Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn tại ngân hàng thương...

Tài liệu Giải pháp tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn tại ngân hàng thương mại

.DOC
91
334
60

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU "Có bột mới gột nên hồ". Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vốn cũng là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục và có hiệu quả. Vốn thể hiện tiềm lực sức mạnh tài chính của doanh nghiệp trên thương trường, vốn của một doanh nghiệp càng lớn thì doanh nghiệp đó càng được nhiều người biết đến và tin tưởng kiến tạo nên sức cạnh tranh to lớn mà không ai có thể phủ nhận được. Với DNVVN vốn càng có ý nghĩa hơn, đặc biệt là nguồn vốn vay ngân hàng. DNVVN vốn năng động, linh hoạt và có vai trò quan trọng trong quá trình tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên DNVVN lợi thế thì ít mà bất lợi thì nhiều thể hiện ở quy mô vốn tự có nhỏ bé, công nghệ thiết bị lạc hậu, trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và tay nghề đội ngũ lao động còn nhiều hạn chế. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách khuyến khích, hỗ trợ DNVVN về mọi mặt như hỗ trợ tài chính, thông tin, đào tạo, xây dựng các trung tâm tư vấn... Song để các DNVVN phát triển và phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế thì rất cần sự trợ giúp về mọi mặt của Nhà nước, của nhiều ngành, nhiều cấp đặc biệt là sự hỗ trợ DNVVN tiếp cận với vốn vay ngân hàng. Hiện nay các DNVVN đang đứng trước một vấn đề nan giải là khó tiếp cận với nguồn vốn vay từ ngân hàng. Do đó làm thế nào để các DNVVN tiếp cận được với vốn vay đang là đòi hỏi bức xúc trong thực tiễn. Nhằm góp phần đáp ứng đòi hỏi đó và được sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của Cô giáo TS Lưu Thị Hương, em đã chọn đề tài: "Giải pháp tăng cường hỗ trợ DNVVN vay vốn tại ngân hàng thương mại" Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: 1 CHƯƠNG 1: HỖ TRỢ DNVVN VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI- NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ DNVVN VAY VỐN NHTM CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỖ TRỢ DNVVN VAY VỐN TẠI NHTM. 2 CHƯƠNG 1 DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VỚI HOẠT ĐỘNG VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. TỔNG QUAN VỀ DNVVN 1.1.1. Khái niệm DNVVN, tiêu chí phân loại Câu hỏi đầu tiên được đặt ra khi nghiên cứu vấn đề này là: Thế nào là DNVVN ? Việc nghiên cứu những tiêu chuẩn này vốn đã cần thiết lại càng trở nên quan trọng hơn do có sự khác biệt khá lớn về tiêu chuẩn DNVVN giữa nước này với nước khác. Nếu không có tiêu chuẩn rõ ràng chính xác về DNVVN thì không thể theo dõi được tình hình, đánh giá được chất lượng hoạch định và hiệu quả thực hiện chính sách đối với DNVVN, hiểu và phân tích được số liệu thống kê về kết quả hoạt động của các DNVVN. Vì vậy hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNVVN. Tuy nhiên không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNVVN cho tất cả các nước và ngay trong một nước việc phân loại cũng có sự khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, ngành nghề, địa bàn. Có hai nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ:  Tiêu chí định tính  Tiêu chí định lượng Tiêu chí định tính: Tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNVVN như trình độ chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít... Sử dụng các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó các tiêu chí này chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại. Tiêu chí định lượng: 3 Có thể sử dụng các tiêu thức như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế. Tài sản hoặc vốn có thể dùng giá trị tổng tài sản (hay vốn), tài sản cố định, giá trị tài sản còn lại. Doanh thu có thể là tổng doanh thu trong một năm, tổng giá trị gia tăng trong một năm. Ở các nước tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa dạng. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại DNVVN qua điều tra ở 12 nước và khu vực thuộc APEC. Trong các nước này tiêu chí số lao động được sử dụng phổ biến nhất (11/12 nước sử dụng chiếm 91,67%). Các tiêu chí khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước: vốn đầu tư (3/12 chiếm 25%), tổng giá trị tài sản (4/12 chiếm 33,33%), doanh thu (4/12 chiếm 33,33%) và tỷ lệ vốn góp (1/12 chiếm 8,33%). Số lượng tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba tiêu chí phân loại. Bảng 1.1: TIÊU CHÍ PHÂN LOẠI DNVVN TRÊN THẾ GIỚI Nước Australia Canada Hong Kong Nhật BảnSố lao Tiêu chí phân loại Số lao động Số lao động; Doanh thu Số lao động Số lao động; Vốn đầu tư động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Indonesia Malaysia Mexico Philippines Singapore Đài loan Thái Lan Mỹ Doanh thu; Tỷ lệ vốn góp Số lao động Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Số lao động; Tổng giá trị tài sản Vốn đầu tư; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Số lao động; Vốn đầu tư Số lao động (Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư) Sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối do quá trình phân loại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:  Trình độ phát triển kinh tế của một nước Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy ở một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn 4 để phân loại doanh nghiệp sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Rõ ràng là ở các nước phát triển, môi trường sống, thu nhập cũng như trình độ của người dân cao hơn hẳn so với các nước khác nên các quan niệm, yêu cầu đặt ra cho nền kinh tế chắc chắn sẽ cao hơn. Ví dụ như ở Nhật Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là DNVVN còn doanh nghiệp có tiêu chí như vậy ở Thái Lan lại là doanh nghiệp lớn. Ở Mỹ doanh nghiệp có 500 lao động là DNVVN trong khi đó ở Hồng Kông với tiêu chí này doanh nghiệp đó lại được coi là doanh nghiệp lớn.  Tính chất ngành nghề Do đặc điểm của từng ngành nghề nên có ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, lại có ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động như hoá chất, điện. Chính vì vậy cần tính đến nhân tố này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại DNVVN giữa các ngành khác nhau. Thực tế nhiều nước cho thấy người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Thường là các ngành sản xuất có tiêu chí cao hơn còn các ngành dịch vụ có tiêu chí thấp hơn. Ngoài ra có thể dùng khái niệm hệ số ngành Ib để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau.  Vùng lãnh thổ Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Ở thành phố một doanh nghiệp được cho là quy mô nhỏ nhưng nó là lớn đối với các vùng núi, nông thôn. Vì vậy cần tính đến cả hệ số vùng Ia để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau.  Tính chất lịch sử Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn nhưng với quy mô như vậy, hiện tại hoặc trong tương lai có thể là nhỏ hoặc vừa. Lấy ví dụ đơn cử như ở Việt Nam trước năm 1986 doanh nghiệp có quy mô từ 100 lao động trở lên là doanh nghiệp lớn nhưng hiện nay các doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người thì là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó thấy rằng trong việc xác định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp 5 trung bình Id. Hệ số này chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kỳ khác nhau.  Mục đích phân loại Khái niệm DNVVN sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích. Nếu mục đích phân loại là để hỗ trợ các doanh nghiệp yếu mới ra đời sẽ khác với mục đích là để giảm thuế cho các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại không gây ô nhiễm môi trường. Như vậy để xác định quy mô DNVVN của một nước trước hết cần xác định quy mô trung bình chung sau đó xác định các hệ số Ia, Ib, Id. Qua việc phân tích, đánh giá các tiêu chí phân loại DNVVN ở một số nước, ta thấy rằng để xác định tiêu chí phân loại DNVVN ở Việt Nam một cách phù hợp cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và tính đến các yếu tố tác động đến việc phân loại như đã trình bày ở trên.  Về tiêu chí phân loại: Phân loại DNVVN chủ yếu theo hai tiêu chí là lao động thường xuyên và vốn sản xuất vì chúng có tính phổ dụng, tính khả thi và tính chuẩn xác. + Tính phổ dụng: tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về hai tiêu thức này. + Tính khả thi: có thể xác định được hai tiêu chí này ở mọi cấp độ (toàn bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp). + Tính chuẩn xác: đây là hai tiêu chí có thể xác định tương đối chính xác trị số của chúng trong điều kiện Việt Nam.  Về trị số các tiêu chí: Ngày 20/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số 681/CPKTN quy định tiêu chí tạm thời xác định DNVVN, đó là các doanh nghiệp có vốn pháp định tối đa 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Thế nhưng qua quá trình khảo sát điều tra các doanh nghiệp, Chính phủ thấy rằng hai tiêu chí này chưa có sự tương thích với nhau. Vì vậy ngày 23/11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP quy định DNVVN là những doanh nghiệp có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.  Về lĩnh vực ngành: 6 Cần phân biệt hai lĩnh vực chính là sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ. Tuy nhiên việc phân loại theo hai nhóm ngành này là quá rộng vì trong các ngành sản xuất công nghiệp thì tính chất và mức độ sử dụng vốn, lao động và doanh thu rất khác nhau. Để đạt tới mức chuẩn xác hơn cần phân loại theo ngành hẹp hơn dựa trên đặc tính sử dụng lao động, vốn của các ngành và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở những phân tích trên có thể đi đến ước lượng tiêu chí để phân loại DNVVN như sau: Công nghiệp Doanh Trong đó: Tiêu chí Vốn sản xuất ( đồng Việt Nam ) Lao động thường xuyên ( người ) Thương mại, dịch vụ Doanh Trong đó: nghiệp vừa Doanh nghiệp vừa Doanh và nhỏ nghiệp nhỏ và nhỏ nghiệp nhỏ Dưới 10 tỷ <3 tỷ Dưới 5 tỷ <2 tỷ Dưới 300 <100 <200 <50 Từ tiêu chí phân loại về DNVVN mà ta có thể đưa ra khái niệm một cách chuẩn xác. Ngày 23/11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP định nghĩa DNVVN như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo định nghĩa này DNVVN bao gồm những doanh nghiệp sau: - Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. - Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã. - Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 2 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. 7 1.1.2. Đặc điểm của DNVVN Bất kỳ một nước nào cũng đều có DNVVN và muốn phát triển các doanh nghiệp này càng ngày càng lớn mạnh. Muốn thế họ cần nắm được đặc điểm của DNVVN. Đặc điểm DNVVN bao gồm cả điểm mạnh và điểm yếu.  Những điểm mạnh của DNVVN: - Dễ khởi nghiệp, lúc ban đầu không đòi hỏi gì nhiều về mọi mặt. Các doanh nghiệp lớn hiện nay cũng thường bắt đầu từ DNVVN . - Các DNVVN năng động linh hoạt nên dễ thích ứng thậm chí còn đón đầu những biến chuyển của công nghệ quản lý, những dao động từng lúc hoặc cơ bản lâu dài của thị trường, những thay đổi có khi đột ngột của môi trường thể chế, chế độ kinh tế xã hội - Đặc biệt thích nghi với việc phát huy mọi tiềm năng của địa phương và cơ sở, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. - Tạo ra những hiệu ứng tích cực và giảm bớt được những hiệu ứng tiêu cực so với các doanh nghiệp lớn. - Thuận lợi để kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, thể hiện trong kinh tế bản sắc văn hoá dân tộc và những nét riêng ưu trội của địa phương. - Là sự bổ sung thiết yếu cho chính sự sinh tồn và phát triển các doanh nghiệp lớn. Về nghiên cứu triển khai, DNVVN là nơi thử nghiệm những đổi mới phát minh sáng chế. Về sản xuất là người đảm nhiệm có hiệu quả cao những công đoạn cả ở phần đầu, phần giữa và phần cuối của quá trình chế tác mà doanh nghiệp lớn không cần làm. Về dịch vụ DNVVN có khả năng cung ứng tốt nhiều dịch vụ do có ưu thế trong việc tiếp xúc với khách hàng. Về thương mại DNVVN có tính cơ động nhanh nhạy thâm nhập vào những thị trường tốt và rút khỏi những thị trường không có tiềm năng.  Những điểm yếu của DNVVN - Thiếu nguồn lực để tiến hành những công trình nghiên cứu lớn đáp ứng yêu cầu và tận dụng khả năng của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là vốn. 8 - Không đủ sức thực hiện những dự án lớn về đầu tư chuyển đổi cơ cấu, về tiếp thị quảng cáo, về đào tạo.. để theo kịp, thúc đẩy và tận thu lợi ích của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. - DNVVN thường "lép vế " trong các mối quan hệ (với Nhà nước, với thị trường, ngân hàng, các trung tâm khoa học, với giới báo chí...). Hơn nữa các DNVVN thường phải dựa vào các doanh nghiệp lớn để tồn tại và phát triển. - Thiếu sức phòng, tránh và chống các rủi ro. Càng có nhiều DNVVN ra đời thì cũng có nhiều DNVVN phá sản. - Dù dược công nhận là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển song DNVVN rất khó tự tập hợp hoặc được tập hợp thành lực lượng thống nhất và đủ mạnh để có vị thế chi phối về kinh tế, xã hội và chính trị. 1.1.3. Nguồn vốn phát triển DNVVN  Vốn tự có Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh doanh và mọi thành phần kinh tế muốn tiến hành sản xuất kinh doanh phải có vốn tự có (VTC). Đối với DNNN, vốn tự có là giá trị thực có của vốn điều lệ do nhà nước quy định và được ngân sách nhà nước cấp phát. Đối với công ty cổ phần, VTC hình thành từ vốn do các cổ đông đóng góp. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, VTC là vốn riêng của chủ doanh nghiệp. Như vậy VTC là một bộ phận vốn quan trọng thể hiện hình thức tiền tệ nằm trong tổng vốn hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp thường được chia làm hai phần: một phần nộp NSNN hoặc để trả lãi cổ phần (nếu là công ty cổ phần) và một phần đưa vào dự trữ để tăng vốn tự có. VTC càng lớn, doanh nghiệp càng giảm được chi phí đầu vào mà vẫn mở rộng được sản xuất kinh doanh. Ngược lại VTC càng ít thì rủi ro trong kinh doanh càng lớn, chi phí phải trả vốn đi vay làm giảm một phần quan trọng thu nhập của doanh nghiệp. VTC của các DNVVN thường được tạo ra từ vốn riêng của chủ doanh nghiệp, vốn đóng góp của các cổ đông, bạn bè, họ hàng, của các xã viên....Nguồn vốn này chỉ chiếm khoảng 5-10% vốn luân chuyển của doanh 9 nghiệp, đây là một bất lợi cho DNVVN. Các DNVVN cần phải tìm cách tăng lợi nhuận từ đó làm cho tỷ trọng VTC trong nguồn vốn của doanh nghiệp được nâng lên một bước đáng kể.  Nguồn vốn chính thức Nguồn vốn này bao gồm vốn vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, vốn do NSNN cấp phát, vốn vay ưu đãi, viện trợ của Quỹ hỗ trợ phát triển, của các tổ chức phi Chính phủ. Nói chung các DNVVN rất khó tiếp cận với các nguồn vốn chính thức này. Về nguồn vốn vay ngân hàng, các DNVVN chủ yếu chỉ được vay vốn ngắn hạn, vay trung và dài hạn đòi hỏi các điều kiện rất chặt chẽ mà các DNVVN chưa đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng như không có đủ các giấy tờ pháp lý của các bất động sản đem thế chấp, chưa đủ sức lập các phương án kinh doanh có hiệu quả, doanh thu không cao...Các DNVVN cũng có rất ít cơ hội được ngân sách nhà nước cấp phát do quy mô nhỏ không đủ năng lực để đầu tư vào những lĩnh vực trọng điểm của nhà nước. Hơn nữa các nguồn vốn vay ưu đãi viện trợ của các tổ chức quốc tế như ILO, UNIDO, ZDH, Viện Friedrich Erbert...tuy đã phần nào cải thiện nguồn vốn cho DNVVN song chỉ những doanh nghiệp có đủ điều kiện vay vốn như vốn điều lệ tối thiểu, phương án khả thi, sự cam kết thực hiện hợp đồng của chủ doanh nghiệp.... thì mới được vay hoặc viện trợ. Vì vậy thiếu vốn đang là một trở ngại lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN.  Nguồn vốn phi chính thức Trước tình hình thiếu vốn nghiêm trọng này, các DNVVN phải dựa vào nguồn vốn phi chính thức là chủ yếu. Theo Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 75% doanh nghiệp Việt Nam có vốn dưới 50 triệu đồng, chỉ có khoảng 1/3 số doanh nghiệp nhỏ vay được vốn trong đó 20% là vốn vay ngân hàng còn lại 80% là từ nguồn vốn phi chính thức. Nguồn vốn phi chính thức được tìm kiếm từ cho vay nặng lãi, vay người thân, bạn bè....với lãi suất khá cao chủ yếu là vay nóng song các chủ doanh nghiệp vẫn chấp nhận do nhu cầu cấp bách về vốn. Ngoài ra các doanh nghiệp còn có thể chiếm dụng vốn của nhau qua hình thức mua chịu. Tuy nhiên phạm vi và quy mô nguồn vốn 10 này không lớn lắm. Chi phí cho nguồn vốn tín dụng phi chính thức của DNVVN rất cao song cũng không thể phủ nhận được vai trò của nguồn vốn này trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN nhất là trong điều kiện hiện nay khi các DNVVN không có khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức. Do đó có thể thấy rằng các DNVVN đang rất cần vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá công nghệ thiết bị. Trước tình hình này, Nhà nước cần đưa ra những chính sách, biện pháp hỗ trợ nhằm tăng năng lực tài chính cho DNVVN. Bởi các DNVVN là "xương sống" của nền kinh tế, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. 1.1.4. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế Trên khắp thế giới người ta đã thừa nhận rằng khu vực DNVVN đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước và vai trò đó được thể hiện khác nhau ở mỗi nước. Đối với các nước công nghiệp phát triển như Đức, Nhật, Mỹ... mặc dầu có nhiều công ty lớn nhưng DNVVN vẫn có vai trò hết sức quan trọng. Ở Nhật Bản người ta coi DNVVN là một nguồn lực đảm bảo cho sức sống của nền kinh tế, là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển thì ngoài vai trò là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế, DNVVN còn có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá đất nước, xoá đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề xã hội. Đối với các nước ở châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philippines, DNVVN còn có vai trò tích cực trong việc chống đỡ các tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, góp phần đáng kể vào sự ổn định kinh tế xã hội và từng bước khôi phục nền kinh tế. 11 Ở Việt Nam, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, huy động nguồn vốn trong nước, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hơn thế nữa các DNVVN chiếm một tỷ lệ áp đảo trong tất cả các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Theo tiêu chí phân loại dựa vào tổng giá trị vốn thì DNVVN chiếm tỷ lệ 95,6% trong tổng số các loại hình doanh nghiệp; chiếm khoảng 99% trong tổng số các doanh nghiệp tư nhân; chiếm 97,38% trong tổng số các hợp tác xã; chiếm 94,72% trong tổng số các công ty TNHH; chiếm 42,37% trong tổng số các công ty cổ phần và 65,88% trong tổng số các DNNN. Vai trò của DNVVN được thể hiện qua các nội dung sau:  Tạo việc làm cho người lao động Đây là một thế mạnh rõ rệt của DNVVN và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển DNVVN ở nước ta hiện nay. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2000 cả nước có tới 1.447.000 người trong độ tuổi lao động không có việc làm trong đó khu vực thành thị có 692.000 người chiếm 48%, còn khu vực nông thôn chiếm 52%. Theo dự báo từ nay đến năm 2010, dân số có thể tăng chậm lại nhưng nguồn lao động vẫn tăng nhanh liên tục đòi hỏi giải quyết việc làm hết sức khẩn trương. Khu vực DNVVN thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 2526% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước nhưng triển vọng thu hút thêm lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong một doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong công ty TNHH là 45 triệu đồng trong khi đó lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại DNNN là 87,5 triệu đồng. Các DNVVN đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động đặc biệt là số lao động ở nông thôn tăng lên mỗi năm đồng thời còn tiếp nhận số lao động từ các doanh nghiệp nhà nước dôi ra qua 12 việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai.  Đóng góp to lớn vào quá trình tăng trưởng kinh tế Mỗi năm DNVVN đóng góp khoảng 25-26% GDP của cả nước. Theo ước tính toàn bộ khu vực DNVVN tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng khối lượng luân chuyển hàng hoá, 100% giá trị sản lượng hàng hoá của một số ngành nghề như đồ mộc, sành sứ, chiếu cói, mây tre đan, giày dép, thủ công mỹ nghệ. Xét về tương quan giữa giá trị tài sản cố định với doanh thu để xem xét hiệu quả sử dụng đồng vốn ta thấy chỉ tiêu này ở DNVVN đang rất khả quan: để tạo ra 1 đồng doanh thu, các DNNN thuộc trung ương quản lý phải đầu tư 0,562 đồng vốn cố định trong khi đó các DNNN do địa phương quản lý chỉ đầu tư 0,220 đồng (chiếm 39%); hợp tác xã 0,298 đồng (53%); doanh nghiệp tư nhân 0,197 đồng (35%); công ty TNHH 0,188 đồng (33%). Các DNVVN nước ta thời gian gần đây rất chú trọng phát triển đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, khơi dậy các làng nghề. Hiện nay cả nước có khoảng 1.400 làng nghề trong đó 2/3 là làng nghề truyền thống có từ hàng trăm năm nay. Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc trưng của từng địa phương đã nổi tiếng trong cả nước, một số đã được xuất khẩu và được nước ngoài đánh giá cao như lụa Vạn Phúc, khảm trai Bắc Ninh, đúc đồng Ngũ Xã....tạo một nguồn doanh thu lớn cho các làng nghề, tăng thu nhập cho người dân địa phương. Đồng thời việc gìn giữ những sản phẩm độc đáo, củng cố và phát triển các DNVVN trong những ngành nghề truyền thống là phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc trong tăng trưởng kinh tế.  Góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Sự phát triển DNVVN đã tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế: từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo hướng hình thành một xã hội văn minh hiện đại. Mấy năm trở lại đây bộ mặt kinh tế xã hội của nhiều 13 vùng đã có thay đổi: nhiều thị trấn thị tứ đông đúc, nhộn nhịp hơn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được hình thành đi đôi với giao thông nông thôn phát triển, đường dẫn điện toả ra nhiều vùng nông thôn. Kết quả này có được là nhờ sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cho công nghiệp phát triển mạnh và còn thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ phát triển. Hơn nữa sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút những người lao động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút một số lượng lớn lao động thời vụ trong các thời kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lực lượng lao động làm nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ nhưng vẫn sống ngay tại quê hương bản quán, thực hiện được phương châm “ly nông bất ly hương”. Ở thành thị, DNVVN góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp dịch vụ và thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Vì vậy có thể nói sự phát triển của DNVVN đã đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nưóc.  DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách, bản làng và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều nên các DNVVN có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi nằm rải rác trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh góp phần khắc phục một nghịch lý trong nhiều năm là các doanh nghiệp thì thiếu vốn đầu tư trong khi lượng vốn trong dân còn nhiều khả năng tiềm ẩn chưa được khai thác. Mặc dù lượng vốn thu hút vào từng doanh nghiệp không lớn nhưng nhờ số lượng DNVVN đông nên toàn bộ vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh ngày càng tăng hạn chế tiêu dùng không sinh lợi.  Các DNVVN góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Với lợi thế của quy mô nhỏ là yêu cầu vốn ít, năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh, DNVVN có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, 14 chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ làm cho nền kinh tế năng động hơn. Nghĩa là hàng hoá rất đa dạng phong phú với nhiều mẫu mã, nhiều loại giá, người tiêu dùng tha hồ chọn lựa sao cho phù hợp. Đối với doanh nghiệp lớn, DNVVN có thể làm đại lý, vệ tinh tiêu thụ hàng hoá hoặc cung cấp các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn do đó góp phần hạ giá thành nâng cao hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp lớn.  Cuối cùng, DNVVN là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp. Kinh doanh quy mô nhỏ sẽ là nơi cho các nhà doanh nghiệp làm quen với môi trường kinh doanh cũng như thể hiện tài năng của họ. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua công việc điều hành quản lý, các nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn, tài ba tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp này sẽ ngày càng phát triển trở thành những doanh nghiệp lớn trong tương lai. Vì vậy có thể khẳng định các tài năng kinh doanh sẽ được ươm mầm trong các DNVVN. Tóm lại, DNVVN giữ một vị thế quan trọng trong nền kinh tế. Nó là động lực cho nền kinh tế phát triển. Chính phủ cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của DNVVN trong các Nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 và đưa ra những hình thức hỗ trợ rất thiết thực cho DNVVN đặc biệt là giúp đỡ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng thương mại. 1.2. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DNVVN 1.2.1. Tầm quan trọng của vốn vay ngân hàng đối với DNVVN Như trên đã trình bày, VTC của DNVVN rất nhỏ bé. Vì thế để đảm bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục ổn định, DNVVN phải dựa vào nguồn vốn vay là chủ yếu trong đó có vốn vay ngân hàng. 15 Vai trò của vốn tín dụng ngân hàng (TDNH) được thể hiện rõ nét như sau: Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển các DNVVN. Trong nền kinh tế thị trường, ai cũng muốn đồng vốn của mình phải sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó để lấy lãi còn những nhà doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, mua nguyên vật liệu mà không có tiền rất cần vay để thực hiện các mục đích trên và cũng vì mục đích sinh lợi của vốn. Để giải quyết mâu thuẫn đó, ngân hàng thông qua quan hệ tín dụng thu hút những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi và mang cho các nhà doanh nghiệp đang cần vốn vay. Do đó TDNH đã tạo cơ hội cho các chủ doanh nghiệp muốn thành lập công ty hoặc mở rộng sản xuất có thể vay vốn để thực hiện. Hơn nữa, nguồn vốn tự có của các DNVVN là rất bé chỉ chiếm khoảng 5-10% vốn luân chuyển, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động mở rộng sản xuất, quy mô, đổi mới nâng cấp chất lượng thiết bị công nghệ, sản phẩm. Trong khi đó thị trường vốn dài hạn và thị trường chứng khoán cho DNVVN chưa có, như vậy DNVVN phải dựa vào vốn vay ngân hàng từ 85-90% để tồn tại và phát triển sản xuất. Thứ hai, TDNH tác động vào xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh của các DNVVN theo chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và chiến lược CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nhà nước ta đang đẩy nhanh tiến độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế thiên về công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, để mở rộng các ngành nghề này và thu hẹp một số ngành khác tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, nhà nước cần sử dụng một số công cụ điều tiết vĩ mô trong đó phải kể đến tín dụng ngân hàng. Những doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề, những vùng mà Chính phủ khuyến khích phát triển thì các NHTM sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp như nới lỏng hạn mức tín dụng, lãi suất cho vay ưu đãi hơn các doanh nghiệp khác, đơn giản thủ tục vay vốn, điều kiện vay vốn cũng được nới lỏng hơn. Các doanh nghiệp muốn được hưởng ưu đãi sẽ đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề đó góp phần đẩy nhanh, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 16 Thứ ba, với tư cách là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, TDNH trở thành động lực kích thích các tổ chức kinh tế và dân cư trong nước thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ. Mặt khác TDNH còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các doanh nghiệp mua thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C. Như vậy nguồn vốn trong nước và nước ngoài đầu tư cho doanh nghiệp chủ yếu được thu hút qua kênh TDNH. Hay có thể nói TDNH trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng nhất giúp các DNVVN thực hiện tái sản xuất mở rộng, tăng cường ứng dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Thứ tư, TDNH góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng vốn của DNVVN. Ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là “vay để cho vay”, “vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn lẫn lãi” nên một doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng phải tính đến khả năng trả nợ ngân hàng, nếu quá hạn doanh nghiệp phải chịu lãi suất cao hơn. Muốn thế doanh nghiệp phải sử dụng đồng vốn vay một cách có hiệu quả tức là phải tạo ra một lượng lớn hơn khoản tiền vay ban đầu. Tất nhiên, nếu doanh nghiệp không trả được nợ, ngân hàng buộc phải khoanh nợ và có thể là bỏ qua. Song làm như thế các doanh nghiệp sẽ bị giảm uy tín lần sau khó có thể vay được vốn từ ngân hàng và hậu quả là không mở rộng sản xuất kinh doanh được, làm ăn thua lỗ dẫn tới giải thể hoặc phá sản . Thứ năm, TDNH tạo ra một hệ thống thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra một cách đồng bộ cho các DNVVN. Các DNVVN có vốn lưu động rất nhỏ so với nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để mua vật tư hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh chủ yếu được bù đắp bằng vốn TDNH (thị trường các yếu tố đầu vào). Mặt khác TDNH cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua cho vay tiêu dùng, cho vay hoặc bảo lãnh các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông mua bán hàng hoá (thị trường các yếu tố đầu ra). Thông thường ngân hàng chỉ cho các doanh nghiệp vay vốn làm kinh tế song để trợ giúp DNVVN tiêu thụ sản phẩm, ngân 17 hàng hiện đang mở rộng cho vay tiêu dùng để người dân có điều kiện mua sắm nhiều hơn, góp phần tạo ra sự cân bằng cung-cầu cho nền kinh tế. Thứ sáu, TDNH góp phần quan trọng thực hiện các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của toàn bộ nền KTQD, của từng địa phương, từng vùng, từng ngành kinh tế. Các chương trình này không nằm ngoài mục đích giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, khơi dậy các tiềm năng kinh tế địa phương, phát huy và làm sống lại nhiều ngành nghề truyền thống. Công cụ chủ yếu để thực hiện các mục đích trên là lãi suất. Hiện nay ở nước ta có một ngân hàng chính sách duy nhất là ngân hàng phục vụ người nghèo. Tại đây người nghèo được vay vốn làm ăn với lãi suất ưu đãi và thời hạn dài hơn tạo cơ hội tăng thu nhập cải thiện đời sống cho người dân, giảm bớt sự cách biệt giữa người giầu, người nghèo. TDNH còn làm sống lại các làng nghề truyền thống qua việc xoá bỏ sự phân biệt lãi suất cho vay giữa doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay ưu đãi đối với các làng nghề truyền thống. Do vậy TDNH là công cụ hữu ích để phát triển kinh tế. 1.2.2. Hình thức cho vay của ngân hàng đối với DNVVN Theo nguyên lý kế hoạch hoá tín dụng của nước ta, các NHTM đã xây dựng được một số phương thức cho vay khá khoa học. Có 2 phương thức cho vay chủ yếu là cho vay theo số dư và cho vay luân chuyển. Cho vay luân chuyển là phương thức cho vay tiên tiến nhất vì vốn của ngân hàng luôn tiếp cận kịp thời quá trình chu chuyển của đối tượng cho vay, chúng hầu như vận hành song song xuyên suốt từ đầu đến cuối, cùng khởi hành và cùng kết thúc chu kỳ với đối tượng cho vay. Còn cho vay theo số dư là phương thức cho vay mà vốn tín dụng không nhất thiết phải tiếp cận và luân chuyển song song với đối tượng cho vay. Dựa trên hai phương thức cho vay chủ yếu này các ngân hàng đã đa dạng hoá thành 7 hình thức cho vay như sau:  Cho vay từng lần: 18 Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên thì ngân hàng áp dụng phương thức cho vay từng lần. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn theo quy định của ngân hàng. Sau khi ngân hàng thẩm định, nếu chấp thuận cho vay thì ngân hàng cùng doanh nghiệp ký hợp đồng tín dụng theo mẫu có sẵn. Việc thẩm định xét duyệt cho vay, quản lý giám sát tình hình sử dụng vốn vay và thu hồi nợ được thực hiện theo từng hợp đồng tín dụng. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp có thể rút vốn một lần hoặc nhiều lần phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp nhưng tổng số tiền các lần rút vốn không được vượt quá số tiền ghi trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp dụng chủ yếu cho các DNVVN bởi tính đơn giản dễ áp dụng của nó song mỗi lần vay vốn doanh nghiệp lại phải tiến hành các thủ tục cho vay như trước rất tốn thời gian và tiền bạc.  Cho vay theo hạn mức tín dụng: Hình thức cho vay này được áp dụng đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ ràng và có tín nhiệm với ngân hàng. Căn cứ nhu cầu vay vốn theo hạn mức của doanh nghiệp, trị giá tài sản cầm cố, thế chấp, ngân hàng cùng doanh nghiệp xác định hạn mức tín dụng. Sau khi hợp đồng tín dụng theo hạn mức đã có hiệu lực, mỗi lần rút vốn vay doanh nghiệp không phải ký hợp đồng tín dụng mà lập giấy nhận nợ kèm bảng kê cùng bản sao các chứng từ tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay. Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp có thể vừa rút vốn vay vừa trả nợ tiền vay nhưng số dư nợ tiền vay trên tài khoản tiền vay không được vượt hạn mức tín dụng. Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được ổn định, trước khi hết thời hạn rút vốn theo hợp đồng tín dụng doanh nghiệp có thể căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh kỳ tới đưa ra mức vốn cần vay và cùng thoả thuận với ngân hàng để xác định một hạn mức tín dụng mới. Với hình thức cho vay này doanh nghiệp phải gửi báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh theo định kỳ để các cán bộ tín dụng của 19 ngân hàng thực hiện kiểm tra đảm bảo nợ vay bằng phương pháp tính toán cân đối vật tư đảm bảo nợ vay.  Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, cơ sở hạ tầng, kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống. Với hình thức cho vay này, ngoài những điều kiện đã trình bày ở trên doanh nghiệp cần có thêm các điều kiện sau: - Sao gửi các tài liệu liên quan đến dự án đầu tư. - Bên vay phải có vốn chủ sở hữu tham gia dự án. Vốn tham gia có thể là tiền hoặc tài sản đưa vào xây dựng dự án kể cả giá trị quyền sử dụng đất, tiền thuê đất đã trả, các chi phí mà doanh nghiệp đã tự đầu tư vào dự án. Vốn tham gia của chủ đầu tư phải được đưa vào công trình trước, ngân hàng cho vay sau hoặc cùng tham gia theo tỷ lệ. - Gửi các tài liệu, báo cáo định kỳ hoặc đột xuất cho ngân hàng để kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay.  Cho vay hợp vốn: Đây là hình thức nhiều ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác cùng cho một đối tượng vay vốn và do một ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn xếp. Hình thức này mới được áp dụng ở Việt Nam và đã tỏ ra khá hữu hiệu. Cho vay hợp vốn khi nhu cầu vay vốn của một doanh nghiệp quá lớn mà một ngân hàng không thể đáp ứng nổi dù rằng ngân hàng thẩm định thấy dự án hoặc phương án này là khả thi. Kết quả là ngân hàng sẽ tìm thêm các đối tác khác để cùng tiến hành cho vay trên cơ sở các bên cùng có lợi.  Cho vay trả góp: Theo hình thức này ngân hàng cùng khách hàng xác định và thoả thuận số tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan