Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ - thực t...

Tài liệu Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ - thực trạng và giải pháp

.PDF
74
181
113

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ ---------***---------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÊN ĐỀ TÀI: MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH ĐỒ GỖ – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Họ và tên sinh viên : Đào Xuân Minh Lớp : Anh 5 Khoá : 44 Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Trọng Hải Hà nội, tháng 5 năm 2009 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc xây dựng và thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất công nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Chính vì vậy, để giúp cho mỗi ngành có được điều kiện phát triển tốt nhất, việc xem xét, đánh giá tác động của những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh đến hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành là hết sức cần thiết. Điều đó không chỉ có ý nghĩa với bản thân các doanh nghiệp sản xuất mà nó còn là cơ sở để chính phủ cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có những chính sách, điều chỉnh kịp thời nhằm hỗ trợ cho ngành. Trong một thập kỷ trở lại đây, nước ta đã chứng kiến sự vươn lên nhanh chóng của một ngành sản xuất công nghiệp, đó là ngành sản xuất và kinh doanh đồ gỗ. Sự gia tăng nhanh chóng của các doanh nghiệp, cùng với việc hình thành các khu vực công nghiệp lớn chuyên sản xuất đồ gỗ trên cả nước đã cho thấy tiềm năng phát triển và tầm quan trọng của ngành đối với nền kinh tế đất nước. Đến thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế nước ta đang ngày càng hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới, ngành đã trở thành một trong những lĩnh vực xuất khẩu hàng đầu và tạo được mối quan hệ giao thương, buôn bán trên phạm vi quốc tế. Việc chính phủ kí kết các hiệp định thương mại và tham gia các tổ chức kinh tế càng làm cho ngành tham gia sâu hơn vào thị trường toàn cầu. Do đó, các doanh nghiệp trong ngành ngày càng phải đối mặt với nhiều biến động phức tạp của môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến sự phát triển của mình. Vấn đề đặt ra hiện nay của ngành sản xuất kinh doanh đồ gỗ nói riêng và tất cả các ngành sản xuất nói chung là những tác động từ môi trường kinh doanh có ảnh hưởng như thế nào đến toàn ngành, bản thân các doanh nghiệp trong ngành sẽ ứng phó ra sao đối với những biến động đó. Mặt khác, chính phủ cần phải làm gì để trợ giúp và tạo cơ chế thuận lợi cho 1 doanh nghiệp vượt qua được khó khăn. Đó cũng chính là lý do khiến em quyết định lựa chọn vấn đề: “Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ: Thực trạng và giải pháp” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu: Thứ nhất, từ cơ sở lý luận chung về môi trường kinh doanh và các yếu tố bên trong môi trường kinh doanh, tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng tác động của chúng đến ngành sản xuất và kinh doanh đồ gỗ. Thứ hai, từ sự phân tích, đánh giá thực trạng tác động của môi trường kinh doanh đến ngành sản xuất và kinh doanh đồ gỗ, đưa ra định hướng, giải pháp và đề xuất để cải thiện môi trường kinh doanh của ngành. Thứ ba, đưa ra các bài học, kinh nghiệm cho các ngành sản xuất và kinh doanh khác. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là môi trường kinh doanh, thực trạng tác động của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là “các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ”. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Khoá luận được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp phân tích-tổng hợp, kết hợp với thực tiễn, đi từ cái chung đến cái riêng, từ số liệu thống kê đến phân tích, đánh giá để đưa ra các giải pháp, đề xuất góp phần hoàn thiện. 5. Kết cấu khoá luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương như sau: 2 Chƣơng I: Tổng quan về môi trƣờng kinh doanh. Chƣơng II: Thực trạng môi trƣờng kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ ở Việt Nam. Chƣơng III: Một số giải pháp và đề xuất góp phần hoàn thiện môi trƣờng kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ ở Việt Nam. Người viết mong muốn qua khoá luận này có thể nghiên cứu và đóng góp ý kiến của bản thân về những vấn đề quan trọng đang được nhiều doanh nghiệp trong ngành quan tâm. Tuy nhiên do trình độ có hạn, khóa luận này chắc chắn không thể tránh khỏi nhiều khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến bổ sung, sửa chữa của thầy cô giáo và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Trọng Hải và những người đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này ! 3 CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƢỜNG KINH DOANH I. Khái niệm về môi trƣờng kinh doanh. Môi trường kinh doanh luôn là vấn đề được các nhà quản trị doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, cơ quan quản lý nhà nước và chính phủ quan tâm bởi nó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế. Dưới góc độ nhìn nhận của các nhà quản trị, môi trường kinh doanh được hiểu [5,83] là: Môi trường kinh doanh là khung cảnh bao trùm lên toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nó bao gồm tổng thể các yếu tố khách quan và chủ quan vận động tương tác lẫn nhau có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. II. Các nhân tố của môi trƣờng kinh doanh và tác động của chúng đến doanh nghiệp. Khi xem xét đến các nhóm yếu tố của môi trường kinh doanh có ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, cũng như đến quyết định của ban lãnh đạo doanh nghiệp nhằm đưa ra giải pháp đối phó với những yếu tố đó, môi trường kinh doanh được chia ra làm 2 nhóm [7,16]: Môi trường kinh doanh bên ngoài và môi trường bên trong nội bộ doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh bên ngoài là những yếu tố hay lực lượng bên ngoài doanh nghiệp có khả năng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp, ở đó chứa đựng hàng loạt các yếu tố khác nhau rất phức tạp. Trong đó môi trường bên ngoài lại bao gồm hai yếu tố: môi trường vĩ mô và môi trường vi mô hay còn gọi là môi trường ngành. 1. Môi trƣờng vĩ mô. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô thuộc loại yếu tố không kiểm soát được, không lệ thuộc và không bị doanh nghiệp chi phối. Khi diễn ra sự thay đổi, chúng thường không tác động nhanh bằng các yếu tố trong môi trường ngành đối với doanh nghiệp. Các nhà nghiên cứu đã phân các yếu tố không 4 kiểm soát được thành những nhóm sau đây [7,17] tuỳ theo tính chất của chúng: 1.1. Môi trường kinh tế. Thực trạng nền kinh tế và xu hướng biến đổi trong tương lai đều ảnh hưởng đến thành công trong các hoạt động của doanh nghiệp cũng như tác động đến quá trình điều hành của nhà quản trị. Các yếu tố chính mà doanh nghiệp thường phân tích là: Tốc độ tăng trưởng và tình hình chung của nền kinh tế, thu nhập và sức mua, lãi suất và khả năng vay tín dụng, lạm phát, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái. Thực vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong các giai đoạn thịnh vượng, suy thoái hay khủng hoảng sẽ ảnh hưởng đến chi tiêu và nhu cầu tiêu dùng của người dân, từ đó ảnh hưởng đến mức doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi nền kinh tế đang ở giai đoạn có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập của người tiêu dùng tăng và công việc được đảm bảo sẽ dẫn đến sức mua trong xã hội tăng. Bởi vậy, doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để thu lợi, đầu tư mở rộng hoạt động. Ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, khủng hoảng dẫn đến giảm thu nhập, tỷ lệ thất nghiệp tăng, người dân có xu hướng thắt chặt chi tiêu thì lúc này doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức để tồn tại. Lợi nhuận sụt giảm đồng thời còn làm tăng mức độ cạnh tranh trong ngành. Thông thường khi nền kinh tế sa sút, chính phủ các nước buộc phải vào cuộc để đưa ra chính sách hỗ trợ doanh nghiệp còn doanh nghiệp sẽ phải tái cơ cấu lại hoạt động và thực hiện nhiều biện pháp kích cầu tiêu dùng như khuyến mại, hạ giá. Bên cạnh đó, mức lãi suất cũng ảnh hưởng đến cầu cho các sản phẩm, đến chi phí vốn của doanh nghiệp Với mức lãi suất tiết kiệm và cho vay thấp, các doanh nghiệp có thể vay vốn với mức chi phí thấp hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Người tiêu dùng cũng sẽ chi tiêu hay đầu tư vào các lĩnh vực khác thay vì gửi nhiều tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Mặt khác, nếu lãi suất cao, doanh nghiệp sẽ khó khăn trong vay vốn vì phải chịu áp lực về mức chi phí vốn cao. Lợi nhuận của doanh nghiệp do vậy bị giảm và người 5 dân khi đó đi gửi tiền tiết kiệm nhiều hơn. Ngoài ra, mức độ khó dễ trong các khoản vay tín dụng cũng là yếu tố ảnh hưởng đến tiêu dùng, hoạt động vay vốn đầu tư của các doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xuyên phải đi vay vì bị hạn chế về vốn hay các doanh nghiệp có nhu cầu vốn lớn cho đầu tư sản xuất kinh doanh thì mọi biến động trong lãi suất và khả năng vay tín dụng đều có thể ảnh hưởng mạnh đến những doanh nghiệp này. Đặc biệt cả các mặt hàng có nhu cầu lớn, có mức độ nhạy cảm cao đối với thu nhập và giá cũng chịu tác động. Cụ thể là khi ngân hàng tiến hành giảm thiểu các điều kiện và tiêu chuẩn cho vay, mở rộng các khoản vay ưu đãi dành cho khách hàng khi mua một mặt hàng nào đó, cầu đối với mặt hàng này tất yếu có xu hướng tăng lên dẫn đến việc đẩy giá mặt hàng này tăng lên. Điều này cũng hoàn toàn tương tự đối với doanh nghiệp, khi đó doanh nghiệp sẽ đi vay để đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực được ưu đãi. Trái lại, nếu ngân hàng siết chặt các khoản vay và đẩy mạnh việc thu hồi, người đi vay bao gồm cả người tiêu dùng lẫn doanh nghiệp lúc này sẽ buộc phải nhanh chóng tìm cách đẩy nhanh quá trình thu hồi vốn nếu như họ không còn đủ tiền để trả nợ ngân hàng . Do đó, họ sẽ phải tìm cách bán nhanh các mặt hàng, đối tượng mà mình đã mua hoặc đầu tư dẫn đến giá mặt hàng có xu hướng sụt giảm. Lạm phát và vấn đề chống lạm phát cũng là một yếu tố quan trọng khác cần xem xét và phân tích. Nếu để tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế cao, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn. Thứ nhất, giá cả hàng hoá tăng khiến cho sức mua và nhu cầu tiêu dùng đối với các hàng hoá giảm. Thứ hai là chi phí đầu vào và chi phí hoạt động của doanh nghiệp cũng tăng. Chính hai điều này khiến cho doanh thu và lợi nhuận doanh nghiệp giảm. Thêm vào đó, các dự án đầu tư lúc này cũng trở nên mạo hiểm hơn, rốt cuộc là các doanh nghiệp sẽ giảm nhiệt tình đầu tư phát triển sản xuất và thậm chí buộc phải tạm ngừng các dự án đầu tư đó. Không những vây, bản thân nhà nước cũng sẽ phải vào cuộc, đề ra các biện pháp nhằm kiểm soát chặt chẽ giá cả và kiềm chế lạm phát. Trên thực tế, tại một số nơi trên thế giới, việc kiểm 6 soát giá cả đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính phủ, lạm phát cao khiến cho doanh nghiệp không thể kinh doanh thuận lợi và thu được mức lợi nhuận mong muốn trước sự sụt giảm trong tiêu dùng. Tóm lại, lạm phát cao là mối đe doạ của doanh nghiệp. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái cũng có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ cho doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết, tỷ giá hối đoái là sự so sánh về giá trị giữa đồng tiền trong nước với đồng tiền của các quốc gia khác. Giá trị của đồng nội tệ giảm sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu có cơ hội tăng lợi nhuận còn doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu chi phí đầu vào cao hơn . Ngược lại, giá trị đồng nội tệ tăng sẽ hạn chế xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu. Lúc này, lợi nhuận thu đuợc từ hoạt động xuất khẩu giảm, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng như nước ngoài lại được lợi. 1.2. Môi trường chính trị, pháp luật . Hoạt động kinh doanh và quyết định của ban lãnh đạo doanh nghiệp cũng chịu tác động mạnh mẽ của những diễn biến trong môi trường chính trị, pháp luật. Trong đó, chính phủ, cơ quan quản lý chuyên ngành đóng vai trò chính trong việc tạo ra những diễn biến trong môi trường này. Họ có ảnh hưởng đến những gì mà mà các tổ chức có thể và không thể làm. Khi sản xuất càng phát triển, sự can thiệp của chính phủ, cơ quan quản lý tăng dần theo thời gian. Tác động đem lại có thể là cơ hội, trở ngại thậm chí là rủi ro cho doanh nghiệp. Những tác động này được thể hiện qua: sự ổn định về mặt chính trị, chính sách thương mại và chính sách phát triển của chính phủ, hệ thống pháp luật điều chỉnh. Sự ổn định về chính trị trong hay ngoài nước (nơi doanh nghiệp hoạt động) là một trong những yếu tố thu hút đầu tư từ nước ngoài. Thêm vào đó, các chính sách thương mại, chính sách phát triển kinh tế xã hội của chính phủ còn cho thấy rõ được chiến lược, thái độ quan điểm của chính phủ đối với từng ngành liên quan. Căn cứ vào những chính sách này, doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể biết đươc những định hướng phát 7 triển, những ưu tiên, khuyến khích cũng như hạn chế của chính phủ đối với ngành để có những kế hoạch, bước đi, điều chỉnh sao cho phù hợp. Nếu như 2 yếu tố trên đóng vai trò đánh giá mức độ thuận lợi và những định hướng cho từng ngành thì hệ thống pháp luật lại là yếu tố chính điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp trong ngành. Qua nhiều năm, hàng loạt đạo luật được ban hành ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện là cơ sở để quản lý, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời và giải quyết những mối quan hệ mới phát sinh từ đó tạo môi trường kinh doanh ổn định, công bằng, thuận lợi cho doanh nghiệp. Hiện nay, các điều luật, các quy định, chính sách, văn bản pháp quy của chính phủ và cơ quan quan lý luôn hướng tới việc đảm bảo lợi ích của cả 3 đối tượng: doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã hội. Có thể kể đến một số đạo luật như: luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, luật thương mại, luật đầu tư, luật lao động, luật thuế, luật bảo vệ người tiêu dùng, luật bảo vệ môi trường. 1.3. Môi trường văn hoá xã hội. Xã hội mà mỗi người lớn lên trong đó đều đã định hình niềm tin cơ bản, chuẩn mực và giá trị nhất định. Vì vậy, xem xét đến yếu tố văn hoá xã hội là xem xét đến những chuẩn mực và giá trị được chấp nhận và tôn trọng trong một xã hội hoặc trong một nền văn hoá cụ thể. Những chuẩn mực, giá trị này được thể hiện qua: + Quan niệm về đạo đức, lối sống, thẩm mỹ, nghề nghiệp. + Phong tục, tập quán, tín ngưỡng, truyền thống, phong cách sống. + Trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội. Các yếu tố này tác động đến nhu cầu, thị hiếu và nhận thức của người tiêu dùng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chúng còn ảnh hưởng đến hoạt động quản trị và chính sách nhân sự trong doanh nghiệp Trong số các chuẩn mực và giá trị đó, có những chuẩn mực và giá trị rất bền vững khó thay đổi nhưng có những chuẩn mực và giá trị biến đổi theo thời gian. Bởi vậy, các doanh nghiệp khi đưa ra các sản phẩm, chiến lược hay 8 kế hoạch marketing cần lưu ý cả đến những giá trị chuẩn mực không thay đổi đó để có được sự phù hợp trong các mối quan hệ và trong việc đáp ứng nhu cầu với khách hàng. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần hết sức quan tâm đến việc theo sát, phát hiện những biến đổi về văn hoá xã hội để có thể dự báo, đáp ứng kịp thời những xu hướng mới trong tiêu dùng. Thị hiếu và trình độ dân trí ngày càng cao là điều kiện kiên quyết buộc các doanh nghiệp đổi mới, cải tiến sản phẩm. 1.4. Môi trường công nghệ. Trong môi trường vĩ mô, các yếu tố công nghệ có sự thay đổi nhanh nhất trong những năm qua. Con người đang sống trong một môi trường có công nghệ không ngừng thay đổi. Chính công nghệ là lực lượng quan trọng nhất định hình và thay đổi cuộc sống của con người. Trong kinh doanh, công nghệ đã làm thay đổi nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ, tác động đến chất lượng và giá thành sản phẩm, vòng đời sản phẩm, mở ra nhiều lĩnh vực mới và làm mất đi lĩnh vực khác, đồng thời còn làm thay đổi cách thức quản lý, tổ chức của doanh nghiệp. Những gì mà công nghệ đem lại vì vậy tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức cho doanh nghiệp. + Về mặt cơ hội, công nghệ mới làm cho năng suất cao hơn, giúp sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sản xuất ra với chất lượng tốt hơn, hoàn thiện hơn, nhiều tính năng hơn từ đó tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Doanh nghiệp ngoài ra có thể thâm nhập, mở rộng hoạt động sang các thị trường sản phẩm dịch vụ mới. Không những vậy, bộ máy của doanh nghiệp sẽ trở nên nhanh, gọn, giảm thiểu tối đa thời gian chi phí trong quá trình tác nghiệp. + Về mặt thách thức, công nghệ buộc các doanh nghiệp phải đổi mới thường xuyên để có thể cạnh tranh trong môi trường mà các sản phẩm truyền thống đang lưu hành luôn gặp phải sự đe doạ từ những sản phẩm thay thế. Vì thế, nó làm tăng thêm áp lực rút ngắn thời gian khấu hao công nghệ và vòng đời sản phẩm so với trước. 9 Các nhà quản lý doanh nghiệp luôn cần theo dõi chặt chẽ sự thay đổi trong công nghệ và cả những quy định liên quan đến công nghệ định áp dụng. Đối với họ, thách thức không chỉ là về mặt kỹ thuật, mà là cả về mặt thương mại, pháp lý tức là phải lựa chọn, phát triển được những phương án vừa túi tiền cho các sản phẩm đó, đồng thời đảm bảo phù hợp với quy định của chính phủ. Tóm lại là họ phải có sự đánh giá chính xác, nắm kỹ những quy định này khi đề xuất, phát triển và tung ra những sản phẩm mới hay sử dụng những công nghệ mới. 1.5. Môi trường tự nhiên. Kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động sản xuất tăng nhanh kéo theo những vấn đề nảy sinh về môi trường tự nhiên. Ngày nay, môi trường tự nhiên đang dần trở nên xấu đi và việc bảo vệ môi trường tự nhiên đã trở thành vấn đề được đặc biệt quan trọng đặt ra trước các doanh nghiệp và công chúng. Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như: vị trí địa lý, nguồn tài nguyên, khí hậu , đất đai. Tại những nơi có dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, đánh giá mức độ ảnh hưởng của dự án đầu tư đến những yếu tố trên và tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát trở thành điều kiện bắt buộc trong việc cấp phép đầu tư. Theo giáo sư Philip Kotler [3,112], các doanh nghiệp cần nhạy bén đối với những mối nguy cơ và cơ hội gắn liền với bốn xu hướng sau trong môi trường tự nhiên: + Thứ nhất, đó là sự thiếu hụt về mặt nguyên nhiên liệu. Hiện nay, những nguồn tài nguyên trên trái đất có loại vô hạn, loại hữu hạn, có thể tái tạo được hoặc không thể tái tạo được. Đối với những loại tài nguyên hữu hạn và tái tạo được cần khai thác và có chính sách tái tạo một cách hợp lý để vừa có thể đáp ứng đủ nhu cầu xã hội, vừa có đủ lượng tài nguyên mới để tiếp tục khai thác khi nguồn tài nguyên cũ dùng hết. Đối với những nguồn tài nguyên hữu hạn nhưng không tái tạo được, vấn đề nghiêm trọng được đặt ra khi chúng trở nên cạn kiệt. Vì vậy, các công ty buộc phải đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để tạo ra những sản phẩm sử dụng nguồn nguyên nhiên liệu mới thay thế với hiệu suất cao. 10 + Thứ hai, chi phí năng lượng ngày càng gia tăng. Vấn đề này diễn ra với nguồn năng lượng thuộc nhóm tài nguyên hữu hạn, không thể tái tạo được + Thứ ba, mức độ ô nhiễm môi trường tăng. Trong đó, công nghiệp là hoạt động ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên nhiều nhất.. Vấn đề xử lý môi trường đã tạo ra một thị trường lớn cho các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh các giải pháp kiểm soát ô nhiễm. Đồng thời, nó còn dẫn đến nhu cầu trong việc tạo ra và sử dụng các công nghệ sạch, nguồn năng lượng sạch. + Thứ tư, đó là sự thay đổi vai trò của các chính phủ trong việc bảo vệ môi trường. Các chính phủ giờ đây đều coi trọng và kiểm soát chặt chẽ vấn đề môi trường. Tuy nhiên, các chính phủ lại có mức độ quan tâm và nỗ lực khác nhau trong việc bảo vệ môi trường. Điều này được thể hiện qua những chính sách, điều luật, quy định mà họ ban hành. Chính vì lý do trên, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các chính sách đẩy mạnh phát triển của chính phủ đối với từng ngành cần đáp ứng các yêu cầu sau: + Ưu tiên phát triển các hoạt động khai thác tốt điều kiện tự nhiên trên cơ sở duy trì, tái tạo. + Tiết kiệm và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, chuyển dần từ tài nguyên không thể tái sinh sang sử dụng vật liệu nhân tạo. + Đẩy mạnh việc nghiên cứu và phát triển công nghệ để bảo vệ môi trường, giảm thiểu tối đa tác động gây ô nhiễm. 1.6. Toàn cầu hoá. Toàn cầu hóa là xu hướng quốc tế hoá trên mọi lĩnh vực của đời sống. Toàn cầu hoá đã, đang và sẽ là một xu hướng tất yếu mà mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi chính phủ phải tính đến. Hoạt động của con người lúc này không còn bị giới hạn bởi biên giới quốc gia và ngày càng trải rộng ra toàn thế giới với một tốc độ ngày càng cao trên tất cả mọi lĩnh vực. Điều đó làm cho nền kinh tế thế giới trở thành một chỉnh thể thống nhất trong đó mỗi quốc 11 gia là một bộ phận, giữa chúng có sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau cũng như gắn kết hay xung đột về mặt lợi ích. Quá trình quốc tế hoá diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu hướng khu vực hoá. Trong đó nhất thể hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ và được tăng cường với sự nương tựa, hợp tác với nhau ngày càng nhiều giữa các quốc gia. Xu hưóng khu vực hoá thể hiện ở việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực với các hình thức đa dạng ví dụ như: Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Tổ chức diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội quốc gia Đông Nam Á... Xu hướng quốc tế hoá đặt ra yêu cầu tất yếu là mỗi quốc gia cần phải mở cửa ra thị trường thế giới và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế và khu vực để có được khuôn khổ phù hợp cho sự phát triển. Thông qua những liên kết kinh tế khu vực đó, các quốc gia tiến dần tới việc hạ thấp hoặc xoá bỏ các rào cản thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi, ưu đãi để thúc đẩy phát triển kinh tế và quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Chính điều này đã làm thay đổi và đem lại tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước tiên, doanh nghiệp có cơ hội đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa, tiếp cận và mở rộng thị trường nhờ các quy chế ưu đãi cũng như những thoả thuận mà các quốc gia trong cùng một liên kết kinh tế cam kết dành cho nhau thông qua hiệp định được kí kết. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có cơ hội học tập, tiếp thu công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, thị trường mở cửa và rào cản thương mại giảm đồng thời cũng là thách thức lớn đối với doanh nghiệp vì sức ép cạnh tranh sẽ tăng lên. Thêm vào đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với nhiều yếu tố rủi ro và bất định hơn do môi trường kinh doanh giữa các nước lúc này trở nên liên thông có tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau và cũng bởi sự phụ thuộc về mặt lợi ích trong quan hệ kinh doanh buôn bán. Đặc biệt, doanh nghiệp ở các nước đang phát triển vốn phụ thuộc vào xuất khẩu sẽ còn phải đối mặt với nhiều rào cản kỹ thuật, các vụ kiện pháp lý từ 12 phía các nước phát triển để nhằm mục đích bảo hộ sản xuất trong nước. 2. Môi trƣờng ngành: Một ngành kinh doanh là tập hợp các doanh nghiệp cùng cung cấp các sản phẩm dịch vụ có thể thay thế được cho nhau nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng [5,86]. Nếu như môi trường vĩ mô có ảnh hưởng chung tới nhiều ngành kinh doanh khác nhau thì môi trường ngành lại có ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức tới từng doanh nghiệp trong ngành, tới các quyết định của nhà quản lý doanh nghiệp và khả năng thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp [9,92]. Những yếu tố tạo nên môi trường ngành đó là: khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn, sản phẩm thay thế. Ngoài ra, cũng cần lưu ý một điều là các doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực sản phẩm, dịch vụ vẫn có thể có môi trường ngành khác nhau do hoạt động trong các ngách thị trường khác nhau. Mô hình 5 áp lực cạnh tranh [5,84] được giáo sư M.Porter xây dựng dựa vào 5 yếu tố: khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, sản phẩm thay thế đã đem lại một sự phân tích, đánh giá tổng quát về ảnh hưởng của chúng đến doanh nghiệp. Một điều hiển nhiên là áp lực của mỗi yếu tố trong số 5 yếu tố trên càng mạnh thì càng hạn chế cho doanh nghiệp trong việc áp đặt giá, khả năng kiếm được lợi nhuận và ngược lại. Mô hình 1.1. Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của M. Porter. Nguồn: PGS, TS Lê Văn Tân (2000), Giáo trình “Quản trị chiến lược”, Nhà xuất bản Thống Kê, trang 84. 13 2.1. Khách hàng. Các doanh nghiệp tồn tại để đáp ứng nhu cầu của khách hàng hay thị trường tiêu thụ. Họ là người tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp. Khách hàng có thể là cá nhân, tổ chức, chính phủ nhưng nếu xét dưới góc độ quy trình của hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, khách hàng của doanh nghiệp lại bao gồm người tiêu dùng cuối cùng, các nhà phân phối (đại lý, nhà bán buôn, bán lẻ) và các doanh nghiệp khác (nếu yếu tố đầu ra của doanh nghiệp này là yếu tố đầu vào của doanh nghiệp kia). Trong quan hệ mua bán, khách hàng có thể gây sức ép thông qua khả năng đàm phán đối với doanh nghiệp về mặt giá cả và chất lượng, và một vài yếu tố khác như điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán qua đó làm ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp. Thêm vào đó, thị hiếu cũng như nhu cầu của khách hàng luôn thay đổi. Rõ ràng, khách hàng là yếu tố bất định đối với doanh nghiệp. Trong một ngành, nếu áp lực từ phía khách hàng cao thì mức độ cạnh tranh tăng lên tạo nguy cơ cho các doanh nghiệp hiện tại và ngược lại. Đánh giá quyền lực đàm phán và khả năng tạo áp lực của khách hàng, giáo sư M.Porter đưa ra các tiêu chí như [5,85]: số lượng khách hàng, tầm quan trọng của khách hàng (thể hiện qua % doanh thu), chi phí chuyển đổi khách hàng. Cụ thể là áp lực của khách hàng tăng lên khi: + Ngành cung cấp gồm nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Trong khi đó, số lượng người mua ít và có quy mô lớn. Điều này cho phép người mua chi phối các công ty cung cấp. + Khách hàng mua số lượng lớn. Trong hoàn cảnh này, người mua có thể sử dụng như một ưu thế để mặc cả giảm giá. Điều này cũng tương tự khi doanh nghiệp trong ngành phụ thuộc vào một khách hàng quan trọng nào đó bởi số đơn đặt hàng của khách hàng này luôn chiếm tỷ lệ lớn trong % doanh thu của doanh nghiệp. + Người mua có thể thay đổi nhà cung cấp cũ với mức chi phí thấp. 14 + Đối với khách hàng là doanh nghiệp sản xuất cần mua các yếu tố đầu vào từ doanh nghiệp khác. Áp lực cũng sẽ tăng lên nếu như khách hàng có xu hướng khép kín sản xuất, có thể tự sản xuất gia công các bộ phận, chi tiết, yếu tố đầu vào thay vì mua từ doanh nghiệp khác. 2.2. Nhà cung cấp. Khi nói đến nhà cung cấp, chúng ta nghĩ ngay đến những doanh nghiệp hay những người chuyên cung ứng các yếu tố đầu vào cho doanh ngiệp như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, vốn, lao động. Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, yêu cầu đặt ra chính là việc tìm kiếm và đảm bảo cho doanh nghiệp của mình có được nguồn cung cấp đầu vào ổn định với một mức chi phí hợp lý hay giá thấp nhất có thể. Hoạt động doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng ngay khi những yếu tố đầu vào này mang tính bất trắc- tức là nếu chúng không sẵn có hay bị trì hoãn thì có thể sẽ giảm hiệu quả của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh lúc đó sẽ bị ngưng trệ, kéo dài thời gian so với dự kiến và khiến doanh nghiệp phát sinh thêm chi phí. Qua đó làm giảm khả năng kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp. Tình huống đó luôn là mối đe doạ tiềm ẩn, tạo áp lực cho doanh nghiệp đặc biệt là với những doanh nghiệp bị phụ thuộc. Trên thực tế, áp lực từ phía nhà cung cấp sẽ được tạo ra trong các trường hợp [5,86] sau: + Ngành chỉ có một số ít các nhà cung cấp thậm chí có một doanh nghiệp độc quyền trong việc cung ứng. + Sản phẩm của nhà cung cấp có rất ít sản phẩm thay thế và là yếu tố đầu vào quan trọng đối với doanh nghiệp. + Sản phẩm của nhà cung cấp có tính khác biệt hoá cao, tạo lợi thế cho doanh nghiệp và được đánh giá cao bởi khách hàng. + Doanh nghiệp mua yếu tố đầu vào không phải là khách hàng quan trọng và ưu tiên của nhà cung cấp. + Chi phí chuyển đổi nhà cung cấp đối với doanh nghiệp quá lớn. 2.3. Đối thủ cạnh tranh hiện tại. 15 Với mỗi doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp cung cấp sản phẩm dịch vụ thoả mãn cùng loại nhu cầu, cùng một thị trường [5,85]. Ngày nay, doanh nghiệp cạnh tranh trên nhiều phương diện, tạo sức ép lẫn nhau thông qua giá, các dịch vụ đi kèm, tính năng sản phẩm và việc phát triển sản phẩm mới. Để đánh giá mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, M.Porter đưa ra 3 nội dung sau, bao gồm: cơ cấu ngành, nhu cầu ngành và rào cản rút lui khỏi ngành. + Về vấn đề cơ cấu ngành. Trước hết, cơ cấu ngành là sự phân bổ về số lượng các doanh nghiệp có quy mô khác nhau trong cùng 1 ngành sản xuất kinh doanh. Cơ cấu ngành dựa vào khả năng phân phối, đáp ứng nhu cầu sản phẩm của doanh nghiệp. Cơ cấu ngành khác nhau tạo ra sự cạnh tranh khác nhau. Cơ cấu ngành thay đổi từ ngành phân tán cho tới ngành tập trung. Đối với ngành phân tán, ngành này bao gồm một số lượng lớn các doanh nghiệp, các doanh nghiệp này có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động riêng lẻ, độc lập với nhau và trong đó không có doanh nghiệp nào giữ vai trò chi phối toàn ngành. Bởi vậy, mức độ cạnh tranh thường cao và cạnh tranh mạnh về giá. Đối với ngành tập trung, ngành này lại chỉ bao gồm một số ít các doanh nghiệp, các doanh nghiệp này thường có quy mô lớn thậm chí có một doanh nghiệp duy nhất giữ vai trò chi phối toàn ngành. Điều này khiến cho mức độ cạnh tranh trở nên không rõ nét, khó phân tích dự đoán, các doanh nghiệp có xu hướng theo nhau. + Nhu cầu ngành là một yếu tố khác quyết định đến mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành. Thông thường, nhu cầu ngành tăng cao tạo cho doanh nghiệp một cơ hội lớn để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, nó cũng ẩn chứa nguy cơ bởi sự hấp dẫn của ngành là nguyên nhân khiến cho nhiều đối thủ mới muốn gia nhập ngành. Ngược lại, khi nhu cầu ngành giảm sẽ dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt để các doanh nghiệp chiếm giữ thị phần. Lúc đó, nguy 16 cơ mất thị trường là điều các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh phải đối mặt. + Rào cản rút lui là yếu tố cuối cùng ảnh hưởng tới mức độ cạnh tranh. Nó đem lại nguy cơ cho doanh nghiệp khi cầu của ngành giảm mạnh. Rào cản rút lui cao, doanh nghiệp có thể bị bó buộc trong một ngành sản xuất khiến cạnh tranh tăng lên. Rào cản rút lui khỏi ngành bao gồm: Chi phí đầu tư về tài sản cố định, đào tạo, xây dựng kênh phân phối và các chi phí khác. Trong đó, tài sản cố định khó thay đổi hoặc khó bán lại được theo giá trị thực tế. Nếu rút khỏi ngành, doanh nghiệp buộc phải bỏ phí những giá trị còn lại của những tài sản này cũng như kinh phí đã dùng cho đào tạo, xây dựng kênh phân phối. Đó là chưa kể các khoản phí khác như chi phí sa thải nhân công trong trường hợp cắt giảm và không sử dụng lao động trong lĩnh vực đó nữa. Ràng buộc về mặt pháp lý và ràng buộc về chiến lược, ví dụ như vấn đề thủ tục hành chính phát sinh khi doanh nghiệp rút khỏi ngành, vấn đề quan hệ chiến lược giữa các đơn vị kinh doanh khi một sản phẩm, dịch vụ có cùng kênh phân phối hoặc cùng các phương tiện sản xuất với các sản phẩm khác. Yếu tố tâm lý như giá trị, uy tín của nhà lãnh đạo, quan hệ với ngành hoặc địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động và sẽ ảnh hưởng đến doanh nghiệp nếu rời bỏ ngành. 2.4. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Bên cạnh việc phân tích, đánh giá đối thủ cạnh tranh hiện tại, doanh nghiệp cũng cần lưu ý với mối đe doạ từ các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Đó là các doanh nghiệp hiện tại chưa hoạt động trong cùng một ngành sản xuất kinh doanh nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành [5,87]. Sức hấp dẫn của ngành là yếu tố chính quyết định sự tham gia của đối thủ tiềm ẩn. Nó xuất phát từ triển vọng cũng như thực trạng phát triển của ngành. Nếu ngành có tốc độ phát triển cao, đem lại lợi nhuận lớn thì sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp muốn gia nhập ngành. Tuy nhiên, việc có thêm đối 17 thủ là điều mà các doanh nghiệp hiện tại không mong muốn. Họ luôn cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn gia nhập bởi càng có nhiều doanh nghiệp trong ngành thì cạnh tranh càng trở nên khốc liệt hơn. Mức độ thuận lợi và khó khăn cho việc gia nhập ngành của đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn phụ thuộc phần lớn vào rào cản gia nhập ngành. Xét về mặt chi phí thì rào cản gia nhập chính là chi phí tối thiểu mà một doanh nghiệp phải bỏ ra khi tiến hành hoạt động kinh doanh trong một ngành nào đó. Nếu rào cản gia nhập ngành càng cao thì sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp hiện tại trong ngành và cản trở đối thủ tiềm ẩn. Ngược lại, nếu rào cản gia nhập thấp thì sẽ tạo điều kiện cho các đối thủ ngoài ngành gia nhập. Có nhiều loại rào cản gia nhập ngành, với mỗi tiêu chí phân loại khác nhau sẽ có những loại rào cản khác nhau. Căn cứ vào nguồn của rào cản, đối thủ tiềm ẩn phải đối mặt với các loại rào cản gồm có: + Lợi thế kinh tế theo quy mô: Đây là sự giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm khi khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc kinh doanh tăng lên trong một khoảng thời gian nhất định. Khi doanh nghiệp trong ngành có lợi thế theo quy mô cao dẫn đến lợi thế về chi phí thì đó sẽ là rào cản với đối thủ. + Lợi thế chi phí tuyệt đối nhờ sự vượt trội về kỹ thuật sản xuất thông qua công nghệ sử dụng, khả năng làm chủ công nghệ tốt, đội ngũ nhân lực có tay nghề và kinh nghiệm cao sử dụng hiệu quả nguồn nguyên vật liệu đầu vào. + Sự khác biệt hoá của sản phẩm và sự trung thành của khách hàng. Sự khác biệt hoá càng cao, đối thủ càng khó gia nhập bởi chi phí cho một chiến lược khác biệt hoá thường cao và mạo hiểm. Hơn nữa, việc khách hàng đã quá quen với hình ảnh, nhãn hiệu của doanh nghiệp hiện tại cũng tạo ra khó khăn cho đối thủ tiềm ẩn. + Yêu cầu về vốn đầu tư ban đầu: Vốn đòi hỏi lớn là cản trở cho doanh nghiệp. 18 + Khả năng tiếp cận kênh phân phối. Nếu khả năng tiếp cận đối với doanh nghiệp muốn gia nhập là cao thì rào cản trong ngành sẽ giảm, nhưng nếu kênh phân phối chủ yếu đã được thiết lập giữa các doanh nghiệp hiện tại thì đó lại là vật cản đối với doanh nghiệp muốn nhảy vào. + Chi phí chuyển đổi nhà cung cấp của người mua. Chi phí này càng cao thì càng khó cho đối thủ tiềm ẩn. + Các loại rào cản khác như chi phí phải bỏ ra để có được bí quyết kỹ thuật, bản quyền, phát minh sáng chế, rào cản trong khả năng tiếp cận nguồn nguyên vật liệu, các quy định của chính phủ liên quan đến việc cho phép hoặc hạn chế sự gia nhập ngành. Ngoài ra, nếu căn cứ vào đặc điểm của rào cản, ta lại có thể phân thành rào cản tài chính, rào cản công nghệ, rào cản thương mại. 2.5 Sản phẩm thay thế. Sản phẩm thay thế là các sản phẩm khác có khả năng đáp ứng cùng một loại nhu cầu của khách hàng như các sản phẩm của doanh nghiệp [5,88]. Sản phẩm thay thế có thể gây ra áp lực cho các doanh nghiệp hiện tại ở các khía cạnh: + Buộc doanh nghiệp có sự điều chỉnh về mặt giá cả. + Doanh nghiệp luôn phải cải tiến tính năng, công dụng, mẫu mã hay đổi mới sản phẩm để duy trì và tăng khả năng cạnh tranh. + Doanh nghiệp phải phân tích, theo dõi thường xuyên sự tiến bộ của kỹ thuật công nghệ vốn liên quan trực tiếp đến sản phẩm cộng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường, xu thế tiêu dùng. 3. Môi trƣờng nội bộ doanh nghiệp. Môi trường nội bộ là bối cảnh bên trong doanh nghiệp. Ở đây chứa đựng những yếu tố có thể kiểm soát được hay có thể nói là chứa đựng những yếu tố chủ quan của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể điều chỉnh được để quản lý và đẩy mạnh hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình [7,16]. Những nhân tố kiểm soát được đồng thời đóng vai trò là các bộ phận chức năng trong 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan