DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CRM: Quản trị quan hệ khách hàng
MCCVN: Metro Cash&Carry Việt Nam
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
CSDL: Cơ sở dữ liệu
KH: Khách hàng
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Sơ đồ 1-1: Cơ cấu tổ chức công ty TNHH MCCVN
Sơ đồ 1-2: Cơ cấu tổ chức kho của công ty MCCVN
Sơ đồ 1-3: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản trị Marketing
Sơ đồ 2-1: Các ngành hàng tại MCCVN
Sơ đồ 2-2: Hồ sơ dịch vụ khách hàng của Metro Việt Nam
Sơ đồ 2-3: Quy trình quan hệ khách hàng
Sơ đồ 2-4: Phương pháp tiếp cận khách hàng Canvassing
Biểu đồ 1-1: Cơ cấu khách hàng của MCCVN
Biểu đồ 1-2: Doanh thu của MCCVN từ 2006-2008
Biểu đồ 1-3: Biểu đồ thay đổi doanh số bán của Metro Hoàng Mai năm 2008
Biểu đồ 2-1: Cơ cấu các nguồn nhận tin của khách hàng Trader
Biểu đồ 2-2: Mong muốn của khách hàng khi gặp nhân viên Metro
Biểu đồ 2-3: Các tiêu chí đánh giá nhân viên khi gặp khách hàng
Bảng 1-1: Các chỉ tiêu tài chính năm 2006-2008
Bảng 2-1: Danh sách các trung tâm bán buôn Metro
Bảng 2-2: Hành vi mua hàng của khách hàng Trader
Bảng 2-3: Sự trung thành của khách hàng
Bảng 2-4: Mối quan hệ giữa thời gian trở thành hội viên Metro và sự trung thành
của khách hàng Trader
Bảng 2-5: Cách thức trở thành hội viên Metro
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm trở lại đây, bộ mặt nền kinh tế, xã hối Việt Nam có nhiều chuyển
biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá. Tình hình chính trị, xã hội ổn
định, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Đây là kết quả của
chính sách mở cửa, từng bước đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào khu vực và
thế giới. Trong bối cảnh đó, các loại hình kinh doanh bán buôn, bán lẻ hiện đại dần
được hình thành và phát triển trong mối quan hệ với quá trình công nghiệp hóa, đo
thị hóa tại Việt Nam. Hình thức kinh doanh phân phối bán buôn đang ngày càng
được mở rộng để bắt nhịp với tốc độ phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, không
phải doanh nghiệp nào cũng gặt hái được thành công trong lĩnh vực này. Khi tham
gia WTO, các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Các doanh nghiệp tham gia trong lĩnh vực phân phối cũng không nằm ngoài quy
luật đó. Cạnh tranh khiến cho các doanh nghiệp phân phối liên tục đưa ra những
chính sách thúc đẩy cầu tiêu dùng hàng hóa của khách hàng, chính sách gia tăng
lượng khách hàng và các chính sách củng cố hình ảnh của mình để tồn tại và phát
triển. Bằng những đổi mới về quy trình bán hàng, dịch vụ khách hàng, những cải
tiến về công nghệ… và đặc biệt là các chương trình Marketing cụ thể, các doanh
nghiệp phân phối đang nỗ lực hết mình để giành lấy chỗ đứng quan trọng trong tâm
trí khách hàng mục tiêu của mình.
Lĩnh vực phân phối hàng hóa mang đậm tính chất của một ngành dịch vụ cung cấp hàng hóa nhằm phục vụ nhu cầu mua sắm của khách hàng. Do đó, hoạt
động Marketing trong lĩnh vực phân phối là đặc thù của Marketing quan hệ. Đó là
việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ khách hàng. Sự trung thành của khách hàng
trở thành phương châm kinh doanh của thời đại hiện nay bởi “Không có khách hàng
sẽ không có bất cứ công ty nào tồn tại” – Erwin Frand. Từ đó, mối quan hệ giữa
doanh nghiệp và khách hàng ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu.
Chính vì lẽ đó, quản trị quan hệ khách hàng đã trở thành một chiến lược quan trọng
trong các công ty đa quốc gia. Đầu tư vào các mối quan hệ với khách hàng là sự đầu
tư đúng đắn, mang lại hiệu quả cao. Việc quản lý các mối quan hệ khách hàng
không chỉ để giữ chân khách hàng mà còn tạo nên một lợi thế cạnh tranh rất riêng
và mạnh của các doanh nghiệp.
Trong quá trình thực tập tại chi nhánh Hoàng Mai – công ty trách nhiệm hữu
hạn Metro Cash&Carry Việt Nam, tôi đã được lĩnh hội rất nhiều kiến thức thực tế
trong hoạt động Marketing của một doanh nghiệp phân phối bán buôn. Với đặc thù
là Marketing quan hệ nhằm mục đích gia tăng thị phần và doanh số bán, tôi đã chọn
đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp là:
“Giải pháp hoàn thiện hệ thống quản trị quan hệ khách hàng (CRM)
cho nhóm khách hàng là hộ kinh doanh (Trader) tại công ty TNHH Metro
Cash&Carry Việt Nam”
Sự cần thiết của chuyên đề :
Khách hàng đóng vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp, đặc biệt là lực lượng khách hàng trung thành. Nhận thức được vai trò
ngày càng lớn mạnh của khách hàng, Metro Việt Nam luôn ý thức được việc phải
đặt khách hàng làm trung tâm. Bên cạnh đó, Marketing quan hệ đã có nền tảng phát
triển trong lĩnh vực phân phối hàng hóa trên thị trường thế giới. Đặc biệt là sự phát
triển dựa trên quan điểm khách hàng của tập đoàn phân phối Metro AG. Đây là nền
tảng để phát triển các mối quan hệ khách hàng cho Metro Việt Nam. Trên thực tế,
Metro Việt Nam đã áp dụng chương trình quản trị quan hệ khách hàng đối với nhóm
khách hàng trọng điểm “khách sạn – nhà hàng – căng tin lớn”. Tuy nhiên, xuất phát
từ thực tế nghiên cứu khách hàng tại Metro, người viết nhận thấy cần phải chú trọng
vào việc xây dựng và phát triển mối quan hệ thân thiết với nhóm khách hàng là hộ
kinh doanh. Bởi nhóm khách hàng này chiếm đại đa số trong cơ cấu khách hàng của
Metro; giá trị hóa đơn trong 1 lần mua hàng tuy không nhiều nhưng lại là nhóm
khách hàng mua khá thường xuyên. Hơn nữa, khi đời sống ngày càng được nâng
cao, sức mua của người tiêu dùng tăng cũng đồng nghĩa với triển vọng doanh thu từ
nhóm khách hàng này được cải thiện đáng kể. Đây chính là lý do mà Metro Việt
Nam cần chú trọng xây dựng mối quan hệ với khách hàng là hộ kinh doanh nhằm
tạo nên lợi thế cạnh tranh trên thị trường phân phối hàng hóa tại Việt Nam.
Đề tài này được thực hiện với một số mục tiêu nghiên cứu như sau:
Thứ nhất: làm rõ sự cần thiết của việc ứng dụng CRM đối với nhóm khách
hàng là hộ kinh doanh tại Metro Việt Nam; đồng thời nêu lên những nền tảng để
thực hiện hoạt động CRM tại Metro.
Thứ hai: đưa ra một số biện pháp để hoàn thiện hệ thống CRM áp dụng cho
nhóm khách hàng là hộ kinh doanh tại Metro Việt Nam.
Do thời gian và nguồn lực hạn chế nên phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ
được tiến hành với một bộ phận nhỏ đối tượng mục tiêu (các hộ kinh doanh là hội
viên của Metro Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội. Khi nghiên cứu được đưa
vào thực nghiệm và đạt hiệu quả thì có thể sẽ được mở rộng hơn cho các khu vực
khác trên cả nước.
Ngoài phần mục lục, danh mục biểu bảng, bảng chữ viết tắt, mở đầu, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Tổng quan về công ty TNHH Metro Cash& Carry Việt Nam
Chương II: Thực trạng hoạt động Marketing của công ty TNHH Metro
Cash&Carry Việt Nam
Chương III: Giải pháp phát triển hệ thống CRM cho nhóm khách hàng
Trader
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY TNHH METRO CASH&CARRY VIỆT NAM
1.1.
Lịch sử hình thành và phát triển của công ty TNHH Metro Cash&Carry
Việt Nam
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Metro AG là tập đoàn bán buôn, bán lẻ quốc tế có trụ sở tại Đức. Tập đoàn
giữ thị phần lớn nhất ở Đức và là một trong những hãng bán lẻ hoạt động toàn cầu.
Metro đứng thứ ba ở Châu Âu và thứ tư trên thế giới. Năm 2003, METRO đạt tổng
doanh thu gần 54 tỷ Euro. Lợi nhuận trước thuế 817 triệu Euro, lợi nhuận sau thuế
496 triệu Euro1. Tính tới đầu năm 2007, METRO có cửa hàng ở hầu hết các châu
lục trên thế giới. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ kinh tế phát triển
nhanh ở khu vực Châu Á. Các chuyên gia kinh tế dự đoán tốc độ tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam sẽ là 7.5 - 8% đến năm 2010 2. Nhận thấy được tiềm năng kinh tế to
lớn đó, Metro Cash & Carry là một trong những tập đoàn phân phối quốc tế đầu tiên
quyết định phát triển cùng với thị trường Việt Nam.
Đánh dấu bước đầu thâm nhập vào thị trường Việt Nam là sự ra đời của công
ty TNHH Metro Cash&Carry Việt Nam với trung tâm Metro Bình Phú vào năm
2002. Cho đến nay, công ty Metro Cash & Carry Việt Nam đã có hơn 8 trung tâm
bán sỉ đang hoạt động rộng khắp
toàn quốc: 3 trung tâm tại thành phố
Hồ Chí Minh, 2 trung tâm ở thủ đô
Hà Nội, và các trung tâm khác ở
thành phố Cần Thơ, Đà Nẵng và Hải Phòng. Dự kiến Metro sẽ khai trương thêm 4
trung tâm nữa trên toàn quốc vào năm 2010.
1.1.2. Lĩnh vực hoạt động
Công ty TNHH Metro Cash&Carry Việt Nam là công ty TNHH 100% vốn
nước ngoài, chịu sự giám sát và quản lý của nhà nước Việt Nam, theo pháp luật Việt
Nam.
Metro là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối hàng hóa theo
hình thức bán buôn. Một phương thức kinh doanh mới và đã thành công trên thế
giới. Hình thức kinh doanh bán sỉ hiện đại này tập trung chủ yếu vào các đối tượng
1
2
www.metro.com
GDP tăng nhưng tiền ẩn nhiều nguy cơ- Tấn Đức -Thời báo kinh tế Sài Gòn số 27/2007- Trang 14
khách hàng chuyên nghiệp, như nhà hàng khách sạn, căn-tin, cũng như các nhà
phân phối, đại lý, tạp hóa lớn và nhỏ. Metro Cash & Carry không những mang đến
cho nhóm khách hàng chuyên nghiệp điều kiện mua sắm thuận lợi nhất mà còn xây
dựng cả một hệ thống hậu cần chuyên nghiệp nhằm hỗ trợ khách hàng phát triển
công việc kinh doanh của họ, thông qua việc: đưa ra giải pháp “one-stop-shopping”
(đến một nơi mà bạn có thể mua tất cả hàng hóa), cải thiện chủng loại hàng hóa của
họ, đưa đến cho họ những sản phẩm chất lượng với mức giá hợp lý và ổn định.
Hoạt động kinh doanh của công ty được tiến hành thông qua các phòng chức
năng riêng biệt, phục vụ từng đối tượng khách hàng riêng biệt nhưng vẫn có mối
liên hệ mật thiết trên toàn hệ thống về thông tin khách hàng, giá cả các mặt hàng,
chủng loại và số lượng các mặt hàng tồn tại trong kho…
1.2.
Cơ cấu tổ chức
1.2.1. Bộ máy quản lý
Để hoàn thành tốt công tác kinh doanh, bộ máy của Metro Việt Nam được tổ
chức theo quan hệ trực tuyến từ Tổng giám đốc đến giám đốc các khu vực, giám đốc
các kho và các phòng ban thuộc các kho. Hiện nay, hệ thống Metro có tất cả 8 kho
tương ứng với 8 bộ máy quản lý nhỏ nhưng được vận hành theo cùng 1 quy chế và
chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng giám đốc.
Sơ đồ 1-1: Cơ cấu tổ chức công ty TNHH MCCVN
(Nguồn: Phòng nhân sự, Metro Hoàng Mai)
Ở mỗi kho sẽ có một bộ máy quản lý riêng biệt, chịu sự điều hành trực
tiếp của giám đốc phụ trách kho dựa theo những quy định chung của công ty.
Dưới đây là mô hình các phòng ban của mỗi kho:
Sơ đồ 1-2: Cơ cấu tổ chức kho của công ty MCCVN
(Nguồn: Phòng nhân sự, Metro Hoàng Mai)
Tổng giám đốc: Là người đứng đầu công ty, nắm quyền điều hành chung,
do tập đoàn bổ nhiệm, là đại diện pháp nhân của công ty, quyết định toàn bộ hoạt
động kinh doanh của công ty dưới sự chỉ đạo của ban lãnh đạo tập đoàn tại nước
ngoài. Đồng thời tổng giám đốc cũng là người đưa ra các quyết định mang tính
chiến lược cho toàn bộ công ty và cho mỗi kho, tùy theo tình hình thực tế của mỗi
kho.
Giám đốc khu vực: chịu trách nhiệm trực tiếp trước tổng giám đốc về tình
hình triển khai và tiến độ thực hiện các mục tiêu của toàn bộ khu vực quản lý.
Giám đốc trung tâm: trực tiếp điều hành hoạt động tại mỗi kho; đồng thời
nắm bắt tình hình của toàn công ty để có những điều chỉnh linh hoạt; thực hiện các
hoạt động theo sự chỉ đạo của giám đốc khu vực; thường xuyên báo cáo tình hình
của kho mà mình quản lý cho giám đốc khu vực.
Các phòng ban nghiệp vụ:
Phòng nhân sự:
Chịu trách nhiệm quản lý các vấn đề liên quan đến nhân sự tại mỗi kho:
tuyển dụng, sắp xếp bố trí nhân sự, giải quyết các vấn đề khác liên quan đến nhân
sự như chế độ nghỉ ốm, thuyên chuyển vị trí…
Phòng tài chính kế toán:
Thực hiện chức năng kế toán, quản lý tài chính, thực hiện các chế độ hạch
toán, theo dõi tình hình thu chi và cung cấp đầy đủ chính xác và kịp thời các thông
tin, số liệu và kết quả hoạt động kinh doanh phục vụ cho công tác điều hành hoạt
động kinh doanh của giám đốc.
Phòng Customer Marketing:
Thực hiện các chương trình xúc tiến bán đối với các khách hàng trọng điểm
(khách hàng HORECA), tập trung chăm sóc những khách hàng này, đồng thời tìm
kiếm khách hàng mới, mở rộng thị trường.
Phòng Tele Marketing:
Thực hiện các hoạt động chăm sóc khách hàng bằng điện thoại, các cuộc
thăm viếng để duy trì mối quan hệ với khách hàng, nhắc nhở, kêu gọi khách hàng
đến mua sắm tại Metro.
Phòng hỗ trợ bán hàng:
Hỗ trợ các bộ phận bán hàng gom hàng hóa theo đơn đặt hàng, thanh toán và
hỗ trợ vận chuyển hàng đến tay khách hàng theo hợp đồng đã ký trước.
Phòng hậu mãi:
Chịu trách nhiệm trả hàng khuyến mãi, thực hiện các thủ tục bảo hành, bảo
trì sản phẩm, giải quyết các vấn đề liên quan đến khiếu nại của khách hàng.
-
Phòng quản lý sàn:
Nắm bắt thông tin về tình hình số lượng, chất lượng sản phẩm, khách hàng,
doanh số bán tại kho hàng, đồng thời đưa ra các biện pháp kích thích doanh số bán
nhằm đạt được mục tiêu chung của cả kho.
Phòng kỹ thuật:
Chịu trách nhiệm về kỹ thuật cho toàn kho: các vấn đề liên quan đến máy
móc, thiết bị, cơ sở vật chất của kho.
Phòng Decor:
Chịu trách nhiệm trang trí, tạo môi trường cảnh quan cho toàn kho theo yêu
cầu của cấp trên; thực hiện các bảng pano, bảng khuyến mãi theo từng thời gian cụ
thể nhằm kích thích sự chú ý của khách hàng.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị Marketing
Là thành viên của tập đoàn Metro AG có bề dày kinh nghiệm hoạt động trên
thị trường quốc tế, MCCVN rất chú trọng đến hoạt động Marketing nhằm đạt được
hiệu quả cao trong kinh doanh. Xuất phát từ quan điểm đó, MCCVN đã xây dựng
cho mình bộ máy quản trị Marketing từ trên xuống dưới nhằm thực hiện các mục
tiêu của công ty.
Do vai trò của mỗi kho là như nhau trong toàn bộ công ty, nên mô hình tổ
chức bộ máy quản trị Marketing ở các kho là như nhau, hoạt động Marketing ở mỗi
kho là tương đối giống nhau và theo sự chỉ đạo chung của ban lãnh đạo công ty.
Dưới đây là mô hình tổ chức bộ máy quản trị Marketing ở mỗi kho của Metro Việt
Nam.
Sơ đồ 1-3: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản trị Marketing
Giám đốc
kho
Nhiệm vụ, chức năng của các bộ phận trong bộ máy quản trị
Marketing tại các kho của Metro:
-
Bộ phận Front Office (Lễ tân): có nhiệm vụ tiếp đón, hướng dẫn khách
hàng tại cửa vào của mỗi kho; đồng thời chịu trách nhiệm cấp phát thẻ hội viên
cho khách hàng. Đây là bộ phận tạo nên bộ mặt của kho, hỗ trợ khách hàng ngay từ
khi bước chân vào mua hàng tại kho. Sự thành công trong hoạt động của bộ phận lễ
tân đồng nghĩa với việc tạo được sự hài lòng và cảm giác thoải mái của khách hàng
khi vào mua hàng, từ đó kích thích khách hàng mua hàng hóa, tạo ra doanh thu cho
mỗi kho.
-
Bộ phận After Sales (Hậu mãi): có trách nhiệm giải quyết các phàn nàn,
khiếu nại của khách hàng về sản phẩm hay bất cứ một nguyên nhân nào xuất phát từ
kho hàng. Bên cạnh đó, bộ phận nãy còn đảm nhiệm vai trò trả hàng khuyến mại,
cấp phát phiếu bảo hành cho khách hàng
-
Bộ phận Decoration (Trang trí) : thiết kế khung cảnh đặc trưng cho kho,
đặc biệt là vào các dịp lễ tết nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng. Bên cạnh đó, bộ
phận này cũng góp phần quan trọng trong việc tạo ra các banner, bảng hiệu khuyến
mại hấp dẫn, kích thích khách hàng mua sắm trong thời gian khuyến mại.
-
Bộ phận Tele Marketing: thực hiện chăm sóc tất cả các khách hàng của kho
(theo danh sách khách hàng) bằng cách gọi điện thoại hoặc thăm viếng trực tiếp
theo định kỳ. Bên cạnh đó, bộ phận này cũng có nhiệm vụ thực hiện các cuộc gọi
hoặc thăm viếng mang tính chất mời gọi, động viên đến mua hàng đối với những
khách hàng không mua hàng trong thời gian dài. Ngoài ra, Tele Marketing cũng có
thể trực tiếp tìm kiếm khách hàng mới và xúc tiến bán hàng.
-
Bộ phận Customer Marketing: chăm sóc khách hàng trọng điểm của kho
(những khách hàng lâu dài và chủ yếu là những khách hàng thuộc nhóm HORECA).
Nhân viên thuộc bộ phận này chịu trách nhiệm thăm viếng khách hàng trong khu
vực mình phụ trách, trực tiếp gửi báo giá, nhận đơn hàng, tham gia chuẩn bị đơn
hàng và chuyển đến địa chỉ của khách hàng theo đúng hợp đồng đã ký với khách
hàng.
-
Bộ phận Sales Supporting (bộ phận hỗ trợ bán hàng): nhận đơn hàng qua
điện thoại, fax; chuẩn bị đơn hàng theo yêu cầu về số lượng, chất lượng, hỗ trợ
khách hàng thanh toán và vận chuyển. Trong trường hợp hàng bị trả lại, bộ phận
này trực tiếp làm thủ tục trả hàng vào kho theo đúng quy định của kho.
Các bộ phận trong toàn kho có trách nhiệm phối kết hợp với nhau, hỗ trợ cho
nhau, tạo nên sự vận hành thông suốt cho toàn bộ máy. Nếu như bộ phận Decor tạo
nên sự kích thích về mặt thị giác cho khách hàng đến mua sắm tại kho thì bộ phận
Lễ tân lại tạo nên sự thiện cảm ban đầu, tạo nên ấn tượng về phong cách phục vụ
chu đáo của Metro. Không những thế, sự phối hợp giữa các nhân viên phụ trách
khách hàng trọng điểm, nhân viên Tele sales và nhân viên hỗ trợ bán hàng trong
việc ghi đơn hàng, chuẩn bị đơn hàng và giao nhận hàng hóa cũng góp phần tạo nên
một chu trình bán hàng ổn định, hiệu quả cao, đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng. Giữa các bộ phận còn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về mặt thông tin,
nhằm giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong việc hoàn thành các nhiệm vụ chức năng của mình
một cách nhanh chóng và hoàn hảo nhất, góp phần làm giảm thời gian chết cho cả
khách hàng và các đồng nghiệp.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị Marketing của Metro là tương đối chặt chẽ
từ trên xuống dưới. Với mô hình tổ chức như trên, mọi hoạt động Marketing được
thực hiện thông suốt và đạt hiệu quả cao. Trách nhiệm được phân công cụ thể cho
các phòng ban chức năng. Tuy nhiên, mọi hoạt động của các phòng ban đều dựa
trên mục tiêu chung của toàn công ty, đó là phục vụ khách hàng một cách tốt nhất,
đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp.
1.3.
Thị trường và đối thủ cạnh tranh
1.3.1. Khách hàng
Với đặc thù là một công ty phân phối, tham gia vào thị trường bán buôn,
Metro đã xác định khách hàng của mình là những đối tượng mua với số lượng lớn
hoặc mua với số lượng theo đơn vị tính của Metro.
Biểu đồ 1-1: Cơ cấu khách hàng của MCCVN
-
Theo đó, những khách hàng của Metro bao gồm:
Khách hàng HORECA: là những khách sạn, nhà hàng, quán bar hay căng-
tin lớn, có nhu cầu mua sắm hàng hóa với số lượng lớn để phục vụ cho công việc
kinh doanh của mình. Những sản phẩm chủ yếu mà nhóm khách hàng này tiêu thụ
là các thực phẩm khô, thực phẩm tươi sống, hóa phẩm, các dụng cụ phục vụ nhà
bếp, sản phẩm dệt may giành cho buồng, phòng và đồng phục của nhân viên. Khách
hàng HORECA mua sắm thường xuyên theo đơn đặt hàng hằng ngày và thường yêu
có những yêu cầu về hỗ trợ vận chuyển. Tuy số lượng khách hàng HORECA chỉ
chiếm khoảng 20% số khách hàng của toàn Metro nhưng doanh thu từ nhóm khách
hàng này chiếm đến 65% doanh số bán của Metro. Điều này cho thấy, đây là mảng
khách hàng rất tiềm năng. Tuy nhiên, trong giai đoạn kinh tế khó khăn, các nhà
hàng, khách sạn không thu hút được nhiều khách như trước dẫn đến nguy cơ cắt
giảm số lượng hàng hóa mua sắm tại Metro. Đây là một thách thức không nhỏ đối
với các cấp lãnh đạo chiến lược của Metro nhằm duy trì doanh số bán và lợi nhuận
trong thời kỳ khủng hoảng khi nhóm khách hàng trọng điểm cắt giảm tiêu dùng.
Khách hàng là các công ty, văn phòng, trường học: có nhu cầu mua hàng
hóa phục vụ nhu cầu của nội bộ. Nhóm khách hàng này mua sắm không thường
xuyên nhưng giá trị mỗi đơn hàng thường lớn. Các sản phẩm chủ yếu mà nhóm
khách hàng này có nhu cầu là đồ văn phòng phẩm. Tỷ lệ nhóm khách hàng này so
với tổng thể khách hàng mục tiêu chiếm khoảng 11%. Hiện nay,Metro đang đẩy
mạnh chiến lược bán hàng tập trung vào nhóm khách hàng này, đặc biệt là nhóm
khách hàng trường học. Bởi đây là nhóm khách hàng có nhu cầu tiêu dùng khá lớn
và ổn định ngay cả khi nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái.
-
Khách hàng Trader: là những khách hàng mua buôn số lượng lớn để bán lẻ
ra ngoài thị trường. Khách hàng Trader mua sắm hầu hết các loại sản phẩm của
Metro. Đây cũng là nhóm khách hàng có số lượng đông đảo (chiếm khoảng 60%
tổng số khách hàng của Metro). Nhóm khách hàng này đến tận kho để mua hàng và
tự vận chuyển. Giá trị mỗi hóa đơn mua hàng khá lớn với rất nhiều chủng loại hàng
hóa khác nhau. Khách hàng Trader không đến kho mua hàng thường xuyên mà theo
định kỳ hoặc tùy thuộc vào thị trường, khối lượng hàng hóa mà các khách hàng trực
tiếp của họ tiêu thụ.
Khách hàng Family: là những khách hàng mua hàng hóa theo đơn vị tính
của Metro để phục vụ cho tiêu dùng. Khi xã hội ngày càng phát triển, công việc bận
rộn khiến các bà nội trợ không thể đi mua sắm thường xuyên. Chính vì thế, xu
hướng mua sắm tại siêu thị để phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình đang ngày càng
phát triển. Nhóm khách hàng này hiện tại chưa được phát triển và chưa phải là
khách hàng mục tiêu của Metro. Tuy nhiên,trên thực tế lượng khách hàng này đến
mua sắm tại Metro là khá lớn. Đây chính là những khách hàng tiềm năng mà Metro
cần xem xét để có chiến lược bán hàng hợp lý.
Với mỗi đối tượng khách hàng, công ty đều có những chính sách bán hàng
khác nhau bằng việc áp dụng các mức giá, chương trình khuyến mại, dịch vụ vận
chuyển và các chính sách khác nhằm phục vụ một cách tốt nhất nhu cầu đa dạng
của khách hàng.
1.3.2. Đối thủ cạnh tranh
Cùng với đời sống vật chất được nâng cao, thói quen và tâm lý tiêu dùng của
người dân có sự thay đổi đáng kể trong vài năm trở lại đây, theo hướng chuyển dần
sang sử dụng kênh phân phối hiện đại (các cửa hàng tiện ích, siêu thị, đại siêu thị,
trung tâm thương mại). Sở dĩ có sự thay đổi trên vì người tiêu dùng có thể lựa chọn
được nhiều hàng hóa phụ vụ nhu cầu thiết yếu của họ tại cùng một địa điểm, với
chất lượng và giá cả khá đảm bảo. Theo ước tính, hiện nay cả nước có trên 200 siêu
thị, 30 trung tâm thương mại và khoảng 1000 cửa hàng tiện ích hoạt động trên
30/63 tỉnh thành3. Tuy nhiên, tương quan về quy mô, trình độ quản lý, công nghệ,
thiết bị kỹ thuật và phương thức kinh doanh chưa đồng đều và chưa theo được
3
www.tin247.com
chuẩn mực quốc tế. Các doanh nghiệp trong nước như Fivimart, Intimex, Hapro
Mart… chưa thể theo kịp được các nhà kinh doanh bán buôn và bán lẻ hàng đầy thế
giới đang có mặt tại Việt Nam như Metro Cash&Carry, Big C, Parkson…Đặc điểm
của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước là: quy mô nhỏ, trang thiết bị và công nghệ
chưa đồng bộ, hệ thống cung ứng hàng hóa chưa được thiết lập chặt chẽ…Việc
cung ứng hàng hóa đầu vào còn phụ thuộc vào các nhà phân phối khác. Đây chính
là một lợi thế kinh doanh quan trọng của không chỉ Metro nói riêng- với tư cách là
doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực phân phối hàng hóa tại Việt Nam- mà còn của
các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường phân phối ở Việt Nam.
Tuy nhiên, với đặc thù là các doanh nghiệp bán lẻ, Fivimart, Intimex, thậm
chí cả Big C đều chú trọng đến khâu thiết kế quang cảnh cho siêu thị của mình
nhằm hấp dẫn khách hàng. Hàng hóa của các siêu thị này được bán với đơn vị tính
nhỏ nhất có thể, bày biện, trang trí bắt mắt tạo sự hấp dẫn cho khách hàng. Trong
khi đó, với đặc thù là nhà kinh doanh bán buôn, Metro thường chú trọng đến khâu
lưu trữ hàng hóa hơn là bày biện hàng hóa. Sự khác biệt rõ rệt nhất nằm ở chỗ:
khung cảnh ở Metro thường được trang trí theo đặc trưng đơn giản, không phô
trương và ít hấp dẫn; các kệ hàng hóa ở Metro thường cao trên 3m, khác hoàn toàn
so với các kệ hàng thấp tại các siêu thị bán lẻ. Đây là một trong những điểm bất lợi
của Metro khi muốn mở rộng thị trường đến các hộ gia đình.
Theo lộ trình cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, các nhà
phân phối, bán lẻ nước ngoài sẽ được thành lập công ty tại Việt Nam. Đại đa số
doanh nghiệp muốn xâm nhập vào thị trường Việt Nam đều là những doanh nghiệp
có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực phân phối trên toàn thế giới, có tiềm lực về tài
chính, có trình độ quản lý, công nghệ hiện đại, đáp ứng được đầy đủ những tiêu
chuẩn chung về phân phối hàng hóa. Chính vì vậy, sức ép sẽ đè nặng lên vai các
doanh nghiệp phân phối, bán lẻ trong nước, trong đó có Metro trong việc giữ thị
phần và duy trì vị trí dẫn đầu tại thị trường Việt Nam.
1.4.
Các điều kiện kinh doanh của MCCVN
1.4.1. Các nguồn lực bên trong
1.4.1.1.
Năng lực tài chính
Khi mới thành lập vào đầu năm 2002, công ty có tổng số vốn đầu tư là 120 triệu
USD. Nhưng kết thúc năm 2008, tổng nguồn vốn của Metro đạt 358,3 triệu USD,
tăng gấp 1,216 lần so với cùng kỳ năm 2007. Nguồn vốn này được chia thành vốn
lưu động và vốn cố định.
Vốn cố định được đầu tư cho việc xây dựng các kho, mua sắm trang thiết bị cho
các kho và trụ sở chính của Công ty.
Vốn lưu động được sử dụng là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng. Vốn lưu động
được Công ty sử dụng để mua bán hàng hóa, chi trả các chi phí cho mọi hoạt động
kinh doanh của công ty.
Metro là một trong những công ty nước ngoài kinh doanh hiệu quả tại thị trường
Việt Nam. Với doanh thu năm 2008 đạt 3.468,56 tỷ đồng (tăng khoảng 30% so với
năm 2007), trong đó doanh thu từ nhóm khách hàng HORECA chiếm khoảng 65%.
Nhìn lại những năm trước đây, tổng doanh thu của Metro năm 2006 là 2.224,47
tỷ đồng nhưng sau 3 năm tăng trưởng không ngừng, năm 2008 đã đạt 3468,56 tỷ
đồng. Lợi nhuận sau thuế đạt từ 523,5 tỷ đồng năm 2006 lên 673,704 tỷ đồng năm
2008. Qua đây ta thấy được sự tăng trưởng không ngừng của Metro Việt Nam. Điều
này chứng tỏ mô hình kinh doanh bán buôn mà tập đoàn Metro đã và đang áp dụng
tại Việt Nam là một mô hình kinh doanh thành công.
Bảng 1-1: Các chỉ tiêu tài chính năm 2006-2008
(Đơn vị: tỷ VND)
Các chỉ tiêu
Năm
2006
So sánh
2007
2008
C.lệch
+/-
C.Lệch
+/-
(2)/(1)
(%)
(3)/(2)
(%)
1018,37
21,6
771,39
28,6
Tổng vốn đầu 4.088,02 4.714,71 5.733,08 626.69 15,33
tư
Tổng
doanh 2.224,47 2.697,17 3.468,56
472,7
21,25
thu
Lợi
nhuận 727,08
890,36
935,7
163,28 22,47
45,34
5,1
249,3
261,996
45,72
22,47
12,696
5,1
641,06
673,704
117,56 22,47
32,644
5,1
trước thuế
Thuế
nhập
thu 203,58
doanh
nghiệp
Lợi
nhuận 523,5
sau thuế
(Nguồn: Phòng tài chính kế toán – Metro Hoàng Mai)
Nhìn vào bảng kết quả hoạt động kinh doanh trên ta thấy; tình hình kinh doanh
của Metro qua các năm có sự thay đổi rất rõ rệt. Doanh thu năm sau cao hơn năm
trước và đạt tỷ lệ tăng cao hơn. Tổng doanh thu tăng từ 21,25% lên 28,6%. Lợi
nhuận của công ty cũng tăng khá rõ rệt. Tuy nhiên, trong năm 2008, tỷ lệ tăng lợi
nhuận giảm đáng kể so với năm 2007 (chỉ tăng 5,1%). Có thể lý giải cho hiện tượng
trên là do tình hình kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng có rất
nhiều biến động. Mức tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2008 dừng lại ở con số
6,2%. Tỷ lệ lạm phát tăng cao trên 2 con số (23%) dẫn đến việc gia tăng giá cả tiêu
dùng. Trong khi đó, thu nhập của người dân chưa được cải thiện đáng kể. Điều này
dẫn tới việc sức mua giảm, đồng nghĩa với hiện tượng doanh số bán giảm kéo theo
doanh thu và lợi nhuận giảm so với năm trước.
Từ bảng các chỉ tiêu tài chính của Metro Việt Nam, ta có biểu đồ doanh thu của
công ty trong 3 năm 2006-2008:
Biểu đồ 1-2: Doanh thu của MCCVN từ 2006-2008
(Đơn vị: Tỷ VNĐ)
Trong quá trình thực tập tại kho Hoàng Mai của công ty, tôi nhận thấy có sự
thay đổi rõ rệt trong doanh thu bán hàng qua các tháng. Điều này không chỉ xảy ra ở
kho Hoàng Mai mà còn xảy ra ở tất cả các kho của Metro trên cả nước do sự thay
đổi nhu cầu mang tính thời điểm của khách hàng ở các tháng trong năm.
Biểu đồ 1-3: Biểu đồ thay đổi doanh số bán của Metro Hoàng Mai năm 2008
(Đơn vị: Tỷ VND)
Biểu đồ doanh số bán qua các tháng trong năm 2008 của kho Hoàng Mai cho
thấy, doanh số tăng mạnh vào các tháng cận Tết, sau đó có chiều hướng giảm và
tăng chậm. Nguyên nhân là do ở các tháng cuối năm, sức mua của khách hàng ngày
các tăng để phục vụ cho nhu cầu Tết. Đặc biệt là vào tháng Tết (tháng 2 dương
lịch), doanh số đạt kỷ lục năm 2008 là 29,36 tỷ VND. Đây là con số khá ấn tượng
đối với một kho vừa mới được thành lập không lâu. Tuy nhiên, sau tháng Tết, sức
mua giảm xuống đáng kể. Bên cạnh sức mua của các khách hàng HORECA vẫn
được duy trì thì sức mua của khách hàng TRADER và FAMILY giảm xuống đáng
kể. Sở dĩ xảy ra hiện tượng trên là do trong dịp Tết lượng hàng hóa mà nhóm khách
hàng này tiêu thụ là rất lớn, phục vụ đầy đủ nhu cầu của họ trước và sau Tết. Các
tháng giữa năm, doanh thu được duy trì ở mức tương đối ổn định. Từ tháng 10/
2008, doanh số bán lại tiếp tục tăng đột biến do nhu cầu chuẩn bị Tết của khách
hàng (từ 24,98 tỷ VND trong tháng 10, lên đến 29,142 tỷ VND trong tháng 12).
1.4.1.2.
Nguồn nhân lực
- Xem thêm -