Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Đây là một quá trình vận động quan
trọng mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và buộc Việt Nam phải
đối mặt với những áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ chế quản
lý với những thách thức to lớn và tất yếu.
Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, các doanh nghiệp và các
loại hàng hoá và dịch vụ Việt Nam đều phải đương đầu với sức ép
cạnh tranh cực kỳ gay gắt. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam,
một lĩnh vực hết sức đa dạng, thường xuyên biến động và là động
lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển
theo hướng hội nhập hiện nay, đang chịu những tác động trực tiếp
và hết sức to lớn của quá trình này. Sự phát triển lĩnh vực kinh tế
đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và sự phát triển
các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của lĩnh
vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế
đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu
quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng
kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị nền kinh tế. Động lực phát triển
Kinh tế quốc tế 46
Trang 1
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
kinh tế toàn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng trưởng trực tiếp
của nền kinh tế.
Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong thời
gian qua đã đặt được một số thành tựu hết sức to lớn, đặc biệt là
đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam năm 2007 đạt khoảng 48.38 tỷ USD và kim ngạch nhập
khẩu đạt 60.83 tỷ USD, đạt mức kỷ lục từ trước tới nay. Kim
ngạch nhập khẩu ngày càng tăng thể hiện Việt Nam là thị trường
tiêu thụ lớn hàng hoá các nước, nhu cầu tiêu dùng của người dân
ngày càng tăng cao, đặc biệt là những mặt hàng có mẫu mã và chất
lượng tốt. Cùng với xu thế đó thì tình hình kinh doanh các mặt
hàng nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam cũng ngày
càng được tăng cao và ngày càng phát triển mạnh hơn với những
kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, triển vọng kinh doanh các mặt
hàng nhập khẩu của Công ty vẫn còn rất lớn, vì vậy Công ty cần
phải hoàn thiện hơn nữa hoạt động nhập khẩu để đảy mạnh lĩnh
vực kinh doanh của mình.
Xuất phát từ tinh thần và tính cấp thiết của những vấn đề nêu
trên em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “ Đẩy mạnh hoạt
động nhập khẩu tại Tổng công ty Bao bì Việt Nam” cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu luận văn
Kinh tế quốc tế 46
Trang 2
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
Mục đích chủ yếu của luận văn tốt nghiệp là trên cơ sở phân
tích thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt
Nam để đề xuất kiến nghị một số giải pháp nhằm thực hiện và
hoàn thiện tốt hơn hoạt động nhập khẩu của Công ty trong thời
gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu hoạt động
nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tốt nghiệp
chuyên ngành tập trung nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Tổng
công ty Bao bì Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn tốt nghiệp được viết bằng việc sử dụng tổng hợp
các phương pháp và công cụ chủ yếu là thống kê, phân tích, so
sánh và tổng hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan.
5. Kết cấu
Luận văn tốt nghiệp được chia làm ba phần chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về nhập khẩu và sự cần thiết
để đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt
Nam
Kinh tế quốc tế 46
Trang 3
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công
ty Bao bì Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Triển vọng và các giải pháp hoàn thiện hoạt động
nhập khẩu để đẩy mạnh kinh doanh của Tổng công ty Bao bì Việt
Nam
Kinh tế quốc tế 46
Trang 4
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU
VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐỂ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU CỦA TỔNG CÔNG TY BAO BÌ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, hình thức và vai trò nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm
Trong điều kiện kinh tế mở, hội nhập và cạnh tranh quốc tê,
vấn đề mở rộng và phát triển thương mại quốc tế giữa các quốc gia
ngày càng trở nên tất yếu và cấp bách đối với các quốc gia. Hoạt
động thương mại quốc tế giúp các quốc gia có thể đáp ứng một
cách đầy đủ hơn những nhu cầu đa dạng của con người. Mặt khác,
thương mại quốc tế còn giúp các quốc gia phát huy được tối đa
khả năng, tận dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn lực sẵn có
của quốc gia mình.
Với ý nghĩa như vậy, nhập khẩu trong lý luận thương mại
quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia
khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài
cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy
Kinh tế quốc tế 46
Trang 5
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của
IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới được coi là nhập
khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại. Còn việc mua dịch vụ
được tính vào mục cán cân phi thương mại.
Đơn vị tính khi thống kê về nhập khẩu thường là đơn vị tiền
tệ (Dollar, triệu Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một
khoảng thời gian nhất định. Đôi khi, nếu chỉ xét tới một mặt hàng
cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số lượng hoặc trọng lượng (cái,
tấn, v.v...)
Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong
nước, vào tỷ giá hối đoái. Thu nhập của người dân trong nước
càng cao, thì nhu cầu của hàng đối với hàng hóa và dịch vụ nhập
khẩu càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng nhập khẩu tính
bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu giảm đi.
1.1.2. Các hình thức nhập khẩu chủ yếu
Nhập khẩu có rất nhiều hình thức đa dạng mà từ đó các
doanh nghiệp có thể tìm cho mình một hình thức nhập khẩu phù
hợp nhất, có hiệu quả nhất trước sự thay đổi của các yếu tố liên
quan đến môi trường kinh tế. Có thể nói đến một số hình thức
nhập khẩu mà các doanh nghiệp thường lựa chọn sau:
Kinh tế quốc tế 46
Trang 6
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
1.1.2.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp (hay còn gọi là nhập khẩu tự doanh) là
hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp. Từ việc
nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy
đủ các chi phí, thiết lập phương án kinh doanh hợp lý, đảm bảo
kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của
quốc gia cũng như quốc tế, doanh nghiệp tiến hành hoạt động
nhập khẩu trực tiếp với đối tác nước ngoài.
Đặc điểm của nhập khẩu trực tiếp: trong hoạt động nhập khẩu
này, doanh nghiệp nhập khẩu phải tự chịu trách nhiệm tất cả mọi
rủi ro, cho nên cần phải có sự xem xét kỹ lưỡng từ bước thu thập
thông tin, nghiên cứu thị trường, rồi ký kết hợp đồng… Vì nhập
khẩu tự doanh nghĩa là doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để kinh
doanh, phải chịu mọi chi phí giao dịch, chi phí nghiên cứu thị
trường, chi phí giao nhận hàng hoà, chi phí lưu kho, chi phí tiêu
thụ hàng hoá, thuế,… Do đó, doanh nghiệp phải tính toán rất thận
trọng ngay từ việc chọn mặt hàng, nghiên cứu thị trường,
marketing,…
Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại
thương với bên nước ngoài, còn hợp đồng bán trong nước sau khi
hàng về sẽ lập sau hoặc không cần lập một hợp đồng nào khác khi
bán với hình thức như: bán lẻ, trao tay.
1.1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác
Kinh tế quốc tế 46
Trang 7
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình
thành giữa một doanh nghiệp hoạt động trong nước có ngành hàng
kinh doanh một số mặt hàng nhập khẩu nhưng không được phép
xuất nhập khẩu trực tiếp, đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức
năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng
hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm
phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của
bên uỷ thác và được hưởng hoa hồng gọi là phí uỷ thác. Quan hệ
giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được
quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác: trong hoạt động này, doanh
nghiệp xuất nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ
vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có) không phải nghiên cứu thị
trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng
ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài,
ký hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá cũng như thay
mặt cho bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với nước ngoài khi
có tổn thất.
Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu này phải
lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài.
- Một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác.
Kinh tế quốc tế 46
Trang 8
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
1.1.2.3. Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên
cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp
(trong đó ít nhất có một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm
phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và đề ra các chủ
trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy
hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên,
cùng chia lãi, lỗ thì cùng nhau chịu.
Đặc điểm của nhập khẩu liên doanh: ở hoạt động nhập khẩu
này thì các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh sẽ phải chịu rủi ro
ở mức thấp hơn so với nhập khẩu trực tiếp vì trường hợp này
doanh nghiệp chỉ phải góp một số vốn nhất định, quyền hạn và
trách nhiệm của các bên tham gia tăng theo vốn góp, việc phân
chia chi phí, thuế doanh thu dựa theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên
phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần
trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác.
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải
lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài.
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không
nhất thiết phải là doanh nghiệp của Nhà nước).
1.1.2.4. Nhập khẩu hàng đổi hàng
Kinh tế quốc tế 46
Trang 9
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
Nhập khẩu đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ
chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền
với xuất khẩu, thanh toán trong hợp đồng này không phải dùng
tiền mà chính bằng hàng hoá. Ở đây mục đích chính của hoạt động
nhập khẩu hàng hoá không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu
mà còn nhằm để xuất được hàng, thu cả lãi từ hoạt động xuất.
Đặc điểm của nhập khẩu đổi hàng: hoạt động này có lợi vì
cùng một hợp đồng có thể tiến hành cả hoạt động xuất và hoạt
động nhập, do đó có thể thu lãi từ hai hoạt động. Hoạt động xuất
phải tương đương về giá trị; bạn hàng bán cũng chính là bạn hàng
mua; doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim
ngạch nhập và xuất, doanh số tiêu thụ tính trên số hàng nhập và
xuất.
1.1.2.5. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào
trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất
sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận, tuy nhiên những
hàng nhập khẩu này không được chế biến tại nước tái xuất. Như
vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất
khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất.
Kinh tế quốc tế 46
Trang 10
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
Đặc điểm của nhập khẩu tái xuất: doanh nghiệp nước tái xuất
phải tính toàn bộ chi phí tổ chức, gặp gỡ, bàn bạc mỗi bạn hàng
xuất và bạn hàng nhập, đảm bảo sao cho số tiền thu được lớn hơn
chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. Doanh nghiệp nước tái xuất
phải tiến hành hai hợp đồng: hợp đồng xuất khẩu và hợp đồng
nhập khẩu nhưng không phải chịu thuế xuất nhập khẩu với mặt
hàng kinh doanh. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được
tính kim ngạch cả xuất, cả nhập, doanh số tính trên giá trị hàng
xuất khẩu do đó vẫn phải chịu thuế doanh thu. Để đảm bảo thanh
toán hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lừng;
hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất, mà
chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng tiền thanh toán phải do
người tái xuất thu từ người nhập khẩu giao cho người xuất khẩu.
Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức về tiền hàng do
chênh lệch giữa thời điểm thu tiền từ người nhập khẩu và thời
điểm trả tiền cho người xuất khẩu.
1.1.3. Vai trò của nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của hoạt động ngoại
thương. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến
sản xuất và đời sống trong nước; nhập khẩu để bổ sung hàng hoá
trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ
nhu cầu; nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những
Kinh tế quốc tế 46
Trang 11
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
hàng hoá mà nếu sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập
khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được
thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền
kinh tế quốc dân.
Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
từng bước công nghiệp hoá đất nước, đuổi kịp các nước tiên tiến,
bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo
phát triển nền kinh tế cân đối ổn định.
Nhập khẩu góp phần cải thiện, nâng cao mức sống của nhân
dân, vì nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về
hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm
ổn định cho người lao động.
Nhập khẩu có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu.
Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản
xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu
hàng sản xuất được trong nước ra nước ngoài, đặc biệt là nước đối
tác mà mình đã nhập hàng của họ.
Tóm lại, hoạt động nhập khẩu tạo cầu nối giữa nền kinh tế
trong nước với nền kinh tế thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành
nơi cung cấp các “yếu tố đầu vào” và tiêu thụ các “yếu tố đầu ra”
cho nền kinh tế quốc dân trong hệ thống kinh tế quốc tế.
Kinh tế quốc tế 46
Trang 12
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
1.2. Nội dung của hoạt động nhập khẩu
1.2.1. Nghiên cứu, lựa chọn thị trường, đối tác
Khi tiến hành hoạt động nhập khẩu, các doanh nghiệp luôn
phải chú trọng đến thị trường của nước mà mình sẽ nhập khẩu. Có
thể cùng một mặt hàng nhưng chất lượng cũng như giá cả của từng
hãng (từng nước) sẽ khác nhau. Mặt khác, từ những yếu tố của thị
trường, doanh nghiệp sẽ biết được lượng cung, lượng cầu ở từng
thị trường, từ đó sẽ có kế hoạch nhập khẩu một cách có hiệu quả
nhất. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá để kinh
doanh thì còn phải nghiên cứu thị trường mà mình sắp kinh doanh
mặt hàng đó. Doanh nghiệp nào có khả năng phản ứng một cách
linh hoạt, nhanh nhạy với thị trường thì chắc chắn doanh nghiệp
đó sẽ thành công. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, lựa chọn thị
trường, đối tác đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp nhập khẩu nói riêng là cực kỳ quan trọng. Việc nghiên cứu
thị trường nhập khẩu đối với một doanh nghiệp bao gồm các bước
sau:
+ Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị
trường.
+ Xác định mức giá nhập khẩu đối với từng thị trường.
+ Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu, giá sẽ bán ra trên
thị trường nội địa (nếu có).
Kinh tế quốc tế 46
Trang 13
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
+ Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
+ Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến thị
trường ( cung, cầu hàng hoá trên thị trường, …).
Trên cơ sở phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến giá cả của
hàng hoá nhập khẩu, doanh nghiệp sẽ có thể nắm chắc xu hướng
biến động về giá của loại hàng hoá mà doanh nghiệp sẽ nhập để từ
đó có thể lên phương án nhập khẩu đối với từng mặt hàng cũng
như từng thị trường. Thêm vào đó doanh nghiệp còn phải tính đến
các chi phí như: cước vận tải, lãi suất ngân hàng,… để quyết định
tăng hay giảm giá thành nhập khẩu hàng hoá.
1.2.2. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu
* Phương thức giao dịch thông thường trực tiếp
Phương thức giao dịch thông thường trực tiếp là phương thức
giao dịch trong đó mối quan hệ giữa người bán và người mua
được liên hệ một cách trực tiếp với nhau bằng cách gặp gỡ hay
qua thư tín để thoả thuận về các điều kiện giao dịch (phương thức
vận tải, phương thức thanh toán,…). Phương thức giao dịch này có
thể được thực hiện ở mọi nơi, vào bất kỳ thời điểm nào và việc
thực hiện nội dung của lần giao dịch này là tự nguyện, không phụ
thuộc vào lần giao dịch trước. Đối với phương thức giao dịch này
thì cả người mua và người bán đều cùng tiết kiệm được thời gian,
chi phí, hạn chế được những sai lệch giữa hai bên tuy nhiên thì
Kinh tế quốc tế 46
Trang 14
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
phương thức giao dịch này không hiệu quả bằng việc sử dụng bên
trung gian am hiểu thông tin rõ về thị trường.
* Phương thức giao dịch qua trung gian
Phương thức giao dịch qua trung gian là phương thức giao
dịch trong đó mối quan hệ giữa người mua và người bán và các
điều kiện liên quan được thực hiện qua một khâu trung gian, khâu
trung gian này có thể là một cá nhân hay một tổ chức. Có hai hình
thức trung gian chủ yếu là đại lý và môi giới.
Đại lý có thể là thể nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hoặc
nhiều công việc theo sự ủy thác của người ủy thác. Quan hệ giữa
bên uỷ thác và đại lý (bên nhận uỷ thác) được xác định bằng một
hợp đồng gọi là hợp đồng đại lý (thường là hợp đồng dài hạn).
Môi giới có thể là thể nhân hoặc pháp nhân làm trung gian
liên hệ giữa người mua và người bán. Khi thực hiện các ngiệp vụ,
người môi giới không đứng tên mình, họ không chiếm hữu hàng
hoá và không chịu trách nhiệm trong việc các bên có thực hiện
đúng hợp đồng hay không. Việc trung gian của người môi giới
thường theo từng lần, từng hợp đồng chứ không dựa vào hợp đồng
dài hạn.
Việc sử dụng phương thức giao dịch qua trung gian mang lại
cho doanh nghiệp những thuận lợi nhất định vì người trung gian
có những năng lực về nghiệp vụ, tận dụng được các mối quan hệ
Kinh tế quốc tế 46
Trang 15
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
sẵn có, các kinh nghiệm, hiểu biết về thị trường, luật pháp, phong
tục tập quán của địa phương,… chính vì vậy, doanh nghiệp sẽ
giảm bớt được những chi phí, thời gian trong khâu nghiên cứu thị
trường. Thế nhưng bên cạnh đó, doanh nghiệp sẽ không có được
sự liên hệ trực tiếp với khách hàng, với thị trường cũng như việc
phải chia sẻ lợi nhuận với bên trung gian.
* Phương thức giao dịch tại sở giao dịch
Sở giao dịch là một thị trường đặc biệt mà tại đó, người ta
mua bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có phẩm chất có thể
thay thế được cho nhau. Việc mua bán tại sở giao dịch được thực
hiện thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, giá
cả hàng hoá được công bố ở sở giao dịch có thể coi là giá tham
khảo trong việc xác định giá quốc tế của loại hàng hoá đó.
* Phương thức giao dịch tại hội chợ, triển lãm
Hội chợ là hoạt động định kỳ được tổ chức vào một thời
gian nhất định, tại đó người bán trưng bày và bán sản phẩm, hàng
hoá của mình thông qua việc tiếp xúc trực tiếp với người mua tại
hội chợ.
Triển lãm là hoạt động mang tính chất trưng bày thành tựu
của một nền kinh tế hay của một tổ chức, một ngành nào đó.
Nhưng đến nay, triển lãm còn là nơi mà các cá nhân hay tổ chức
kinh doanh có thể tiếp xúc để tiến hành việc giao dịch , ký kết hợp
đồng mua bán hàng hoá.
Kinh tế quốc tế 46
Trang 16
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
1.2.3. Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu
1.2.3.1. Đàm phán trong kinh doanh quốc tế
Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế, các bên đối
tác thường có quốc tịch khác nhau nên việc tiến hành đàm phán sẽ
gặp những hạn chế nhất định về ngôn ngữ, văn hoá, luật pháp giữa
các bên. Do đó, khi tiến hành đàm phán trong kinh doanh quốc tế
phải rất chú trọng đến những vấn đề này để tránh việc hiểu nhầm,
xâm phạm đến những nét văn hoá truyền thống cũng như luật
pháp của bên đối tác. Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể thành
công trong quá trình đàm phán, đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Để tránh việc hiểu nhầm ý do khác nhau về ngôn ngữ giữa
các bên, nên chọn một loại ngôn ngữ để sử dụng trong quá trình
đàm phán cũng như ký kết hợp đồng, điều này đòi hỏi phải có
chuyên gia về ngôn ngữ trong quá trình đàm phán.
Đàm phán trong kinh doanh quốc tế là đàm phán trong lĩnh
vực kinh doanh nên nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,…Vì
thế, muốn thành công, doanh nghiệp cần phải nắm chắc, am hiểu
các quy luật kinh tế và vận dụng nó một cách hợp lý.
Đàm phán trong kinh doanh quốc tế chịu sự ảnh hưởng của
các quan hệ chính trị và ngoại giao giữa các quốc gia, nếu như
quan hệ ngoại giao giữa các nước này tốt đẹp thì sẽ tạo thuận lợi
cho việc đàm phán.
Kinh tế quốc tế 46
Trang 17
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
1.2.3.2. Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Khi tiến hành ký kết hợp đồng nhập khẩu, các doanh nghiệp
cần chú ý đến những điều khoản sau:
* Điều khoản về hàng hoá
Tên hàng: Cần ghi đầy đủ tên hàng ( tên thông dụng, tên
thương mại, tên khoa học nếu có) để tránh nhầm lẫn.
Số lượng, chất lượng: quy định chất lượng hàng hoá một
cách chính xác, tỉ mỉ. Ghi rõ số lượng hàng hoá theo từng đơn vị,
không ghi bằng cách ước chừng số lượng.
Quy cách đóng gói, trọng lượng hàng hoá: ghi rõ hàng hoá
được đóng gói theo phương thức nào, nếu theo bao thì trọng lượng
mỗi bao là bao nhiêu.
* Điều khoản về thanh toán
Đồng tiền tính giá: quy định đồng tiền nào sẽ được sử dụng
để tính giá hàng hoá, giá của mỗi đơn vị hàng hoá và giá của toàn
bộ số hàng. Nếu có giảm giá thì phải ghi rõ giảm giá theo hình
thức nào, số lượng giảm giá là bao nhiêu.
Đồng tiền thanh toán: có thể là đồng tiền tính giá hoặc cũng
có thể là một đồng tiền khác nhưng phải được quy định trước (nếu
là đồng tiền khác thì phải quy định tỷ giá quy đổi).
Phương thức thanh toán: ghi rõ thanh toán bằng phương thức
nào (đổi hàng, bằng tiền mặt, thông qua tín dụng, hay thanh toán
Kinh tế quốc tế 46
Trang 18
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
ứng trước); bằng hình thức nào (nhờ thu, bằng L/C, bằng séc, hối
phiếu, …)
Thời hạn thanh toán: có thể trả ngay, trả trước, trả chậm
nhưng phải ghi rõ trong hợp đồng.
Ngoài ra khi ký kết hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp cần
phải xem xét lại một cách cẩn thận những điều khoản đã ghi trong
hợp đồng chính, đối chiếu lại với những thoả thuận trước để tránh
những sai sót do bên đối tác vô ý hay cố tình đưa vào hoặc bỏ qua.
Hợp đồng đã được ký kết thì việc sửa chữa lại là rất khó khăn nên
văn phạm dùng trong hợp đồng phải có ý nghĩa trong sáng, từ ngữ
phải được theo một ý thống nhất, tránh việc mập mờ, có thể hiểu
theo nhiều cách.
Hợp đồng mà hai bên ký kết có thể là một văn bản, một hợp
đồng do hai bên thoả thuận, đàm phán với nhau tạo nên, cũng có
thể là văn bản xác nhận của người mua (người bán) đối với thư
chào hàng tự do của người bán (đơn đặt hàng của người mua đã
được thoả thuận giữa hai bên.
1.2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu là một trong những
công việc đòi hỏi phải thực hiện theo trình tự một cách lần lượt để
tránh xảy ra những sai sót dẫn tới việc khiếu nại của các bên. Tổ
chức thực hiện hợp đồng một cách cẩn thận sẽ giảm bớt những chi
Kinh tế quốc tế 46
Trang 19
Nguyễn Bích Diệp
Luận văn tốt nghiệp
phí phát sinh không đáng có, tiết kiệm thời gian cho cả hai bên.
Việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu gồm những bước sau:
Sơ đồ 1.1 - Các bước thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Xin giấy phép
Mở L/C
Thuê phương
Mua bảo hiểm
nhập khẩu
(nếu có)
(nếu thanh toán
tiện chuyên chở
hàng hoá
bằng L/C)
(thường là tàu)
Khiếu nại và
Làm thủ tục
Nhận hàng
giải quyết khiếu
thanh toán
Làm thủ tục hải
quan
nại (nếu có)
* Xin giấy phép nhập khẩu (nếu có)
Xin giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để
nhà nước quản lý xuất nhập khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng
nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu để thực
hiện hợp đồng đó. Ngày nay, do xu thế tự do hoá mậu dịch, Việt
Nam đã giảm bớt số mặt hàng cần xin giấy phép xuất nhập khẩu
xuống còn 9 mặt hàng, bao gồm: Hàng xuất - nhập khẩu mà nhà
nước quản lý bằng hạn ngạch; Hàng tiêu dùng nhập khẩu theo kế
hoạch được Thủ tướng Chính phủ duyệt; Máy móc thiết bị nhập
khẩu bằng nguồn vốn ngân sách; Hàng của doanh nghiệp được
Kinh tế quốc tế 46
Trang 20
- Xem thêm -