LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ nhiều năm nay, Đảng ta đã chủ trương "làm bạn với tất cả các
nước", tăng cường hợp tác kinh tế - thương mại với tất cả các quốc
gia ở mọi châu lục, đặc biệt là các nước láng giềng có chung biên
giới với Việt Nam .
Thực hiện chủ trương trên, hơn 10 năm qua, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng phát triển.
Năm 2003, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc
đạt 4, 540 tỷ USD và Trung Quốc đã trở thành bạn hàng xuất khẩu
lớn của Việt Nam. Con số này sẽ tăng nhanh trong năm 2004 và dự
kiến sẽ đạt 5 tỷ USD vào năm 2005 và 10 tỷ USD vào năm 2010.
Có được kết quả nêu trên là do sự nỗ lực của Chính phủ và
doanh nghiệp cả hai nước trong hoạt động hợp tác kinh tế - thương
mại, đặc biệt là trong hoạt động thương mại qua biên giới giữa Việt
Nam và Trung Quốc.
Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
và thế mạnh của hai nước, nhiều tồn tại vẫn nảy sinh như: Tình
trạng buôn lậu vẫn tồn tại và có dấu hiệu gia tăng; vẫn còn nhiều
hàng giả, hàng chất lượng thấp của Trung Quốc tràn vào Việt Nam;
hàng hoá của Việt Nam ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới đã trở
thành hiện tượng phổ biến...Những tồn tại nêu trên
1
không chỉ
làm ảnh hưởng mà còn cản trở sự phát triển thương mại hàng hoá
qua biên giới Việt - Trung. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm giải pháp
khắc phục những tồn tại nêu trên trong phát triển thương mại hàng
hoá qua biên giới Việt - Trung nhất là trong điều kiện Trung Quốc
là thành viên chính thức của WTO và các thách thức trong quá trình
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng lớn là hết sức quan
trọng và cần thiết.
Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam
với Trung Quốc và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động
thương mại hàng hoá qua biên giới giữa hai nước, tôi đã lựa chọn
nghiên cứu đề tài: "Quan hệ thương mại hàng hoá qua biên giới
Việt - Trung".
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước :
Cho đến nay, đã có nhiều tài liệu, bài viết của các tác giả trong
và ngoài nước phản ánh hoạt động thương mại qua biên giới Việt Trung nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau như: “Buôn bán qua biên
giới Việt nam - Trung quốc. Lịch sử - Hiện trạng - Triển vọng.TS.
Nguyễn Minh Hằng - Viện Kinh tế thế giới; “Một số vấn đề về phát
triển thương mại quốc tế vùng biên giới phía Bắc” của TS. Nguyễn
Công Hoàn - Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia;
“Đổi mới quản lý Nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu trên địa
bàn các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc” của TS. Lương
Đăng Ninh - Viện Nghiên cứu Thương mại...
2
Tuy vậy, hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu có tính hệ
thống về quan hệ thương mại qua biên giới Việt-Trung. Tính mới mẻ
của đề tài là ở chỗ phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển
quan hệ thương mại qua biên giới Việt-Trung trên cơ sở các lý thuyết
lợi thế so sánh và thuế quan. Đây là cơ sở lý luận cơ bản, góp phần
hình thành tính hệ thống trong nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Tìm kiếm và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
phát triển thương mại hàng hoá qua biên giới Việt - Trung, từ đó
thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ thực trạng hoạt động thương mại qua biên giới Việt Trung từ
1991 đến nay và những ảnh hưởng của nó đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước và của các tỉnh biên giới Việt Trung.
- Kiến nghị các giải pháp để phát triển quan hệ thương mại qua
biên giới giữa hai nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
3
- Hoạt động thương mại hàng hoá qua biên giới Việt - Trung.
- Các chính sách, cơ chế của Chính phủ Việt Nam đối với việc
phát triển hoạt động thương mại qua biên giới Việt - Trung.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Do giới hạn về nhiều mặt, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một
trong bốn lĩnh vực chính chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại là
thương mại hàng hoá (xuất nhập khẩu hàng hoá). Các lĩnh vực khác
như: Thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và các biện pháp đầu tư có
liên quan đến thương mại chỉ đề cập đến dưới góc độ có liên quan
và hỗ trợ cho hoạt động thương mại hàng hoá.
Cụ thể, phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
- Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới Việt Trung giai đoạn 1991 - 2003.
- Các chính sách hiện hành của Chính phủ Việt Nam đối với
hoạt động thương mại hàng hoá qua biên giới giữa hai nước.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp cơ bản được áp dụng trong
nghiên cứu kinh tế là phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện
chứng.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
khác như:
- Kết hợp nghiên cứu lý thuyết với điều tra, khảo sát thực tế.
4
- Sử dụng phương pháp thống kê.
- Kết hợp mô hình phân tích, so sánh và dự báo kinh tế với phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của luận văn:
- Tổng kết một cách hệ thống thực trạng quan hệ thương mại
hàng hoá qua biên giới Việt - Trung; phân tích và đưa ra những
đánh giá đúng về ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã
hội Việt Nam.
- Đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp phát triển hoạt động
thương mại hàng hoá qua biên giới Việt - Trung trong điều kiện
Trung Quốc là thành viên của WTO và Hiệp định Hợp tác kinh tế
toàn diện ASEAN - Trung Quốc mà trọng tâm là việc thiết lập Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) đang trong giai
đoạn đầu của quá trình thực hiện.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của thương mại hàng hoá
qua biên giới Việt-Trung
Chương 2: Thực trạng của thương mại hàng hoá qua biên giới
Việt - Trung giai đoạn 1991 - 2003
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy hoạt động thương
mại hàng hoá qua biên giới Việt - Trung
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
THƯƠNG MẠI HÀNG HOÁ QUA BIÊN GIỚI Ở VIỆT NAM
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Các khái niệm, thuật ngữ
1.1.1.1. Khái niệm về thương mại quốc tế
Từ những năm 380-322 (trước Công nguyên), thuật ngữ “kinh
doanh” đã được Arixtốt sử dụng và được dùng nhiều trong thời kỳ
Hy lạp. Sự phát triển của nền văn minh loài người cũng gắn liền với
các hoạt động trao đổi, buôn bán. Quan hệ trao đổi sản phẩm trong
từng bộ tộc, từng bản làng, từng vùng dần dần được mở rộng ra khỏi
phạm vi quốc gia thành quan hệ thương mại quốc tế. Đây là một sự
phát triển tất yếu mang tính khách quan. Trong tác phẩm “Tư bản”,
C.Mác đã định nghĩa thương mại quốc tế là sự mở rộng hoạt động
thương mại ra khỏi phạm vi một nước. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng
hoá trên thị trường thế giới. Thông qua hoạt động thương mại quốc
tế, các nước buôn bán những hàng hoá và dịch vụ để thu lợi nhuận.
6
Từ xưa, người ta đã biết nhiều đến sự trao đổi hàng hoá giữa các
nước thông qua các hoạt động mua và bán qua biên giới . Sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai, trật tự kinh tế - chính trị của thế giới đã
được sắp đặt lại, cùng với sự tiến bộ và phát triển như vũ bão về
khoa học, công nghệ đã dẫn đến sự phát triển đa dạng các hình thức
quan hệ kinh tế, thương mại giữa các nước. Khái niệm kinh tế đối
ngoại đã được dùng để chỉ các hoạt động đó. Khái niệm này chủ yếu
được các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sử dụng, nó
bao gồm các hoạt động khác nhau như ngoại thương, hợp tác quốc
tế về đầu tư và thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, hợp tác
quốc tế về khoa học - công nghệ và các hoạt động dịch vụ thu ngoại
tệ. Như vậy, khái niệm thương mại quốc tế có nội dung rộng hơn
khái niệm ngoại thương. Đối tượng của nó không chỉ gồm các hàng
hoá hữu hình mà còn bao gồm cả các dịch vụ liên quan đến thương
mại hàng hoá như dịch vụ kỹ thuật, mua bán phát minh sáng chế,
dịch vụ vận tải và các dịch vụ thương mại quốc tế khác.
Năm 1948, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT) được ký kết chủ yếu điều tiết lĩnh vực thương mại hàng
hoá. Từ đó đến nay, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng,
mở rộng sang cả lĩnh vực thương mại dịch vụ (ngân hàng, bảo hiểm,
vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, xây dựng, tư vấn...), các
vấn đề về đầu tư có liên quan đến thương mại và quyền sở hữu trí
tuệ.
7
Trên cơ sở các quy định của GATT, Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) ra đời theo Hiệp định Marrakesh ngày 1 tháng 1 năm
1995 . WTO hoạt động dựa trên một hệ thống các luật lệ và quy tắc
điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế được xây dựng
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản là: Thương mại không phân biệt
đối xử, chỉ bảo hộ bằng thuế quan, tạo dựng một nền tảng ổn định
cho thương mại quốc tế, xây dựng quan hệ thương mại tự do hơn
thông qua đàm phán... nhằm phát triển hơn nữa các quan hệ thương
mại quốc tế, đẩy mạnh tự do hoá thương mại trên phạm vi toàn cầu.
Với sự ra đời của WTO, khái niệm thương mại quốc tế đã được
chuẩn hoá và sử dụng rộng rãi. Xét về đặc trưng thì thương mại
quốc tế được định nghĩa là việc mua, bán hàng hoá và dịch vụ qua
biên giới quốc gia. Định nghĩa này được sử dụng nhiều khi xác định
vai trò của thương mại như chiếc cầu nối về cung và cầu hàng hoá,
dịch vụ xét cả về số lượng, chất lượng và thời gian sản xuất. Khi đề
cập đến thương mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới, việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ còn đi kèm với việc
trao đổi các yếu tố sản xuất như tài nguyên, lao động, vốn... Vì vậy,
thương mại quốc tế được hiểu là việc mua, bán hàng hoá và dịch vụ
giữa các đối tác có quốc tịch khác nhau (việc mua, bán không chỉ
dừng lại xem xét trên giác độ không gian và địa lý).
Hoạt động thương mại quốc tế được tồn tại và phát triển do yêu
cầu khách quan của sự phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất
8
thế giới dựa trên sự phân công lao động và sự trao đổi lợi thế so
sánh giữa các quốc gia vì mục tiêu phát triển của các quốc gia đó.
Quan hệ thương mại quốc tế bao gồm toàn bộ các hoạt động trao
đổi, hợp tác giữa các quốc gia, giữa các khối liên kết khu vực trong
lĩnh vực thương mại dựa trên cơ sở các Hiệp định thương mại, các
cam kết, các thoả thuận song phương, đa phương.
Ngày nay, tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế
đang nổi lên như một xu thế có tính chất toàn cầu. Các quốc gia trên
thế giới đều đang tăng cường phát triển thương mại quốc tế và coi
đó như yêu cầu không thể thiếu để xây dựng và phát triển kinh tế
đất nước.
1.1.1.2. Khái niệm về thương mại hàng hoá qua biên giới
Từ xa xưa, thương mại hàng hoá qua biên giới được coi “là phương thức mậu dịch do tập quán truyền thống của lịch sử hình thành,
không xếp vào mậu dịch đối ngoại của quốc gia. Nói chung, các nước đều giành cho phương thức mậu dịch này sự đãi ngộ về thuế hải
quan. Theo sự phát triển của mậu dịch quốc gia, thương mại hàng
hoá qua biên giới với nghĩa hẹp như ở trên được phát triển thành
phương thức mậu dịch theo nghĩa rộng, tức là giao dịch xuất nhập
khẩu hàng hoá được tiến hành tại vùng biên giới giữa hai nước. Nó
được liệt vào phạm vi mậu dịch đối ngoại của quốc gia, thuộc một
trong những phương thức mậu dịch xuất nhập khẩu". [9, Tr.139)
9
Như vậy, thương mại hàng hoá qua biên giới là hoạt động mua
bán, trao đổi hàng hoá được diễn ra giữa cư dân và doanh nghiệp hai
nước tại khu vực biên giới của các nước láng giềng. Theo nghĩa
rộng, thương mại hàng hoá qua biên giới giữa hai nước láng giềng
không chỉ đơn thuần là hoạt động buôn bán hàng hoá tại các cửa
khẩu biên giới mà nó có phạm vi rộng hơn, bao trùm các hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá được diễn ra trên toàn bộ khu vực biên
giới của hai nước, bao gồm cả thương mại chính ngạch, thương mại
tiểu ngạch và hoạt động mua bán của cư dân hai nước dọc biên
giới .
1.1.2. Các lý thuyết về lợi thế so sánh và thuế quan trong
thương mại quốc tế
1.1.2.1. Lý thuyết về lợi thế so sánh
Có thể nói sự phát triển của nhân loại luôn gắn liền với sự phát
triển của hoạt động buôn bán. Từ rất lâu, con người đã tìm ra những
lợi ích của hoạt động này giữa các quốc gia. Cách đây hàng ngàn
năm, người Trung Hoa, Ấn Độ đã thường xuyên đưa những sản
phẩm độc đáo của mình sang các nước Châu Âu, Châu Á để trao đổi
lấy những thứ mà xứ sở mình không có và họ cũng đã rất sớm tìm
thấy những lợi ích của thương mại quốc tế. Tuy nhiên, những lý
thuyết về lợi ích của thương mại quốc tế chỉ thực sự xuất hiện ở thế
kỷ XV qua thuyết trọng thương. Sau đó, ở đầu thế kỷ XVIII, nhà
kinh tế học người Anh Adam Smith đã phát triển lý thuyết này
10
thông qua sự khuyến khích tự do thương mại. Sau này, nhà kinh tế
học nổi tiếng David Ricardo đã đưa ra học thuyết về lợi thế so sánh,
làm cơ sở cho việc nghiên cứu thương mại quốc tế có tính khoa học
và tính thực tiễn hơn. Những nhà khoa học E. Hecksher (1897 1952) và O.Hlin (1899 - 1979) đã tiếp tục phát triển học thuyết lợi
thế so sánh và đưa học thuyết tới hoàn thiện, giải thích có tính khoa
học hơn về nguyên nhân và lợi ích của thương mại quốc tế.
Hoạt động xuất nhập khẩu - một nội dung chủ yếu của thương
mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ diễn ra giữa các
nước, hay giữa các đối tác có quốc tịch khác nhau. Sự trao đổi đó là
biểu hiện của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau
về kinh tế của các nhà sản xuất và tiêu dùng hàng hoá riêng biệt ở
mỗi quốc gia. Nó được quy định bởi sự đa dạng về điều kiện sản
xuất và tiêu dùng giữa các nước. Bởi vậy, hoạt động xuất nhập khẩu
nói riêng và quan hệ thương mại nói chung luôn gắn liền với sự phát
triển của xã hội loài người. Qua từng thời kỳ lịch sử, các nhà kinh tế
học đã nghiên cứu về nguồn gốc, lợi ích của thương mại quốc tế để
tìm ra bản chất của quan hệ này.
Lý thuyết của trường phái trọng thương
Vào khoảng những năm 1450, phương thức sản xuất phong kiến
tan rã, phương thức sản xuất TBCN ra đời. Trong thời kỳ đầu của
phương thức sản xuất TBCN, vì sản xuất chưa phát triển, để có tiền
tệ tích luỹ phải thông qua hoạt động ngoại thương, mua bán trao
11
đổi, nhất là sự trao đổi không ngang giá giữa các nước tư bản với
các nước thuộc địa. Đặc biệt, khi khám phá ra Châu Mỹ, một là
sóng du thương phát triển mạnh mẽ nhằm chuyển vàng từ Châu Mỹ
về Châu Âu. Vai trò của tư bản thương nghiệp lúc bấy giờ được đề
cao. Thực tiễn đã đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế hướng dẫn hoạt
động thương nghiệp. Học thuyết kinh tế trọng thương ra đời.
Theo học thuyết kinh tế trọng thương, tiền tệ là tiêu chuẩn cơ
bản của của cải, hàng hoá chỉ là phương tiện làm tăng khối lượng
tiền tệ. Để có tiền tệ phải thông qua hoạt động thương mại quốc tế,
mà trước hết là ngoại thương. Trong ngoại thương phải thực hiện
xuất siêu, phần lợi nhuận có được là do mua ít, bán nhiều, mua rẻ,
bán đắt mà có.
Là tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản trong thời kỳ tích luỹ
nguyên thủy tư bản, chủ nghĩa trọng thương mặc dù chưa biết đến
các quy luật kinh tế, hạn chế về tính lý luận, đặc biệt chưa chỉ ra cơ
sở hay nguyên nhân cho hoạt động ngoại thương nhưng đã có những
đóng góp nhất định về lý luận khi chỉ ra vai trò của ngoại thương
đối với sự phát triển kinh tế và tư tưởng nhà nước cần can thiệp vào
nền kinh tế như: Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương, Nhà nước
tạo ra các điều kiện pháp lý và các rào cản cho các công ty thương
mại độc quyền buôn bán với nước ngoài.
Lý thuyết "lợi thế tuyệt đối" của Adam Smith (1723-
1790)
12
Từ cuối thế kỷ XVI, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản,
các học thuyết kinh tế của các trường phái ra đời để giải thích các
hiện tượng kinh tế - xã hội. Đầu tiên, Adam Smith - nhà kinh tế học
tiêu biểu của trường phái Cổ điển Anh, đã đưa ra lý thuyết về lợi thế
tuyệt đối trong thương mại quốc tế. Theo ông, thương mại quốc tế
bắt nguồn từ nguyên tắc phân công quốc tế . Ông là nhà kinh tế học
đầu tiên trên thế giới nhận thức về vai trò của chuyên môn hoá (mà
ông gọi là phân công quốc tế), tiến bộ kỹ thuật và đầu tư là những
động lực phát triển kinh tế. Adam Smith đã phát triển học thuyết
“lợi thế tương đối” và quan niệm tiêu chuẩn quyết định cho sự lựa
chọn ngành cần chuyên môn hoá trong phân công quốc tế là điều
kiện tự nhiên về địa lý, khí hậu, nguồn tài nguyên chỉ nước đó mới
có mà thôi. Nói cách khác, sự khác nhau về điều kiện tự nhiên là
nguyên nhân của mậu dịch quốc tế và nó có tác dụng quyết định cơ
cấu mậu dịch quốc tế. Từ lập luận đó, ông ủng hộ tự do kinh doanh,
vì mỗi cá nhân và doanh nghiệp đều có mục đích thu lợi nhuận tối
đa, do đó cho phép tự do kinh doanh sẽ đem lại lợi ích cho toàn xã
hội.
Như vậy, lợi thế tuyệt đối có thể đạt được cho nền kinh tế quốc
dân qua sự phân công lao động quốc tế nếu một quốc gia tập trung
vào sản xuất và xuất khẩu những loại hàng hoá mà chi phí lao động
xã hội để sản xuất ra chúng nằm dưới mức trung bình quốc tế và
13
nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ở trong nước
có tình hình ngược lại.
Trên thực tế, lợi thế tuyệt đối của mỗi quốc gia không có nhiều,
trong nhiều trường hợp quốc gia đó lại không có lợi thế tuyệt đối so
với quốc gia khác và đại bộ phận nền thương mại thế giới là sự hợp
tác quốc tế không phải chỉ dựa trên lợi thế tuyệt đối mà phải dựa
trên một lợi thế bao quát hơn, đó là lợi thế tương đối.
Lý thuyết "lợi thế so sánh" (hay lợi thế tương đối)
Năm 1815, trong tác phẩm “Tiểu luận về buôn bán ngoại thương
ngũ cốc”, nhà kinh tế R.Forens đã phát triển tư tưởng “lợi thế tuyệt
đối” thành tư tưởng “lợi thế tương đối” hay “lợi thế so sánh”.
Hai năm sau, David Ricardo (1772-1823) tiếp tục phát triển tư
tưởng “lợi thế so sánh” thành thuyết “lợi thế so sánh” hoặc cũng
được gọi là quy luật lợi thế tương đối (tác phẩm: “Những nguyên lý
cơ bản của chính sách kinh tế và thuế khoá” hay “Những nguyên lý
của kinh tế chính trị học”). Ông lập luận: Nếu một quốc gia có hiệu
quả thấp hơn so với quốc gia khác trong sản xuất và xuất khẩu hầu
hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào
thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Theo ông, tất cả các
quốc gia ở bất kỳ trình độ và điều kiện sản xuất nào, khi tham gia
vào thương mại quốc tế thì đều có lợi. Khi tham gia vào thương mại
quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất tất cả các loại
hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu loại hàng hoá
14
nào mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có
lợi thế tương đối), và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất
ra chúng ở trong nước là bất lợi nhất (đó là những hàng hoá không
có lợi thế tương đối).
Cơ sở của lý thuyết này chính là luận điểm của Ricardo về sự
khác biệt giữa các nước không chỉ về điều kiện tự nhiên mà còn về
điều kiện sản xuất nói chung. Điều này có nghĩa là bất kỳ quốc gia
nào cũng có thể tiến hành sản xuất mọi sản phẩm, dù có hay không
có các điều kiện tự nhiên, khí hậu phù hợp. Khi nghiên cứu quy luật
về lợi thế tương đối, D.Ricardo đã cho rằng những ngành sản xuất
khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau, hàm lượng lao động kết
tinh trong các loại hàng hoá khác nhau. Việc so sánh hàm lượng lao
động của những mặt hàng khác nhau sẽ dẫn đến các sai lệch về giá
trị tương đối bởi vì việc sản xuất ra những mặt hàng đòi hỏi tỷ trọng
khác nhau về các yếu tố sản xuất.
Đến năm 1939, Haberler đưa ra lý thuyết chi phí cơ hội để
chứng minh cho quy luật lợi thế tương đối một cách rõ ràng. Theo
lập luận của Heberler, quy luật lợi thế tương đối đôi khi được coi
như là quy luật chi phí cơ hội. Theo lý thuyết này, chi phí cơ hội của
một mặt hàng là số lượng những mặt hàng khác mà người ta phải từ
bỏ để sản xuất thêm một đơn vị mặt hàng đó. Theo đó, quốc gia nào
có chi phí cơ hội thấp trong sản xuất một hàng hoá nào đó thì quốc
gia đó sẽ có lợi thế so sánh hay lợi thế tương đối trong sản xuất
15
hàng hoá đó và không có lợi thế trong việc sản xuất hàng hoá kia.
Xuất phát từ sự so sánh chi phí sản xuất của sản phẩm này với chi
phí sản xuất của sản phẩm khác đã dẫn đến một kết luận rằng: Mỗi
quốc gia không nên sản xuất tất cả các loại sản phẩm mà chỉ nên tập
trung vào sản xuất một số các sản phẩm có chi phí sản xuất thấp
nhất (sản phẩm có lợi thế tương đối). Thông qua việc mở rộng sản
xuất các sản phẩm chuyên môn hoá này, các nước có thể trao đổi
những sản phẩm của mình với nước khác. Theo lý thuyết “lợi thế
so sánh”, chuyên môn hoá quốc tế không nhất thiết đòi hỏi phải có
“lợi thế tuyệt đối” mà dựa trên “lợi thế tương đối” mà thôi.
Tuy nhiên, luận thuyết Forrens-Ricardo về “lợi thế tương đối” mới
chỉ ra được cơ sở và nguyên tắc của sự trao đổi và phân công lao động
quốc tế mà chưa chỉ ra được cơ chế hoạt động trên thực tế của nguyên
lý “lợi thế tương đối” như thế nào.
Vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, dưới tác động của nhiều
nhân tố mà trước hết là những biến đổi sâu sắc của cách mạng khoa
học kỹ thuật thế giới và phân công lao động quốc tế, năm 1919 và
năm 1935, hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển là E.Heckcher (18971952) và B.Ohlin (1899-1979) đã tiếp tục hoàn chỉnh lý thuyết lợi thế
so sánh, bổ sung thêm các luận điểm mới của mình khi xem xét tới chi
phí cơ hội và quy luật tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất, chỉ ra cơ chế
hoạt động của quy luật “lợi thế tương đối” bằng định lý về sự cân
bằng giá cả của các yếu tố sản xuất. Hai ông dã bổ sung một mô hình
16
mới, trong đó đề cập đến hai yếu tố đầu vào là lao động và vốn với
những giả thiết (mô hình 2 x 2) như sau:
Có hai quốc gia:
+ Cùng sản xuất hai loại hàng hoá X và Y bằng hai yếu tố sản
xuất là lao động và vốn với cùng một kỹ thuật công nghệ như nhau.
+ Hàng hoá X là loại hàng hoá sử dụng nhiều lao động, và hàng
hoá Y là hàng hoá sử dụng nhiều vốn ở cả hai quốc gia.
+ Không có sự chuyên môn hoá trong sản xuất.
+ Thị trường các yếu tố sản xuất và thị trường hàng hoá là các
thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
+ Có sự chuyển dịch linh hoạt các yếu tố sản xuất trong phạm vi
một quốc gia nhưng không có sự chuyển dịch trong phạm vi quốc
tế.
+ Tài nguyên được sử dụng triệt để ở cả hai quốc gia.
+ Trong mô hình không xét đến các loại chi phí khác như chi
phí vận tải, thuế nhập khẩu hoặc các trở ngại khác cho thương mại
quốc tế tự do.
Với những giả định như trên, định lý Heckcher-Ohlin (H-O)
được phát biểu như sau: Một nước sẽ xuất khẩu hàng hoá mà việc
sản xuất nó cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối phong phú của
nước đó; và nhập khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất nó cần nhiều
yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước đó. Nói vắn tắt, một nước
17
tương đối giầu lao động sẽ xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều lao
động và nhập khẩu hàng hoá sử dụng nhiều vốn.
Với các giả thiết như trên, quốc gia thứ nhất là quốc gia giàu lao
động và lao động là yếu tố sản xuất tương đối rẻ, sẽ xuất khẩu hàng
hoá X vì sản xuất hàng hoá đó cần sử dụng nhiều lao động. Còn
quốc gia thứ hai sẽ xuất khẩu hàng hoá Y vì sản xuất hàng hoá Y sử
dụng nhiều vốn, mà vốn là yếu tố sản xuất tương đối sẵn có ở quốc
gia này. Về bản chất, học thuyết Heckcher-Ohlin căn cứ vào sự khác
biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia để giải thích
về nguồn gốc của thương mại quốc tế.
Mô hình H - O là thuyết hiện đại giải thích về nguồn gốc thương
mại quốc tế. Lý thuyết này được các nhà kinh tế học nổi tiếng như
Rybczynski, Woelfgang Stolper, Paul Samuelson, James William...
tiếp tục mở rộng và phát triển hơn để khẳng định những tư tưởng
khoa học và giá trị thực tiễn to lớn của định lý H - O.
Mô hình H - O đã được phát triển rộng rãi và sử dụng trong việc
phân tích các vấn đề thương mại và tăng trưởng, thương mại và
phân phối thu nhập. Tuy nhiên, trước thực tiễn phát triển rất phức
tạp của thương mại quốc tế hiện nay, mô hình này vẫn chưa hoàn
toàn đáp ứng được về mặt lý luận. Nhưng về cơ bản lý thuyết này
vẫn đang cho phép lý giải các động thái của thương mại quốc tế và
có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với các nước đang phát triển
trong quá trình tham gia và hội nhập thương mại quốc tế. Nó đã chỉ
18
ra rằng: Đa số các nước đang phát triển là những nước có nguồn lao
động dồi dào nhưng lại nghèo về vốn. Do đó, trong giai đoạn đầu
phát triển kinh tế, hay trong giai đoạn đầu của sự nghiệp CNH đất
nước, nên tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu những loại
hàng hoá sử dụng nhiều lao động. Việc lựa chọn phát triển sản xuất
và xuất khẩu các loại hàng hoá phù hợp với lợi thế so sánh về nguồn
lực sản xuất của mình sẽ là điều kiện cần thiết để các nước đang
phát triển có thể nhanh chóng hội nhập vào phân công lao động và
hợp tác thương mại quốc tế. Từ những lợi ích do thương mại quốc
tế đem lại sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế cho đất
nước.
Theo Heckcher và Ohlin, các yếu tố sản xuất được xem xét bao
gồm lao động, đất đai và tư bản. Căn cứ vào các yếu tố sản xuất,
ngày nay các ngành kinh tế được phân ra bốn loại: Ngành sử dụng
nhiều lao động; ngành sử dụng nhiều vật liệu cao; ngành sử dụng
nhiều vốn đầu tư và ngành sử dụng nhiều khoa học - công nghệ cao.
Cũng trên cơ sở căn cứ vào các yếu tố sản xuất, các quốc gia được
chia thành hai nhóm chính: Nhóm các quốc gia có lợi thế về nguồn
lao động và điều kiện tự nhiên (như đất đai, tài nguyên thiên nhiên,
năng lượng...) và nhóm các quốc gia có lợi thế về vốn, khoa học và
công nghệ.
Trên cơ sở những học thuyết kinh tế cho thấy: Sự khác biệt về
nguồn lực là nguồn gốc của thương mại giữa các nước và là cơ sở
19
cho nhu cầu phát triển thương mại quốc tế. Với một nguồn lực riêng
lẻ tương đối phong phú, việc sản xuất ra các sản phẩm sử dụng
nhiều loại nguồn lực đó sẽ rẻ hơn. Như vậy, quốc gia đó sẽ hướng
tới xuất khẩu những sản phẩm mà việc sản xuất ra chúng sử dụng
nhiều nguồn lực quốc gia sẵn có phong phú hơn quốc gia khác. Tuy
nhiên, có nguồn lực chỉ quyết định một phần đến phát triển kinh tế,
vấn đề là phân phối và sử dụng nguồn lực như thế nào. Do nguồn
lực không phải là vô hạn, nếu không nói là khan hiếm, nên con
người luôn phải tìm ra các giải pháp để sử dụng nguồn lực một cách
có hiệu quả nhất. Thương mại phát triển giữa mọi người, giữa mọi
quốc gia sẽ cho phép các quốc gia chuyên môn hoá vào sản xuất ra
các hàng hoá đem lại hiệu quả nhất cho nước mình. Lập luận này
không những đúng cho thương mại giữa các vùng, cho thương mại
trong nước mà còn đúng trong thương mại quốc tế.
Hiệu quả kinh tế theo quy mô hay lợi suất tăng dần theo quy mô
cũng là một nguồn gốc quan trọng của thương mại quốc tế. Thông
thường khi sản xuất một loại hàng hoá với quy mô lớn sẽ cho phép:
Tiết kiệm được nguồn nhân lực và các loại chi phí; sử dụng tối đa
công suất máy móc thiết bị; tạo khả năng tối ưu hoá kế hoạch sản
xuất và phân công lao động chuyên môn hoá sâu. Nhờ đó chất
lượng sản phẩm cũng được nâng lên và giá thành sản phẩm sẽ thấp
hơn so với giá thành cùng loại sản phẩm nếu sản xuất ở quy mô
nhỏ hơn. Cho tới khi quy mô sản xuất lớn tới mức không chỉ thoả
20
- Xem thêm -