu ở bảng sau là một minh chứng cho thành công này. Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 7 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp 3. Các nước ASEAN Các nước ASEAN (trừ Brunei do những điều kiện riêng về dân số và địa lý là không xây dựng ngành công nghiệp ô tô) đã sớm xây dựng ngành công nghiệp ô tô của mình từ những năm 60. Riêng Singapore không sản xuất ô tô mà chỉ sản xuất phụ tùng. Bốn nước Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia đều có nhà máy lắp ráp và sản xuất chi tiết, bộ phận ô tô đạt mức nội địa hoá cao: Malaysia đạt tỷ lệ nội địa hoá xe Proton đến 90%, Thái Lan đạt mức bình quân là 60%,…Tuy nhiên, do sức mua còn nhỏ, thị trường hẹp bốn nước này đã sớm có sự phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong sản xuất để trao đổi với nhau trong chương trình được gọi là BBC (Brand to Brand Complementation). Bằng cách đó, mỗi nước có thể sản xuất với số lượng lớn để trao đổi với các nước các bộ phận chi tiết mình không sản xuất, do đó tuy nhu cầu của từng nước là nhỏ nhưng sản lượng sản xuất vẫn lớn và có hiệu quả. Dẫn đầu trong ngành công nghiệp ô tô khu vực là Thái Lan với điểm khởi đầu là năm 1961 từ việc lắp ráp ô tô và hiện nay đã tiến đến xuất khẩu các loại xe và phụ tùng. Chính phủ Thái Lan luôn có sự quan tâm sát sao đối với ngành công nghiệp quan trọng này. Khởi đầu của chính sách công nghiệp ô tô Thái Lan là năm 1971, Chính phủ đề ra việc hạn chế loại xe lắp ráp và đặt nghĩa vụ phải đạt tỷ lệ sản xuất ô tô trong nước là 25%. Năm 1978, cùng với việc cấm nhập khẩu CBU các xe con loại chưa đến 2300cm 3 và xe buýt cỡ lớn, đánh thuế 200% giá CIF đối với xe con loại trên 2300cm3 và 100% giá CIF đối với các xe hàng nói chung và nhằm bảo hộ các hãng sản xuất lắp ráp, Chính phủ đã đề ra chính sách phát triển sản xuất ô tô trong nước. Theo chính sách này, tỷ lệ sản xuất ô tô con trong nước từ tháng 8 năm 1982 trở đi phải đạt 40%, ô tô chở hàng từ tháng 01/1983 là 35%, còn sau đó mỗi năm tăng thêm 5%. Thế nhưng kết quả thực tế lại không theo được quy định này, do đó năm 1981 đã có sự sửa đổi quy định mục tiêu đặt ra đối với ô tô con năm 1986 là 50%, xe chở hàng năm 1988 là 70%. Trong tình hình quy định tư bản nước ngoài chỉ được tham gia vào xí nghiệp Thái Lan mức dưới một nửa vốn, các xí nghiệp sở tại đã tiến hành liên doanh, nỗ lực đưa kỹ Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 8 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp thuật vào để phục vụ quá trình nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong nước và phát triển sản xuất động cơ trong nước. Do vậy, xe ô tô sản xuất trong nước, với tính năng tác dụng phù hợp với điều kiện tình hình của Thái Lan hay cái gọi là ô tô châu á (Aisa car) đã được các hãng bán ra. Loại xe này không chỉ sử dụng trong nước mà đã xuất khẩu được sang các nước lân cận và một số nước châu Phi. Thị trường xe ô tô của Thái Lan, đặc biệt là của loại xe thương dụng nhỏ, cabin kép phát triển rất mạnh, chiếm tới 55-60% sản lượng xe ô tô của Thái Lan trong khi sản lượng xe con chỉ khoảng 30%. Trong nhập khẩu về phụ tùng ô tô và ô tô, Thái Lan nhập chủ yếu từ Nhật Bản, chiếm tới 66% giá trị nhập khẩu, phần còn lại là nhập từ các nước ASEAN. Nhìn chung ngành công nghiệp ô tô các nước ASEAN đều trải qua các giai đoạn: Các bước đi của công nghiệp ô tô các nước ASEAN và Châu Á Býớc 1: Býớc 2: Býớc 3: Býớc 4: Những nãm 60 Những nãm 70 Những nãm 80 Những nãm 90 Phát triển công Bắt ðầu sản xuất Ðẩy mạnh sản Coi trọng tự do nghiệp lắp ráp ô chi tiết và bộ xuất các chi tiết cạnh tranh và tô trong nýớc phận nýớc ở trong là bộ phận ở thị trýờng tự do trong nýớc Giai Giai ðoạn của chính sách bảo hộ và phát triển ðoạn khuyến khích tự do cạnh tranh Nguồn: Bộ Công nghiệp Khác với trước đây, các nước ASEAN đã hình thành một thị trường thống nhất, điều này có lợi cho những nước có nền công nghiệp phát triển sớm và mạnh nhưng lại bất lợi đối với những nước có nền công nghiệp yếu (các nước chậm phát triển trước sau cũng sẽ là thị trường rộng lớn cho các nước công nghiệp phát triển). Thời điểm lịch sử về bài học ASEAN về phát triển ô tô đã qua, Việt Nam không thể lặp lại bài học của ASEAN được, lại càng Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 9 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp không thể học Hàn Quốc, Đài Loan là những nước được sự bảo trợ về kinh tế chính trị, quân sự, viện trợ rất lớn của Mỹ về vốn và công nghệ (do hoàn cảnh địa lý, chính trị, sau chiến tranh Trung Quốc, Triều Tiên của họ). Việt Nam không có giá đối với các nước Âu, Mỹ như Hàn Quốc, Đài Loan, nên không có gì đáng để họ ưu tiên, ưu đãi đầu tư trong công nghiệp sản xuất ô tô. Có thể nói, cơ hội cho công nghiệp ô tô Việt Nam phát triển là rất ít, cơ hội đó càng bé theo thời gian khi mà sự hội nhập càng sâu rộng, sự độc lập về kinh tế của mỗi nước càng ít đi, và sự phụ thuộc lẫn nhau càng nhiều nên, nước lớn sẽ lấn át nước nhỏ. Tuy nhiên ở chừng mực nào đó, ta vẫn có thể rút ra bài học rất quan trọng từ công nghiệp ô tô ASEAN và Châu Á là: vai trò của Nhà nước trong việc hoạch định ra chiến lược, các chính sách đối với ngành công nghiệp ô tô, phù hợp với bối cảnh thế giới, khu vực và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ Giao thông vận tải là một yếu tố cực kì quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của một đất nước, giúp cho hàng hóa được lưu chuyển dễ dàng, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế xã hội, nhu cầu của con người ngày càng được nâng cao, do đó nhu cầu lưu thông hàng hóa và những đòi hỏi về đi lại ngày càng tăng. Có thể nói trong giai đoạn hiện nay, khi xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sôi động, người ta càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của giao thông vận tải. Nếu trên không trung máy bay chiếm ưu thế về tốc độ thì dưới mặt đất ô tô và vận tải ô tô lại chiếm ưu thế về năng lực vận chuyển và khả năng cơ động. Ô tô có thể hoạt động trên nhiều dạng địa hình và vận chuyển một khối lượng hàng hóa nhiều hơn bât cứ lạo phương tiện nào khác.Vì vậy nếu phát triển ngành công nghiệp ô tô sẽ góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi theo nền kinh tế thị trường có sự đinh hướng của Nhà nước. Với chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, kinh tế nước ta Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 10 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp có những bước tiến vượt bậc: sản xuất phát triển, khối lượng hàng hóa ngày một gia tăng. Hàng hóa sản xuất ra phải sử dụng các phương tiện chuyên chở. Ô tô chiếm ưu thế hơn hẳn các phương tiện vận tải khác. Hơn nữa, do đặc thù sản phẩm của ngành công nghiệp ô tô là các phương tiện vận tải, các loại xe, máy thiết bị chuyên dùng nên chúng ta cũng cần xây dựng và hoàn thiện hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp này. Một tác động thuận chiều, nếu chúng ta có hệ thông hạ tầng cơ sở tốt sẽ góp phần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và lưu thông hàng hóa ngày càng tăng, chúng ta cần có một ngành công nghiệp ô tô lớn mạnh với công nghệ tiên tiến hiện đại, đủ sức làm đầu tầu kéo các ngành công nghiệp khác cùng phát triển. Chính vì những lý do trên, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển ngành công nghiệp ô tô trong giai đoạn đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa là điều hết sức cần thiết, đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của bản thân ngành công nghiệp ô tô mà còn cần sự giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và các ngành sản xuất khác. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ VIỆT NAM I. TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ TIÊU THỤ Ô TÔ Ở VIỆT NAM 1. Sự ra đời của ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 11 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp Từ cuối những năm 60, sản xuất ô tô vẫn chỉ là mơ ước của ngành cơ khí Việt Nam. Định hướng xây dựng công nghiệp ô tô trong thời kỳ này là đi từ sản xuất phụ tùng cơ bản rồi nâng dần lên sản xuất ô tô hoàn chỉnh đã sớm bộc lộ tính không hiện thực. Như vậy, có thể nói từ năm 1991 trở về trước, Việt Nam chưa có ngành công nghiệp lắp ráp và chế tạo ô tô. Tháng 6 /1991 Chính phủ Việt Nam cấp giấy phép cho một số công ty liên doanh lắp ráp ô tô đầu tiên: Công ty LD MEKONG có công suất thiết kế 10.000 xe/ năm. Ngay sau đó, công ty này đã xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh một nhà máy lắp ráp dạng CKD công suất 10.000 xe/ năm, năm 1992 một nhà máy nữa của công ty lại ra đời tại khu vực Cổ Loa, Đông Anh- Hà Nội để lắp ráp xe cỡ trung và cỡ lớn, công suất 20.000 xe/ năm. Cũng thời gian này, tháng 8/1991, công ty liên doanh VMC của nhà máy ô tô Hoà Bình với công suất thiết kế 10.900 xe/ năm cũng được phép hoạt động. Đây chính là những cơ sở ô tô ra đời sớm nhất. Tuy là 2 liên doanh hoàn toàn không có tên tuổi trong công nghiệp ô tô thế giới, ít vốn, năng lực công nghệ và kỹ thuật còn thấp, nhưng thực sự đã mở đầu cho công nghiệp ô tô Việt Nam và tạo nên sức hấp dẫn cho các hãng ô tô hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam sau khi Mỹ bỏ cấm vận vào giữa năm 1995. Cũng cần phải nói thêm rằng ở thời điểm 1991, không một hãng ô tô có uy tín nào muốn đầu tư vào Việt Nam để sản xuất, lắp ráp. Họ chỉ muốn bán xe nguyên chiếc hoặc ít ra là lắp ráp SKD để không phải đầu tư nhiều về thiết bị, công nghệ. Nhưng mới chỉ sau 5 năm, đến tháng 9/1996 trên toàn quốc, chúng ta đã có tới 14 công ty liên doanh sản xuất, lắp ráp ô tô hợp tác với hầu hết các hãng nổi tiếng thế giới. (Xem bảng ) Bảng 1: Danh mục các Công ty liên doanh ô tô đã được cấp giấy phép đầu tư Các bên liên doanh Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C -Bên Việt Nam -Bên nýớc ngoài -%góp vốn -%góp vốn 12 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp 1 Công ty LD 20.000 MEKONG Cổ Loa No208/GP 2 -Nhà máy cõ khí -Selio ngày -Nhà Co. Ltd(Nhật Bản) máy -Sae Young Inter 26/6/1991 SAKYNO Inc.Ltd (Ðã sản xuất từ nãm -30% Quốc ) 1992) Công ty LD VMC -70% -Nhà máy ô tô -Columbian Motor No 228/GP 20.000 ngày (Hàn Hoà Bình Corp. (Phillipine) 19/8/1991 -Trancimex -Imex-Pan (Ðã sản xuất từ nãm -30% (Phillipines) 1992) 3 Machinery -70% Công ty LD 9.500 VIDAMCO No Pacific 744/GP -Nhà máy 8798 -Daewoo -35% Corporation ngày (Hàn Quốc) 11/12/1993 -65% (Ðã sản xuất từ nãm 1996) 4 Công ty LD 17.800 VINASTAR No 847/GP -Vietranscimex -Proton (Malaysia) -25% -Mitsubishi Motor ngày corp (Nhật) 23/4/1994 -75% (Ðã sản xuất từ nãm 5 1995) Công ty LD 11.000 -SAMCO -Daimler Benz MERCEDES-BENZ -Nhà máy “ tô 1/5 -Investment No -30% 1205/GP ngày 14/4/1995 Singapore Pte. Ltd -70% (Ðã sản xuất từ 1996) Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 13 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp 6 Công ty LD VINDACO No 7 1206/GP 10.000 ngày - Nhà máy 19/8 -Astra -34% (Indonesia) 14/4/1995 -Mitra (Ðã sản xuất từ nãm (Indonesia) 1996) Công ty LD SUZUKI No 1212/GP 10.000 ngày 22/4/1995 -Nhà -66% máy -Suzuki Inter Corp Motor VIKYNO Co.Ltd (Nhật) -30% -Nissho Iwai Co. Ltd (Nhật) 8 Công ty LD FORD No 1365/GP 26.000 ngày 5/9/1995 9 Công ty LD 17.000 CHRYSLER No 1366/GP ngày -70% -Công ty Diezen -Ford Motor Corp Sông Công (Mỹ) -25% -75% Nhà máy - Chrysler inter Corp VINAPPRO (Mỹ) -30% -70% 5/9/1995 10 Công ty LD TOYOTA No 1367/GP 20.000 ngày -Tổng công ty máy -Toyota Motor Corp ðộng lực và máy (Nhật) 5/9/1995 nông nghiệp -KUO (Asia) Pte.Ltd -20% (Singapore) -80% 11 Công ty ISUZU No 16/GP 6000 ngày 19/10/1995 12 Công ty LD Việt- Sin No 1500/GP 2.200 ngày 16/2/1996 Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C -SAMCO -ISUZU Corp -GOVIMEX -ITOCHU Corp -30% -70% -Trancimex -SinBus Engineering -30% Pte.Ltd (Singapore) -70% 14 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp 13 Công ty LD Hino No 1599/GP 2.600 ngày 18/5/1996 14 Công ty LD NISSAN No 1687/GP 3.600 ngày 30/9/1996 -Nhà máy sửa chữa -Hino Motor Ltd. ô tô số 1 -Sumitomo Corp -33% -77% -Nhà máy cõ khí ô -Nissan Motor tô Ðà Nẵng Co.Ltd -25% -Marubeni Corp -Tan Chong & Son Motor Sdn Bhd (Malaysia) -75% Nguồn: Bộ Công Nghiệp Mục tiêu lâu dài của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam là phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trên cơ sở tiếp thu và ứng dụng công nghệ tiên tiến của thế giới, kết hợp với khai thác và từng bước nâng cao công nghệ và thiết bị hiện có, đáp ứng phần lớn nhu cầu thị trường ôtô trong nước, hướng tới xuất khẩu ôtô và phụ tùng. Như vậy, nếu như quan điểm xây dựng công nghiệp ô tô Việt Nam thủa sơ khai là đi từ sản xuất phụ tùng cơ bản rồi nâng dần lên ô tô đã không có tính thực tiễn thì nay đã được thay thế bởi con đường đi từ lắp ráp ô tô rồi tiến hành từng bước nội địa hoá sản xuất phụ tùng như các nước ASEAN và Châu Á đã trải qua. 2. Tình hình cung cấp tiêu thụ ô tô ở Việt Nam 2.1. Tình hình tiêu thụ ô tô ở Việt Nam Từ đầu thập kỷ 90 đến nay lượng ô tô nhập khẩu và đăng ký mới ở nước ta ngày càng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước. Theo báo cáo tổng kết của Hiệp hội các nhà Sản xuất Ôtô Việt Nam (VAMA), tổng số xe tiêu thụ của các thành viên trong năm 2009 đã đạt gần 120 nghìn chiếc. Trong tháng 12/2009, tổng sản lượng bán hàng của tất cả các thành viên VAMA tiếp tục tăng nhẹ so với Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 15 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp tháng 11/2009, đạt 15.065 xe (trong khi tháng 11 lượng xe tiêu thụ là 12.259 xe). Tuy nhiên, nếu so sánh với cùng kỳ năm 2008 (9.497 chiếc) thì con số tăng trưởng cũng khá ấn tượng, với 59%. Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề từ khủng hoảng kinh tế, nhưng năm 2008 đã được coi là năm tiêu thụ kỷ lục của toàn ngành tính đến thời điểm tổng kết năm, với tổng số xe tiêu thụ là 111.946 chiếc. Nhưng tình hình bán hàng của toàn bộ năm 2009 đã sáng sủa hơn, với mức tăng 7% so với tổng doanh số cả năm 2008, đạt 119.460 xe. Bảng 2: 10 xe tiêu thụ mạnh nhất năm 2009 TT Nhà sản 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 xuất Toyota Toyota Toyota Toyota GM Daewoo Ford GM Daewoo GM Daewoo Honda Truong hai Mẫu xe Innova Corolla Altis Fortuner Vios Spark Everest Lacetti Gentra Civic Morning Tiêu thụ 8,475 6,468 5,878 5,141 4,603 3,642 3,286 3,245 3,146 2,689 Nhưng mức cầu này chưa làm hài lòng các nhà hoạch định kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế và chưa bằng 50% nhu cầu dự báo của các hãng sản xuất, lắp ráp ô tô ở Việt Nam. Nguyên nhân chính của việc chậm mở rộng thị phần ô tô của nước ta là do giá thành ô tô còn quá cao, chưa phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam. 2.2. Tình hình cung cấp ô tô trong nước Ô tô nước ta được cung cấp từ hai nguồn chính là nhập khẩu và do các liên doanh lắp ráp và chế tạo ô tô trong nước cung cấp. Công nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô Việt Nam thời gian qua phát triển chậm nhưng cũng đã sản xuất ra nhiều sản phẩm, thay thế gần như toàn bộ số lượng xe ô tô cũ kỹ của Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 16 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp Đông Âu trước đây. Nhiều kiểu mẫu xe tiên tiến đang thịnh hành ở các nước công nghiệp phát triển như Iveco Turbo Daily, BMW 325i, Mitsubisshi Pajero, Ford Laser, Toyota Camry,…đã được các nhà sản xuất ô tô liên doanh với Việt Nam đưa vào nước ta, đáp ứng phần nào nhu cầu các loại xe du lịch cho các cơ quan, công sở và các quan chức Nhà nước. Tổng sản lượng ô tô tại Việt Nam tính từ ngày cấp giấy phép đầu tư đầu tiên là 68.196 xe với nhiều loại xe khác nhau. Sản lượng bình quân năm của mỗi liên doanh là 1300/năm và mỗi loại xe sản xuất tại Việt Nam chỉ có sản lượng bình quân là 378 xe/năm. Trong khi đó với số chủng loại xe này nếu được sản xuất ở 1 số nước khác trong khu vực thì sản lượng của họ gấp nhiều lần của Việt Nam, ví dụ sản lượng ô tô năm 1992 của Hàn Quốc là 1.754.500 xe. Điều này cho thấy sự nhỏ bé về quy mô sản xuất của ngành công nghiệp ô tô nước ta. Khi so sánh với quy mô bình quân của ASEAN thì quy mô sản xuất của các nhà sản xuất ô tô Việt Nam mới chỉ bằng 1% . Thêm vào đó, những cơ sở sản xuất ô tô tại Việt Nam tỏ ra thiếu quan tâm đến các loại xe thương dụng, đặc biệt là xe thương dụng chở hàng và chở khách sang trọng và tiện nghi vừa phải, hợp với sức mua và giá cước vận tải ở Việt Nam. Hầu hết hai loại xe này vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài vào dưới hình thức xe đã qua sử dụng (dưới 4 năm) hoặc nhập khẩu sau đó đóng vỏ tại Việt Nam, gây lãng phí nguồn lực, ngoại tệ và tạo điều kiện cho sự tồn tại của các xe thương dụng cũ kỹ ở Việt Nam. Cho đến nay, mặc dù Nhà nước đã có chính sách hạn chế và cấm nhập khẩu xe nguyên chiếc để dành thị trường nội địa cho các liên doanh lắp ráp và chế tạo ô tô trong nước song số lượng xe được tiêu thụ là xe nhập khẩu vẫn chiếm tỷ trọng lớn. 2.3. Tình hình nhập khẩu ô tô Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về doanh số bán ra của ô tô do các liên doanh trong nước sản xuất thì lượng ô tô nhập khẩu cũng tăng trưởng với tỉ lệ tương đối cao Mặc dù kinh tế khó khăn song giá trị kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng ô tô năm Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 17 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp 2008 vẫn cao kỷ lục, đạt mức 2,44 tỷ USD. Trong đó, giá trị kim ngạch nhập khẩu các loại ôtô nguyên chiếc đạt hơn 1 tỷ USD. Theo Tổng cục Thống kê, ước tính riêng tháng 12/2008 giá trị kim ngạch nhập khẩu ôtô nguyên chiếc đã đạt 57,3 triệu USD với khoảng 2.000 chiếc được đưa về nước, cao hơn tháng trước đó13,6 triệuUSD về giá trị và 500 xe về số lượng. Như vậy, giá trị kim ngạch nhập khẩu các loại sản phẩm ôtô năm 2008 đã cao hơn năm 2007 tròn 1 tỷ USD. Riêng với ôtô nguyên chiếc, kim ngạch nhập khẩu năm 2008 đã tăng gần gấp đôi so với năm trước về giá trị và tăng 22.400 chiếc về số lượng. Trong giai đoạn đầu năm 2009, doanh số xe lắp ráp trong nước (CKD) và xe nhập khẩu nguyên chiếc (CBU) đều thấp do những tác động từ chính sách thuế. Việc thắt chặt tín dụng từ các ngân hàng cũng đã gây ra ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường. Tuy nhiên, đến đầu tháng 6/2009, lượng xe nhập khẩu bán ra bắt đầu tăng nhanh do những tác động can thiệp từ chính sách vĩ mô. Theo ước tính, ôtô nguyên chiếc nhập khẩu trong năm 2009 ước đạt khoảng 76.300 xe và đạt giá trị khoảng 1,71 tỷ USD. Đây là mức cao nhất từ trước tới nay. Còn so với năm 2008, nhập khẩu xe ôtô nguyên chiếc đã tăng đến 49,4% về lượng và 12,6% về giá trị. Tuy nhiên, trong sự tăng trưởng chung đó, doanh số bán hàng xe nhập khẩu nguyên chiếc đã qua sử dụng lại sụt giảm khoảng 15%, những thương hiệu như Hyundai, Toyota và Kia đã có mức giảm mạnh nhất. II. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam 1. Quy mô vốn FDI Tính đến thời điểm này, các dự án liên doanh có tổng số vốn đăng ký chiếm 10,1% vốn đầu tư nước ngoài thuộc khu vực công nghiệp nặng và 3,77% trong toàn ngành công nghiệp Việt Nam. Trong đó vốn FDI bằng 71,6% tổng vốn đăng ký. So với tổng số vốn của ngành cơ khí Việt Nam thì tổng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp ô tô trong những năm qua Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 18 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam - Hiện trạng và một số giải pháp là con số đáng kể và thực sự đáng lưu tâm để xem xét việc hoạch định chính sách phát triển ngành này trong các năm tới. Hàng năm ngành công nghiệp ô tô được bổ sung một lượng vốn đầu tư đáng kể do sự ra đời liên tiếp của các liên doanh lắp ráp sản xuất ô tô. Nếu như năm 1991, vốn đầu tư đăng ký là 95,150 triệu USD, trong đó vốn FDI là 66,605 triệu USD (bằng 70% vốn đăng ký) thì đến năm 1993, tổng vốn đăng ký đã tăng 33.87% với lượng tăng tương ứng là 32,229 triệu USD, vốn FDI tăng thêm 20,95 triệu USD lên thành 87,555 triệu USD. Trong các năm 1994-1995, khối lượng vốn đầu tư tăng nhanh hơn. Năm 1994, vốn đầu tư tăng 50 triệu USD với tốc độ tăng tương ứng là 39.25%, vốn FDI tăng với tốc độ cao 57,1% lên thành 125,055 triệu USD. Đặc biệt trong năm 1995, vốn đầu tư có tốc độ tăng vượt bậc 249,7% với lượng tăng tuyệt đối là 442,066 triệu USD và vốn FDI cũng có tốc độ tăng kỷ lục là 258,37% khiến tổng vốn FDI trong ngành công nghiệp ô tô đạt 448,155 triệu USD . 2. Cơ cấu FDI 2.1. Về chủ đầu tư Trong 11 liên doanh sản xuất ô tô Việt Nam hiện nay, phía đối tác nước ngoài chủ yếu là các tập đoàn sản xuất nổi tiếng đến từ Mỹ ( Ford), Nhật Bản (Toyota, Mitsubishi, Suzuki, Isuzu...), Đức (Mercedes/ Daimler Benz) , Hàn Quốc (Deawoo) và cả các nước trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia (Proton), Indonesia (Daihatsu). Phần vốn của các dối tác này chiếm khoảng 70% vốn đăng ký của các liên doanh. Nhiều nhất là 80% như ở liên doanh Toyota và thấp nhất cũng là 65% ở liên doanh Vidamco- Deawoo. Tỉ lệ góp vốn của phía đối tác nước nước ngoài trong các liên doanh khá cao do đây là ngành đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn. Với tỉ lệ góp vốn lớn, phía nước ngoài có tiếng nói quyết định trong việc dưa ra đường lối hoạt động của các liên doanh. Còn phía các đối tác Việt Nam đều là doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Công nghiệp, Bộ GTVT, Bộ Quốc phòng và một số nhỏ thuộc địa phương với tỷ lệ góp vốn thấp, trung bình khoảng 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Hiện nay, tỷ lệ cao nhất mới chỉ là 35% và thấp nhất là 20% vốn pháp định. Bên Việt Nam chủ yếu góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu Nhà nước, việc Nguyễn Lan Hương - KTQT 50C 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan